Phần I ĐIỆP VỤ THÁM BÁO
Một đêm giữa tháng mười, sương giăng mờ mịt khắp vùng núi non trùng điệp. Nửa vầng trăng hạ huyền mọc muộn bị lớp mây mù bao phủ hắt xuống không gian một thứ ánh sáng lờ nhờ như nước gạo chẳng thể xua đi màu tím tái của cánh rừng âm u. Cỏ cây sũng nước run lên bần bật mỗi lúc luồng khí lạnh rợn người theo cơn gió bấc ù ù thổi tới, hòa vang cùng tiếng gù khô khốc của con chim cu gáy ẩn mình trong bụi rậm tạo thành một thứ hỗn âm đặc quánh. Đâu đó vọng lại nhịp vó câu tiếng được tiếng mất…
Rừng hoang không có lối mòn. Ba bóng người cúi thấp đầu trên những con tuấn mã đang len lỏi giữa dốc núi rậm rì cây cỏ. Một tay giữ dây cương, một tay vung mã đao chặt lia lịa đám dây leo chằng chịt, các tráng sĩ thúc gót chân vào bụng ngựa hối hả mở đường qua cánh rừng gập ghềnh đất đá. Phía dốc bên kia là khe Tả Pạc Nầm, nơi có dòng Bản Thí chảy xuôi, đổ nước cuồn cuộn về hướng đông nam bấy giờ đang vào mùa lũ. Phía dốc bên kia là quê cha đất tổ, là cương vực được xác lập từ hàng trăm năm trước của giang sơn Đại Việt, sau ngày Ngô Vương cưỡi sóng Bạch Đằng đại phá quân Nam Hán giành lại quyền tự chủ.
Họ là ba thám báo của triều đình được Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mật phái sang phương Bắc để điều tra địch tình đế chế Nguyên Mông vốn từ lâu nuôi dưỡng dã tâm rửa hận trận chiến thất bại năm Nguyên Phong thứ tám (1258). Sau khi diệt nhà Nam Tống (1279), Hốt Tất Liệt đã ráo riết chuẩn bị lực lượng Nam chinh, quyết thâu tóm cái lãnh thổ vốn bé nhỏ yếu ớt mà dám có thái độ khinh mạn nước lớn bằng việc năm xưa dụng binh đuổi đánh đội quân bách chiến bách thắng của Ngột Lương Hợp Thai. Trong cách nghĩ của hoàng đế Trung Hoa, bọn phiên thuộc Nam man đáng bị trừng phạt, vua An Nam đã không biết lỗi phạm thượng còn viện cớ thoái thác qua chầu cửa khuyết nơi kinh đô Đại Nguyên, lại mấy lần khước từ sứ giả thiên triều sang mượn đường diệt Chiêm Thành.
Đoán biết mối hiểm họa từ ý đồ của nhà Nguyên, sau ngày Thái thượng hoàng nhường ngôi cho Quan gia, Đại Vương đã bàn bạc kỹ lưỡng với nhị vị hoàng đế về kế sách phòng bị kẻ thù, ngài nhất thiết thỉnh cầu quân vương cho dùng chiêu nhập quan thám báo. Việc đưa người trà trộn vào đám lưu dân viễn xứ, vượt quan ải xâm nhập đất giặc nghe ngóng động tĩnh của chúng là để tránh bị động trước khả năng vó ngựa Mông Thát bất ngờ kéo vào giày xéo non sông ta. Năm năm trước, Vương tuyển lựa kỹ trong đội gia binh chọn được hơn chục tráng sĩ trung thành và tinh anh nhất, giỏi võ nghệ và quả cảm nhất, rồi chia thành ba nhóm theo ba hướng đột nhập lãnh thổ Đại Nguyên.
Nhóm thứ nhất gồm năm người vượt biển bằng thuyền buôn, đích đến là vùng Châu Giang, vốn miền châu thổ trù mật thường được các đế chế phương Bắc tập kết lương thảo, quân trong mỗi lần mưu đồ đánh dẹp phương Nam.
Nhóm thứ hai gồm ba chiến binh sơn cước vượt núi cao vực thẳm vào Vân Nam giả dạng làm thợ mộc lang bạt kiếm sống bằng nghề sửa nhà, dựng cửa. Đất này vốn thuộc vương quốc Đại Lý có quan hệ hữu hảo với nhà Trần, sau khi bị Mông Cổ tiêu diệt (1253), Vân Nam trở thành một tỉnh của đế quốc Đại Nguyên. Sử sách nhiều lần ghi nhận quân Trung Hoa tràn vào nước Nam theo ngả tây men sông Hồng, trong đối sách của Đại Vương không thể xao nhãng hướng đó.
Nhóm thứ ba gồm ba chiến binh do Đào Thế Quang làm nhóm trưởng cùng với hai thành viên là Đỗ Thành và Phạm Thái giả dạng dân buôn thuốc bắc theo đường quan ải xâm nhập vào vùng Quảng Nam Tây Lộ, tức Quảng Tây ngày nay. Đây là hướng tiến đánh chủ yếu của các đạo quân phương Bắc khi kéo sang xâm lược nước Nam, Đại Vương hiểu rõ tầm quan trọng của hướng này nên giao phó trọng trách cho ba tráng sĩ tài giỏi nhất trong đội ngũ thám báo cảm tử.