← Quay lại trang sách

Chương 1 Vung đao gạt tên, tôi trung phá bẫy đèo Tam Điệp
Giả dạng mua thuốc, tráng sĩ dò tin nước Đại Nguyên

Đào Thế Quang người huyện An Định, châu Gia Lâm, lộ Bắc Giang, hình dung cao to vạm vỡ, mặt chữ điền, da bánh mật, thông thạo tiếng Tày-Nùng, tuổi đời mới ngoài ba mươi mà có đến mười hai năm đầu quân vệ phủ canh giữ tư dinh Đại Vương và tháp tùng hộ vệ khi ngài công cán xa nhà. Với tư chất thông minh tuấn tú, lại được rèn giũa võ nghệ từ người cha vốn là chưởng cơ trong vệ Tứ Thiên phò tá xa giá Thái Tông Hoàng đế chinh phạt Chiêm Thành phạm cõi năm Nguyên Phong thứ hai (1252), Thế Quang sớm thành trang tuấn kiệt tinh thông đao kiếm và cung tiễn. Tài múa đao của chàng từng nức lòng chiến hữu vệ phủ sau lần bảo đảm an nguy của Đại Vương trong trận thoát hiểm ở đèo Tam Điệp.

Mùa xuân năm Bảo Phù thứ năm (1277), người Man ở động Bố Chính khởi loạn. Thánh Tông Hoàng đế thân chinh đánh dẹp, lần ấy Hưng Đạo Vương tháp tùng nhà vua nam hạ. Vừa dứt nhiễu nhương thì được tin Thượng hoàng Trần Thái Tông băng hà, quân thần vội quay về kinh đô chịu tang, trong khi chưa thật yên bụng về lòng người ở vùng biên ải xa xôi cách trở.

Đến cuối hạ, Thánh Tông cắt cử Hưng Đạo Vương công du phương nam một chuyến nữa, cốt mục đích đôn đốc việc quân cơ các trấn, lộ miền núi, đồng thời thay mặt Quan gia phủ dụ thủ lĩnh các trại, động nhằm thu phục nhân tâm sơn cước. Tháp tùng theo Vương có Ngự sử Trần Trung Chính.

Chuyến đi ấy, Đào Thế Quang góp mặt trong đội vệ binh phò tá Đại Vương. Muốn đến Hoan Ái, phải đi qua vùng núi Tam Điệp hiểm trở. Họ tới chân núi thì trời vừa nhá nhem, bầu đoàn chủ tớ hơn năm mươi người tranh thủ đốt đuốc vượt đèo trước khi tối mịt. Lúc đi vào hẻm núi thắt cổ chai, bất chợt có tiếng xé gió vào vèo của trận mưa tên từ hai sườn non tới tấp lao xuống.?

Bị tập kích bất ngờ khiến đoàn người trở tay không kịp, nhóm vệ sĩ tiên phong bị trúng tên, người ngựa ngã nhào quằn quại trên mặt đất. Con ngựa chiến của Đại Vương cũng trọng thương, cặp chân trước khuỵu xuống hất chủ văng khỏi yên, làm chân trái của ngài mắc vào bàn đạp trong cái thế hai tay chống đất còn lưng phơi lên trời.

Thấy chủ tướng lâm nguy, nhanh như một tia chớp, Thế Quang từ hàng sau vọt ngựa lao lên vung đao múa bài Cuồng phong bạt vũ , gạt rụng hàng chục mũi tên bắn xuống, che chắn kín bưng khoảng không trên đầu Đại Vương. Đao pháp tuyệt kỹ của chàng trong ánh đuốc bập bùng như rồng phượng vờn mây, màu kim loại của thanh đao vun vút chói lòa tựa chớp giật, va đập vào tên bay tạo thành mớ hợp âm chan chát như tiếng phạt tre trúc. Cùng đồng thanh hét vang, ba bốn tráng sĩ từ phía sau khẩn trương lao đến tiếp cận Đại Vương, vừa dùng khiên che chắn thân mình chủ tướng vừa hối hả gỡ chân Hưng Đạo khỏi con ngựa đang hấp hối.

