CÁC TÔNG PHÁI THIỀN TÔNG HÀN QUỐC
Phật giáo Hàn Quốc được truyền nhập từ Trung Quốc vào thế kỷ 4 sCN. Thiền tông Hàn Quốc về mặt pháp thống và tư tưởng đều liên hệ mật thiết với Thiền tông Trung Quốc, biến thiên qua các thời đại Tam Quốc, Tân La, Cao Ly, Lý Triều, từ phát triển, đạt hưng thịnh rồi suy tàn.
Pháp Lãng và Thần Hạnh là hai thiền sư truyền bá Thiền tông sớm nhất ở bán đảo Triều Tiên. Pháp Lãng đến Trung Quốc vào niên hiệu Trinh Quán đời Đường (627-649), được Tứ Tổ Đạo Tín truyền thụ thiền pháp, còn Thần Hạnh đến Trung Quốc theo Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn học thiền pháp. Hai vị sau khi về nước truyền bá thiền pháp nhưng thời này Thiền tông vẫn chưa được hình thành. Sau đó, nhiều người Tân La lần lượt đến Trung Quốc học thiền. Năm Khai Nguyên thứ 16 đời Huyền Tông, người con thứ ba của quốc vương Tân La đến Trường An, được sắc trú ở chùa Thiền Định, về sau đến Tứ Xuyên theo học thiền sư Trí Sằn, đổi pháp hiệu thành Vô Tướng. Cũng trong đời Đường, cao tăng nước Tân La là Bản Như đến Trung Quốc học thiền pháp ở Nam Nhạc Hoài Nhượng, trở thành pháp tự của Hoài Nhượng. Đệ tử tái truyền của Hoài Nhượng là Tây Đường Trí Tạng có các thiền tăng Tân La theo học là Đạo Nghĩa, Huệ Triết, Hồng Trực. Trong đó, Đạo Nghĩa chính là người khai sáng Thiền tông Hàn Quốc.
Đạo Nghĩa, pháp hiệu nguyên là Minh Tịch, đến Trung Quốc vào năm 784 (niên hiệu Kiến Trung thứ 5 đời Đường Đức Tông). Sau khi đến Trung Quốc, đầu tiên Đạo Nghĩa đi Tào Khê cúng bái, sau đó đến chùa Khai Nguyên ở Hồng Châu, Giang Tây bái Tây Đường Trí Tạng làm thầy, Trí Tạng rất coi trọng, đổi pháp hiệu thành Đạo Nghĩa. Đạo Nghĩa ở Trung Quốc 37 năm, sau khi về nước ra sức hoằng dương thiền đốn ngộ Nam tông, có phần khác với thiền pháp mà Pháp Lãng, Thần Hạnh đã truyền bá từ trước, trở thành Sơ tổ núi Ca Trí sơn. Từ thời Đạo Nghĩa về sau, người đến Trung Quốc cầu pháp rồi trở về nước truyền bá Thiền tông ngày càng nhiều, Thiền tông Hàn Quốc tiến vào thời kỳ hoàn thịnh, xuất hiện "Thiền môn cửu sơn" - chín biệt phái Thiền tông là: Ca Trí sơn phái, Đồng Lý sơn phái, Thực Tướng sơn phái, Thánh Trụ sơn phái, Xà Quật sơn phái, Sư Tử sơn phái, Hi Dương sơn phái, Phượng Lâm sơn phái, Tu Di sơn phái.
Trong thời kỳ Vương triều Cao Ly, các phái Thiền tông phát triển rất mạnh, xuất hiện nhiều thiền sư lừng danh. Sau đó, tương tự như Phật giáo Trung Quốc, Thiền tông Hàn Quốc cũng đi vào hướng Thiền tịnh song tu.
.
Điện tàng trữ kinh sách của chùa Hải Ấn, Hàn Quốc. Chùa Hải Ấn nổi danh thế giới với bộ Cao Ly Đại Tạng Kinh bảo tồn ở đây.
CÁC TÔNG PHÁI THIỀN TÔNG VIỆT NAMPhật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng chủ yếu từ Phật giáo Trung Quốc, nhất là Thiền tông. Cho đến thời cận đại, Phật giáo Việt Nam về đại thể đều thuộc Thiền tông (Lâm Tế tông), có thể chia thành ba thiền phái chính: Thiền phái Tì-ni-đa Lưu-chi, Thiền phái Vô Ngôn Thông và Thiền phái Thảo Đường.
Thiền phái Tì-ni-đa Lưu-chi tương truyền do tăng nhân Nam Ấn Độ Tì-ni-đa Lưu-chi (còn được dịch là Diệt Hỉ) khai sáng, còn có tên là thiền phái Diệt Hỉ. Tì-ni-đa Lưu-chi đến Trung Quốc vào năm 574, theo học Tam Tổ Tăng Xán, được truyền thụ thiền pháp Lăng-già sư. Năm 580, Tì-ni-đa Lưu-chi đến Việt-Nam, truyền pháp ở chùa Pháp Vân (chùa Dâu) tỉnh Hà Bắc, có đệ tử đắc pháp là Pháp Hiền. Từ Pháp Hiền truyền đến đời thứ 8 là Định Không thì phổ hệ truyền pháp dần rõ ràng, phong cách đặc sắc của thiền pháp Nam tông Huệ Năng cũng ngày càng rõ nét.
Tháp chùa Thiên Mụ ở Thuận Hóa, Việt Nam.
Thiền phái Vô Ngôn Thông do thiền sư Trung Quốc Vô Ngôn Thông sáng lập. Vô Ngôn Thông, họ thế tục là Trịnh, người Quảng Châu, là đệ tử đắc pháp của Bách Trượng Hoài Hải. Năm 820 (năm Nguyên Hòa thứ 15 đời Đường) đến Việt Nam truyền thiền pháp, đời đời nối nhau, pháp tự không dứt, đến đời nhà Lý, thiền phái Vô Ngôn Thông đạt đến toàn thịnh, trở thành tông phải chính của Phật giáo Việt Nam. Đến thời cận đại, Thiền tông Việt Nam về đại thể vẫn thuộc thiền phái này.
Thiền phái Thảo Đường do thiền sư Thảo Đường người Trung Quốc truyền vào. Thảo Đường là đệ tử của Tuyết Đậu Trùng Hiển. Ở chùa Khai Quốc chủ yếu giảng "Tuyết Đậu bách tắc" (vì vậy phái này con có tên là Tuyết Đậu Minh Giác phái). Thiền phái Thảo Đường trong một thời phát triển rất nhanh.
Ngoài ra, Thiền tông Việt Nam còn có thiền phái Trúc Lâm, đây là chi phái của thiền phái Vô Ngôn Thông. Phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông (cũng được gọi là Điều Ngự Thánh Tổ) khai sáng. Đến thế kỷ 16, phái Trúc Lâm dần dần chịu ảnh hưởng của Tịnh độ giáo, kết hợp thiền pháp Lâm Tế và niệm danh hiệu Phật A-di-đà, chủ trương thiền tịnh song tu, Thiền Giáo thống nhất, rất tương tự với thiền phong Trung Quốc từ đời Tống Minh về sau.