THIỀN TÔNG VÀ TRÀ ĐẠO
Trà có công hiệu làm hưng phấn tinh thần, tăng khả năng tư duy, thanh nhiệt giải nóng, giải trừ mệt mỏi, là thức uống rất thích hợp cho tăng đồ Phật giáo sau khi tọa thiền hoặc vào buổi chiều (giới luật Phật giáo quy định "quá ngọ bất thực" - không ăn sau giờ ngọ). Đối với thiền tăng, những khi rỗi rãi ngoài giờ tọa thiền, nhàn đàm vô sự, thì trà là loại thức uống có thể nói là không thể nào thiếu.
Cách đây hơn 4000 năm, Trung Quốc đã biết dùng lá trà để trị bệnh, và lịch sử trồng trà cũng đã hơn 2000 năm. Trong quyển Phong Thị Văn Kiến Lục của Phong Diễn đời Đường có chép về việc uống trà của hệ thiền Bắc tông: "Học thiền cần phải không được ngủ, lai không ăn chiều, nhưng được uống trà. Họ mang theo sẵn, đến đâu cũng pha uống, từ đó dần dần trở thành phong tục". Hệ thiền Nam tông đời Đường cũng xem trọng uống trà, đến mức có công án trứ danh "Uống trà đi" của Triệu Châu. Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển 10, Triệu Châu Tòng Niệm hỏi các vị tăng mới đến: "Đã từng đến đây chưa?" Một vị tăng đáp: "Đến rồi". Triệu Châu nói: "Uống trà đi". Triệu Châu lại hỏi tiếp, vị khác đáp: "Chưa". Triệu Châu cũng bảo: "Uống trà đi". Sau đó, viện chủ hỏi Triệu Châu: "Vì sao người đáp đã đến thì bảo uống trà, mà đáp chưa đến cũng bảo uống trà?" Triệu Châu gọi: "Viện chủ!" Viện chủ đáp: "Dạ!", Triệu Châu nói: "Uống trà đi!" Ngoài ra con có rất nhiều câu chuyện thú vị liên quan đến uống trà trong các bộ đăng lục.
Bát trà đời Đường được tìm thấy ở địa cung chùa Pháp Môn, tỉnh Thiểm Tây.
Đời Đường thường pha trà chung với các phụ liệu, đời Tống có tập quán pha với các hương liệu như long não, trân thái, cúc hoa, làm cho hương vị trà càng thêm nồng đậm. Thời Đường Tống cũng có người thích dùng trà theo kiểu cho trà bánh vào hũ ngâm nước, đợi đến khi dùng thì cho vào bát sứ, đun sôi với lửa nhỏ, rồi uống nước ăn luôn xác trà. Phong tục "ăn trà" này kéo dài đến đầu đời Minh.
Thiền sư Viên Ngộ Khắc Cần đời Tống có viết bốn chữ "Trà Thiền nhất vị" tặng cho đệ tử người Nhật đến tham học. Bức thư pháp này đến nay vẫn còn, được lưu giữ tại chùa Đại Đức ở Nại Lương (Nara), Nhật Bản. Trà đạo Nhật Bản cũng do đó thường nói câu "Trà Thiền nhất vị".
.
Đun trà, tranh của Đinh Vân Bằng đời Minh. Bức tranh dựa vào ý bài thơ "Tẩu bút tạ Mạnh gián nghị ký tân trà" (Viết nhanh cảm tạ quan nghị gián họ Manh gởi cho trà mới) của thi sĩ Lô Đồng đời Đường. Lô Đồng nghiện uống trà, trong tranh ông ngồi trên giường, ở góc giường là lò đun trà, phía trước có đủ các loại trà cụ, bình trà, ấm trà, tách.
"Trà Thiền nhất vị" nói lên mối quan hệ sâu sắc giữa Trà và Thiền. Trong thiền viện thời Đường Tống có dựng riêng "Trà liêu" (quán trà) để chúng tăng dùng trà, và đặt ra chức vụ chuyên phụ trách việc này gọi là "Trà đầu". Trong tùng lâm có quy định về việc cúng trà mỗi ngày nơi bàn thờ Phật, Tổ, Thần linh, và khi vị tân trụ trì nhận chức cũng có nghi thức dùng điểm tâm trà và canh (dùng trà trước, canh sau). Thậm chí còn tổ chức tiệc chuyên dùng trà và canh, gọi là "Trà thang hội". Trong sân vườn của thiền tự Nhật Bản có "Trà đình" được phát triển từ "Trà liêu", "Trà đường" của thiền tự Trung Quốc, có kiến trúc điển nhã, không gian u tịch. Người được tôn làm "Vị tổ của Trà" là Lục Vũ đời Đường, vốn xuất thân từ trong chùa, lúc ba tuổi được thiền sư thu nhận nuôi dưỡng, từ nhỏ đã theo nghề chế biến trà. Bộ Trà Kinh do ông biên soạn viết về lịch sử của cây trà, cách trồng, chế biến, pha chế cùng các loại trà cụ và phong tục uống trà. Sau Lục Vũ, phong tục dùng trà ngày càng phát triển thịnh hành. Thiền sư Nhật Bản là Mình Am Vinh Tây đến Trung Quốc vào đời Tống, khi về nước mang theo một bao hạt giống trà, tự tay trồng ở núi Bối Chấn (Sefuri), Tá Hạ (Saga). Để khuyến khích thiền tăng uống trà, Vinh Tây còn viết quyển "Khiết trà dưỡng sinh ký" (Kissa Yojoki).
Phong tục uống trà lúc đầu phổ biến trong tự viện Phật giáo, nhất là trong giới thiền tăng, sau đó lan đến giới văn nhân sĩ đại phu và tầng lớp bình dân trong xã hội, quá trình này ở Trung Quốc và Nhật Bản đều diễn ra như nhau. Ở Nhật Bản, sau khi truyền ngập giống trà và phương pháp pha chế của Trung Quốc, dần dần phát triển thành một loại hình nghệ thuật đặc sắc là Trà đạo.
Đời Tống ở chùa Kính Sơn thịnh hành hình thức ngồi vòng quanh uống trà luận bàn thiền pháp, trà được dùng là lá trà sau khi chế biến sấy khô, nghiền nát vụn, gọi là "Mạt trà" (trà bột). Niên hiệu Hàm Thuần (1265-1274), thiền sư Nhật Bản là Nam Phố Chiếu Minh đến Trung Quốc cầu học, khi về nước đã đem phương pháp chế biến và cách uống Mạt trà truyền vào Nhật Bản, khai sáng nghệ thuật Trà đạo. Đến nay, Mạt trà vẫn là thượng phẩm trong Trà đạo. Trà đạo mang đậm Thiền vị, thể hiện tư tưởng "Trà thiền nhất vị". Ở Nhật Bản, người đẩy việc uống trà lên hàng nghệ thuật là Thiên Lợi Hưu (Senno Rikyu), có nói "Chân đế của Trà đạo ở thảo am". "Thảo am" là một nhà nhỏ dựng biệt lập, bên trong bài trí đơn giản mộc mạc, tạo không khí thanh tĩnh, u tịch, hướng đến sự tĩnh tại của tinh thần.