Thoát tình thế hiểm nghèo, Đại Vương bật dậy, dõng dạc điều khiển bình tướng bằng giọng trượng phu sang sảng:

– Ở giữa bố trí phòng thủ hình chữ điền, giương khiên bốn mặt chặn tên. Lương Bành lập đội thứ nhất đánh lên hướng trái, Tuấn Thọ lập đội thứ hai tiến lên hướng phảiTrung tâm bố điền thủ, tứ diện thương khiến đoạn tiễn. Lương Bành lập nhất thê đội công tả, Tuấn Thọ lập nhị thê đội tấn hữu.

Hơn bốn chục tráng sĩ còn khả năng chiến đấu nhanh chóng chuyển hóa từ thế trận hỗn loạn sang đội ngũ bài bản, kẻ công người thủ khẩn trương quyết liệt. Đội phòng thủ hơn hai chục người quây kín xung quanh Đại Vương và Ngự sử Dụng Vũ Hầu Trần Trung Chính, tạo thành một khối vững như bàn thạch. Biết Vương đã an toàn, Thế Quang bèn nhập đội phản công, cùng các tráng sĩ của hai tì tướng Lương Bành và Tuấn Thọ ào ạt đánh thốc lên hai sườn núi. Họ đều là những trang kiệt xuất, võ nghệ và sức khỏe hơn người, lại dày dạn kinh nghiệm trận mạc nên chốc lát đã tiêu diệt gần hết đám mai phục, trừ vài tên hoảng sợ lẩn vào bóng đêm trốn thoát.

Ba mươi mấy tử thi bí ẩn vận trang phục màu chàm, mặt bôi nhọ nồi đen kịt nằm phơi xác rải rác hai bên sườn núi. Quan Ngự sử Dụng Vũ Hầu phát hiện một xác chết chít dải lụa đỏ ngang hông nghi là kẻ cầm đầu, lại trông diện mạo khá quen bèn cho người chùi sạch nhọ trên mặt hắn thì ngài nhận ra đó là môn khách nhà Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc.

Hưng Đạo Vương đã nghi ngờ âm mưu phản nghịch của Chiêu Quốc từ dạo ấy, song không có tang chứng cụ thể nên không thể loại trừ mưu đồ bán nước của y từ trong trứng nước. Ngài cứ tiếc rẻ mãi vì không bắt sống được một tên thích khách nào để giải về kinh bẩm tấu Quan gia. Về sau, khi quân Nguyên kéo sang, Ích Tắc đã dẫn gia quyến, thuộc hạ và bọn quan tướng đồng mưu phản loạn kéo nhau đi hàng giặc, tiếp tay cho lang sói giày xéo tổ tông xã tắc.

Sau trận thoát hiểm ở đèo Tam Điệp, Thế Quang được Đại Vương tin dùng lắm, ngài đối đãi chàng như thủ túc thân tín và thường giao phó những việc hệ trọng. Nhiệm vụ đột nhập Trung Quốc qua xứ Lạng, Vương cho rằng không ai có thể gánh vác tốt hơn Thế Quang. Song ngặt nỗi nhà hắn neo đơn, cha đã qua đời nhưng còn mẹ già đau ốm, vợ lại đang có chửa, bây giờ mà sai đi xa nhiều ngày thì quả tình ngài không nỡ. Thành thử việc tuyển người đột nhập Ung Châu khiến Đại Vương cứ lấn cấn mãi mà chưa quyết được.

Thế rồi chính Đào Thế Quang cảm thấy không vui lúc biết các toán vượt biển và xâm nhập Vân Nam đã lên đường cả, trong khi mình chẳng được giao nhiệm vụ gì. Chờ lúc thuận tiện chàng ta bạo mồm hỏi thẳng Đại Vương:

– Bẩm chủ tướng, nếu tiểu nhân có gì sai trái thì xin ngài cứ quở phạt?

Vương hỏi lại:

– Ngươi nói vậy là ý làm sao?

Thế Quang đáp:

– Tiểu nhân thấy ngài cử nhiều anh em đi làm công vụ đặc biệt, trong khi tiểu nhân lại không được ngài sai việc, nên nghĩ rằng mình không xứng đáng tin dùng.

Hưng Đạo Vương nhìn thuộc hạ của mình bằng ánh mắt trìu mến, rồi thủng thẳng nói:

– Ta hiểu rồi. Không phải như ngươi nghĩ đâu, chẳng qua công việc này rất mạo hiểm, lại phải xa nhà hàng năm. Mẹ ngươi thì yếu, vợ ngươi thì sắp sinh con, nên ta không đành cắt cử.

Nghe chủ tướng nói vậy, Thế Quang đứng ngây người mà trào nước mắt cảm động. Rồi chàng quỳ xuống trước mặt Vương, khẩn khoản:

– Tiểu nhân tệ quá, tấm lòng Đại Vương cao sâu như trời biển mà bầy tôi lại không nghĩ ra. Mong ngài lượng thứ mà cho tiểu nhân được tham gia trọng trách để báo đáp công đức của người. Còn mẹ già và vợ của tiểu nhân thì đã có mọi người trong thái ấp làm chỗ dựa, nên tiểu nhân không cần lo nghĩ nhiều.

Hưng Đạo xét thấy lý tình đều thuận, chấp nhận cử Thế Quang cầm đầu toán đột nhập Ung Châu thu thập tin tức của giặc Thát. Thế là cái khúc mắc trong lòng ngài đã được tháo gỡ nhanh chóng.

Giã biệt người vợ trẻ là Phạm Thị Hương đang bụng mang dạ chửa, tạ từ mẹ già vừa qua cơn bạo bệnh, lòng còn đôi chút băn khoăn việc nhà nhưng chí nam nhi đâu thể khoanh tay trước mối an nguy của quốc gia – dân tộc, Thế Quang tạm gác tình riêng để dấn thân vào chốn sinh tử, mang theo niềm tin sắt đá về đời sống của gia đình mình sẽ được Đại Vương và đồng đội chu toàn.

Trước lúc chia tay, Thế Quang thổ lộ tâm ý của mình với người vợ yêu dấu:

– Khi nàng vượt cạn không có ta ở nhà, nhưng dù ở đâu ta cũng cầu mong mẹ tròn con vuông. Nếu nàng sinh con trai hãy đặt tên con là Thái Bình, nếu sinh con gái đặt tên là An Nhiên.?

Thị Hương rưng rưng nước mắt, lặng lẽ gật đầu. Nàng hiểu ngụ ý sâu xa của chồng. Chàng sẵn sàng xả thân vì nước mà bôn ba đất giặc nhưng cõi lòng chỉ ao ước được sống đời yên ổn bên những người thân yêu. Dẫu mang thân phận chiến binh nhưng trái tim của chàng vẫn luôn khát khao về một chốn dung thân tốt lành cho gia đình, về một tương lai an hòa cho quê hương, đất nước.

Phạm Thị Hương là con một người tá điền trong thái ấp Vạn Kiếp của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, bởi tính nết hiền thục lại có dung mạo xinh tươi, nên khi mới mười bốn tuổi đã được Thiên Thành phu nhân tuyển làm thị nữ phục dịch trong vương phủ. Đến tuần cập kê, hương sắc nở rộ như đóa hoa mùa xuân, cho dù mang thân phận tôi đòi, vẻ đẹp của Thị Hương vẫn làm rung động trái tim của không ít gia tướng, tiêu binh lẫn môn khách trong nhà Đại Vương. Song họ chỉ có thể chiêm ngưỡng và thầm ước trong lòng mà không thể ve vãn tỏ tình, bởi sớm tối nàng đều ở cạnh phu nhân. Phần nữa, chưa ai dám qua mặt nữ chủ hoàng tộc mà cả gan quyến rũ người hầu gái xinh đẹp được bà rất yêu quý, chẳng kẻo lại mang tội phạm thượng với Trưởng công chúa.

Thiên Thành phu nhân hiểu hơn ai hết về tình cảm trai gái, bà thường xuyên dạy dỗ các thị nữ của mình:

– Con gái có nhan sắc hay bị đám mày râu ngắm nghía. Họ nhìn bằng mắt thì kệ họ, mấy đứa chớ có dại mà nảy sinh tình ý vụng trộm với người ta kẻo lại chuốc họa vào thân. Biết gìn hương giữ nhụy cho lành thời giá càng cao. Mai mốt đứa nào muốn hoàn gia lấy chồng thì ta sẽ kiếm cho một người phù hợp mà ăn đời ở kiếp với nhau.

Hưng Đạo nghe thấy Thiên Thành nói thế cứ tủm tỉm cười mãi. Tối đến, khi chỉ có hai người, ngài bèn giỡn vợ:

– Phu nhân dạy tì nữ khéo quá. Sao ngày trước nàng không thực hành như vậy mà lại nảy sinh tình ý rồi hẹn hò với ta tại nhà Nhân Đạo Vương?

Biết Vương đùa cợt về chuyện cũ, Thiên Thành phu nhân đỏ mặt, bà lườm chồng rồi ăn miếng trả miếng:

– Tại Vương tán tỉnh ngọt ngào lắm khiến thục nữ xiêu lòng. Biết Quan gia gả ta cho người khác sao huynh không chấp nhận cho rồi lại lồng lên như cọp trúng thương? Thấy tội nghiệp nên ta chẳng nỡ dứt.

Vương bồi tiếp một câu:

– Trai trẻ nào mà chẳng hiếu cầu, vì nàng duyên dáng như hoa nên ta quyết giành cho được. Đấy là chưa kể có người còn làm thơ nhắn nhe xa xôi, đến giờ ta vẫn nhớ hai câu Sen nhốt ao tù buồn kém ngát. Quân tử vì sao ngại động lòng?Liên hoa phương tỏa bao trì uất. Quân tử vi hà pha động tâm.

Phụ nhân cả thẹn đành hạ giọng:

– Đừng nhắc lại nữa, xấu hổ lắm. Từ đó ta cũng rút ra được một bài học để khuyên bảo thị tì. Trước kia nhờ Thụy Bà và Quan gia bồi hoàn hôn sự cho Trung Thành Vương thì mình mới êm xuôi, còn bây giờ bọn gia nhân lụy tình lỡ vướng vào chuyện gian díu thời lấy gì ra mà bồi thường?

Vương nghe xong bèn cười khà khoái chí, ngài bảo với vợ:

– Ta và nàng đúng là trời sinh một đôi.

Phu nhân nói nhỏ:

– Câu này ông nói mãi rồi. Đừng giỡn nữa, tôi tớ nghe được thì chúng cười cho. Có cả bầy cháu nội mà vẫn tưởng mình còn trẻ trung lắm.

Để thưởng công tùy tùng sau chuyến phò Vương ở đèo Tam Điệp, Hưng Đạo đặc cách cho ba người là Lương Bình, Tuấn Thọ và Đào Thế Quang được đề đạt sở nguyện. Khi ngài hỏi về yêu cầu, Thế Quang cứ ấp úng mãi rồi mới chịu bày tỏ:

– Bẩm, tiểu nhân không dám đòi hỏi gì to tát, quả tình nguyện vọng của tiểu nhân chỉ có Đại Vương phu nhân mới giải quyết được.

– Thì người cứ nói, có gì ta sẽ bàn bạc với phu nhân lo liệu cho. – Vương truyền bảo.

– Dạ thưa… tiểu nhân chỉ muốn cưới tì nữ Phạm Thị Hương làm vợ.

Đại Vương nghe xong cả cười, mà rằng:

– Đòi hỏi như thế không nhỏ đâu. Thôi được rồi, để ta nói với phu nhân một tiếng.

Hưng Đạo nói lại với vợ, Thiên Thành cho rằng Thế Quang cũng xứng với Thị Hương:

– Hắn là trang tuấn kiệt dám xả thân cứu chủ, tính tình lại hiền lành dễ chịu, nhưng dù sao cũng không thể gả ép, phải hỏi ý của Thị Hương đã.

Được phu nhân ướm lời, Thị Hương mặt đỏ như gấc chín, thẹn thùng nấp sau cây cột nhà mà không chịu nói một câu. Nhìn điệu bộ, biết thị nữ của mình đã mười phần ưng thuận, chẳng qua ngượng ngùng không dám mở miệng, bà bèn vờ như thật:

– Không nói gì chắc là không hài lòng. Thế cũng được, ta không nỡ ép. Để ta nói lại với Thế Quang rồi kiếm cho y một đứa khác.

Bấy giờ Thị Hương vội vã buột lời:

– Con ưng ý mà.

Thiên Thành phu nhân đứng ra làm chủ hôn cho đôi lứa, còn cho một ít tiền bạc làm hồi môn. Đại Vương cấp cho vợ chồng trẻ một khoảnh đất trong thái ấp để làm nhà và trồng cây. Dùng tiền dành dụm cùng món tiền chủ cho, họ dựng được một mái nhà xinh xắn với sự trợ công của anh em đồng ngũ. Lấy được người thầm yêu trộm nhớ, lại có nhà ngói ba gian và năm sào ruộng tốt, Thế Quang chẳng còn ao ước gì hơn, nên ơn nghĩa của Đại Vương đối với chàng sâu nặng không kể xiết.

Thỉnh thoảng mỗi lần vui chuyện, các huynh đệ thường đùa cợt Thế Quang “Đâu cần của cải đất đai, chỉ cần mỹ nhân là đủ. Cuối cùng lại được cả vợ đẹp lẫn đất đai nhà cửa. Huynh đúng là cao thủ có một không hai”. Bị các bạn chòng ghẹo, Quang chẳng hề giận, chỉ tủm tỉm cười hiền lành, còn trong lòng thì mãn nguyện lắm.

Theo quy ước của chủ tướng, các nhóm thám báo sau khi trà trộn và ổn định vỏ bọc ở đất khách thì hằng năm cử người luân phiên về cố hương báo cáo địch tình. Ngài còn giao ước cứ vào tiết cuối thu sẽ cho người lên điểm hẹn ở vùng biên để chờ đón người về. Nhược bằng tình hình nguy cấp, bất luận thế nào cũng phải khẩn trương cấp báo.

Gần năm năm phiêu lưu đất khách, nhóm của Thế Quang đã bốn lần thay nhau về nước, chàng là đại ca nên nhường cho đàn em đi hai chuyến đầu, đến chuyến thứ ba mới lai đáo quê nhà. Ngày đi con chưa chào đời, ngày về cậu bé Thái Bình đã bi bô hát đồng dao:

Trời xanh mây trắng

Đồng vàng ruộm nắng

Cho thóc đầy bồ

Vui đời nông phu

Phú cường Việt quốc…

Nhìn vợ con khỏe mạnh tươi vui, mẹ già da dẻ hồng hào, nhà cửa khang trang tươm tất, Thế Quang quay mặt giấu giọt lệ mừng mà trong lòng tràn đầy cảm xúc trước ân nghĩa của Đại Vương dành cho gia đình mình.

Dù làm phận sự gián điệp trên đất Nguyên, nhưng Thế Quang luôn thầm ước trong lòng đừng bao giờ phải chứng kiến việc đối phương tập kết lực lượng sang chinh phạt nước Nam, đừng bao giờ phải báo tin về nước kế hoạch động binh của giặc, để họa chiến tranh chỉ là một cơn ác mộng không có thật trong đời, bấy giờ nước nhà sẽ được bình an, mọi người dân sẽ được sống đời yên ổn. Song thực tế diễn ra lại hoàn toàn khác hẳn, những hiện tượng bất thường ngày một nhiều hơn từ lực lượng quân sự Nguyên Mông ở khu vực chỉ cách biên giới Đại Việt dăm ba ngày đường, đủ khiến nhóm thám báo của Thế Quang tin rằng tình hình đang chuyển biến cực xấu.

Cuối hạ năm ấy, trước những dấu hiệu rất đáng lo ngại, Thế Quang lo nghĩ về một lò lửa chiến tranh đang được nhen nhóm từ bên này biên giới, chàng bàn với anh em tăng cường thu thập tin túc, khi xác định rõ ý đồ của đối phương sẽ cấp báo một thể. Họ tỏa đi nhiều hướng lân la quanh các vùng có trại giặc đồn trú, mượn danh thương lái dạm mua đương quy, đỗ trọng rồi vui chuyện phiếm về cuộc sống và thế sự mà lượm nhặt thông tin thiết yếu từ người dân địa phương.

Hiện tượng các trại binh hoành tráng mới thiết lập tại Long Châu, Giang Châu; việc các đạo quân hàng vạn người từ Quý Châu, Hồ Nam kéo sang nườm nượp; việc những kho chứa tấp nập thu nhận hàng đoàn xe chở đầy lương thảo; việc các trại ngựa đón nhận hàng ngàn con chiến mã khỏe mạnh; việc đám tướng sĩ Nguyên Mông suốt ngày tập luyện cung kiếm, trận cờ, trận mã trên những cánh đồng, sườn đồi, bãi sông; việc quan lại địa phương đôn đốc tuyển dụng dân binh kèm theo những lời hứa về khả năng tha hồ vơ vét chiến lợi phẩm; những lời đồn đại râm ran trong dân chúng về một cuộc thanh tảo Nam man rầm rộ; tất cả những thông tin quý giá đó kết hợp lại thành dấu hiệu chắc chắn về một trận cuồng phong kinh thiên động địa đang vần vũ hướng đến trời Nam.

Đêm ấy, trong căn nhà nhỏ ở trấn Hồ Biên, Thế Quang bàn tính với hai chiến hữu:

– Tình hình rất nguy cấp, chắc chắn giặc sẽ động binh một ngày không xa. Tới hẹn mà chưa thấy người về, Đại Vương ở nhà có lẽ lo nghĩ lắm, huynh xem lịch thì hai ngày nữa là tiết Tiểu tuyết, các em chuẩn bị ngựa và lương thực, ta sẽ lợi dụng sương mù để đào thoát về nước. Lần này chúng ta về cả, phải bằng mọi giá cấp báo với Đại Vương, ba người sẽ thuận lợi hơn một người, nếu gặp chuyện bất trắc cũng dễ bề thu xếp.

Đỗ Thành nghe huynh trưởng bảo vậy, đầu gật gù, tay vỗ đùi đôm đốp, rồi nói:

– Phải đấy, không thể chậm trễ nữa. Đệ mới nghe được một tên đội lè nhè trong tửu quán lúc say khướt: “Ta đặt trước ba vò rượu Kim Môn, ngày Đông chí khao thuộc hạ trước khi nhổ trại”. Hằng năm, vào ngày này trời thường rét đậm, có lẽ lũ Nguyên thừa cơ các đồn binh quan ải của ta vì rét mướt ắt trễ nải phòng bị mà tiến đánh bất ngờ.

Thế Quang đồng ý với cách nghĩ của Đỗ Thành:

– Huynh cũng nghe bọn dân binh tải lương trò chuyện với nhau là sẽ lên đường vào ngày Đông chí. Kết hợp hai nguồn tin như vậy là chính xác rồi. Chúng ta chỉ còn một nhiệm vụ cuối cùng, đó là vượt ải trở về báo tin cho Đại Vương.

Cậu em út Phạm Thái ra chiều tư lự, cố nén cảm xúc mà nói rằng:

– Phải về thôi. Nhưng có nên nán lại thêm dăm bữa để điều nghiên kỹ lưỡng không? Với lại còn mấy chục cân thuốc bắc, ta nên bán đi để có tiền lo liệu đường về?

Thế Quang gạt đi:

– Không được. Bỏ lại hết, mình mang danh là người thu mua dược liệu, bây giờ lại đem bán sẽ tạo ra ngờ vực. Không chần chừ nữa, tính đến ngày Đông chí chỉ còn một tháng, ta không về kịp thì nguy lắm, phải cấp báo để Đại Vương và triều đình còn có thời gian tổ chức chống giặc. Vậy hai em phân công nhau, người kiếm ngựa, người gói ghém hành lý và chuẩn bị lương ăn để tối mốt lên đường. Nghe nói chúng mới kéo đến một loại máy công thành, sớm mai huynh sẽ đi điều tra thực hư ra sao để còn về bẩm báo cụ thể với Đại Vương.

Ý của Thế Quang chắc nịch như đinh đóng cột, hai tiểu đệ biết đấy là quân lệnh, nhất nhất gật đầu. Phạm Thái lựa lời đề nghị:

– Ở thôn Mai Lâm dưới chân núi Phục Lĩnh có một giống ngựa tốt, người dân thôn ấy đệ cũng quen biết nhiều, đệ xin nhận trách nhiệm đến đấy mua ngựa.

Thế Quang nói:

– Vậy thì hay quá. Hiện còn sáu mươi lạng bạc và một ít bạc vụn, đệ mang theo cả mà mua ngựa. Đỗ Thành cầm chỗ bạc vụn mua thức ăn cho hai ngày đường, huynh giữ mấy nguyên cũng đủ chi phí.

Phân công trách nhiệm xong, Thế Quang hất hàm hỏi Đỗ Thành:

– Việc tổng hợp tin tức, đệ làm đến đâu rồi?

Vốn là người sáng dạ lại có học, Đỗ Thành đáp vanh vách:

– Theo con số ước tính, quân Nguyên tập kết trên ba mươi vạn quân bộ và khoảng hai vạn kị mã do Trấn Nam Vương Thoát Hoan đầu lĩnh, dưới trướng có bọn A Lý Hải Nha, Khoan Triệt, Lý Hằng, Bột La Hợp Đáp Nhĩ, Sát Tháp Nhi Đài, toàn là tướng lĩnh kiệt hiệt của nhà Nguyên. Chúng còn tích trữ được mười vạn thạch lương để nuôi quân, tuyển hàng vạn phu, chuẩn bị ba trăm thuyền lớn, đóng hơn ngàn xe ngựa chở lương thảo. Với lực lượng hùng mạnh như vậy, xứ Lạng chắc là hướng tấn công chủ yếu của chúng.

Thế Quang lại hỏi:

– Còn thông tin về hướng nam?

Đỗ Thành đáp:

– Mấy tháng trước, tướng Nguyên là Hốt Đô Hổ và Ô Mã Nhi chỉ huy hai trăm chiến thuyền vượt biển qua Chiêm Thành để tiếp ứng cho đạo quân hàng chục vạn của Toa Đô. Có khả năng chúng sẽ dùng lực lượng này đánh nước ta từ phía nam. Lúc đấy tổng số quân Mông Thát trên các mặt trận cũng ngót nghét năm mươi vạn.

Thế Quang dặn dò hai em:

– Huynh nhắc lại, các thông tin này phải ghi tạc trong đầu vì đấy là nơi lưu giữ an toàn nhất. Trước nay ta đều vào ra theo ngả Lộc Châu bởi đường đi không quá hiểm trở, nhưng mấy bữa nay hướng này quân Nguyên tuần tiễu gắt gao lắm. Biết là mạo hiểm song đây là con đường ngắn nhất, mà chúng ta lại chẳng còn thời gian…

Nói đến đây, Thế Quang trầm ngâm nghĩ ngợi hồi lâu rồi rướn cặp mắt cương nghị nhìn hai em và khẳng khái ra lệnh:

– Sống chết cũng theo hướng Lộc Châu mà về, ai toàn mạng thì bẩm báo đầy đủ thông tin cho Đại Vương. Tránh bị chúng tra xét dọc đường, nhằm bảo đảm trót lọt, khi qua cửa ải ta không đi đường công khai, sẽ sử dụng mật đạo để vượt biên giới. Các em phải ghi nhớ thêm điều này: con đường tốt nhất để lũ Nguyên Mông kéo quân sang ta là con đường hướng đến Lộc Châu. Nắm được ý đồ của chúng ắt triều đình sẽ có kế sách đối phó. Đêm đã muộn rồi, các em đi ngủ để mai còn lo liệu công việc.

Đỗ Thành và Phạm Thái phục tùng huynh trưởng mà lặng lẽ về chỗ nằm. Cả hai nhắm mắt ngủ nhưng tâm trí thì tỉnh như sáo. Họ còn đeo đuổi tâm sự riêng, những uẩn khúc được giấu kín tận đáy lòng nhưng không dám thổ lộ cả với đồng đội vào sinh ra tử.

Đã mấy năm gắn bó như ruột thịt, ba anh em cùng phụng sự cho sứ mệnh cao cả liên quan tới an nguy của đất nước và vương triều, song trong mỗi con người đều có những ưu tư cá nhân mà khó lòng chia sẻ với người khác. Chẳng phải họ không tin tưởng ở đồng đội mà chỉ vì không muốn các anh em phải bận tâm lo nghĩ về mình.

Đối với Thế Quang, nỗi dằn vặt trong tâm trí của chàng là bổn phận về đôi đường công tư. Việc vua việc nước không thể không làm tròn, cho dù phải hy sinh tính mạng. Việc nhà cũng không thể xem nhẹ, mẹ già, vợ yếu, con dại cần một người đàn ông rắn rỏi để nương tựa. Trong tình cảnh hiện thời, chàng làm sao thu vén vẹn cả đôi đường? Dù tâm thức đã xác định việc nước phải đặt lên hàng đầu, nhưng khi nghĩ tới người thân ở quê nhà, Thế Quang thấy cay sống mũi.

Trời khuya se lạnh, hơi ẩm vùng cao len lỏi qua khe cửa làm không gian trong ngôi nhà nhỏ như chùng xuống, mờ mờ ảo ảo và trĩu nặng giá rét. Hai tiểu đệ đã ngon giấc trên giường, riêng Thế Quang vẫn ngồi bất động trước đĩa dầu leo lét, trong đầu chàng tràn ngập vô số cảm xúc buồn lo.

Chuyến về lần này lành ít dữ nhiều, mà trách nhiệm thì nặng nề quá, ta là huynh trưởng tất yếu gánh vác phần hơn, sự sống chết của cả nhóm không là điều quan trọng song chí ít cũng phải giữ được mạng sống của một người để cấp báo với triều đình âm mưu động binh của giặc. Chí nam nhi xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, dù thịt nát xương tan ta vẫn cam lòng nhưng làm sao bảo toàn được tính mạng của tiểu đệ?

Bụng dạ mấy bữa nay như lửa đốt, tuy sắp về sao vẫn da diết nhớ nhà, giờ này chắc mẹ và vợ con đã say giấc nồng mà đâu biết cơn dông tố đang ầm ầm kéo tới. Mẹ ơi, lòng con thổn thức thương người, bao năm nay con chẳng có được mấy ngày thay cha chăm lo cho mẹ lúc tuổi cao sức yếu, bây giờ chiến tranh sắp ập đến mà thân con đã nguyện phó thác cho nước non thì chữ hiếu thật khó trọn vẹn, mẹ ơi!

Thị Hương ơi, huynh nhớ nàng lắm, tình nghĩa phu thê là một nhẽ, song sự tận tụy của nàng thay ta nuôi nấng mẹ già con thơ, còn vì ta mà đành lòng sống đời chinh phụ thì cả kiếp này ta báo đáp không hết. Mai mốt ngộ nhỡ huynh có bề nào cũng mong nàng hiểu cho mà không quá buồn tủi bởi kẻ dấn thân vị quốc đã chẳng thể giúp mẹ con nàng chống đỡ binh lửa tao loạn…

Ánh trăng khuya vàng vọt chợt hắt vào mấy lỗ phên tre rọi xuống nền đất những tia sáng nhạt nhòa. Thế Quang đứng dậy nhẹ nhàng đẩy cửa bước ra sân lặng ngắm bóng trăng mờ ảo xuyên qua màn sương gieo xuống đồi cây vô vàn đốm sáng như hoa tuyết. Khung cảnh thật tĩnh lặng bình yên mà lòng thì ngổn ngang tâm sự, bất giác trong đầu chàng nảy ra mấy câu tứ tuyệt:

Ánh tỏa đồi cây vạn đóa lành Tình quê theo gió gửi trăng thanh Lối về hiểm độc, tin cần gấp Lòng thấy thêm lo chuyện thái bình.Minh diệp an giao lạc vạn hoa Tình ký phong vân đáo nguyệt gia Phượng hội hiểm lộ kỳ tăng cấp Tâm bất vô ưu đoạn thái hòa.