Chương 8 Huyết chiến Tả Pạc Nấm, Phạm Thái đành đoạn từ ly
Man tấu Trấn Nam Vương, Vĩnh Lộc bày trò trả oán
Tả thừa Lý Hằng cùng đám kị mã dừng chân ở Tam Đầu, y đang phân vân đoán định hướng đào tẩu của kẻ địch thì gặp toán quân từ Trạm Nhai kéo xuống. Chúng cho biết Nhan Hợp gọi về để tăng cường Quế Khẩu. Lý Hằng cả mừng, khen gia tướng tài trí, sớm phát hiện hành tung của lũ giặc cỏ An Nam. Lại thấy một toán quân từ Pắc Pình đổ về, Hằng bèn hợp nhất thành một đội hơn trăm kị sĩ, dốc thẳng đến Quế Khẩu.
Quan phòng Quế Khẩu im ắng như tờ, doanh trại bị lửa thiêu rụi vẫn còn nghi ngút khói, trên bãi đất trống xếp hàng chục tử thi, có nhiều xác chết bị cháy đen như khúc than củi, Hằng đoan chắc đã xảy ra biến cố nghiêm trọng. Nhìn khắp không thấy ai, hắn lệnh cho quân sĩ lùng sục xung quanh.
Chốc lát chúng lôi về mấy gã lính canh lẩn trốn trên núi. Thì ra năm tên lính đang thu dọn chiến địa, chợt thấy đoàn quân rầm rập kéo đến, chẳng biết là ta hay địch, chúng hoảng sợ bèn trốn lên núi cho an toàn. Hằng hỏi:
– Đã xảy ra chuyện gì?
Một tên thưa thốt:
– Bẩm đại nhân, mới kịch chiến giữa quân trấn thủ với bọn An Nam. Đánh nhau dữ dội lắm.
– Chúng có đông không?
– Tiểu nhân không đếm, nhưng ước đoán không dưới vài chục tên.
– Vậy là bọn bay đông gấp ba lần kẻ địch mà lại để chúng thiêu cháy cả trại, sao hèn quá vậy?
– Dạ, bọn tiểu nhân cũng nỗ lực quyết chiến nhưng bị trúng kế nghi binh.
– Có giết hay bắt sống được tên giặc nào không?
– Bẩm đại nhân, không bắt được nhưng giết được một số, chỉ có vài tên chạy thoát.
– Sao ta không thấy xác của bọn An Nam?
– Dạ… bọn tiểu nhân quẳng xác chúng xuống vực sâu rồi ạ.
– Đám kị mã ta phái đi trước có qua đây không?
– Dạ có, họ dẫn theo quan trấn thủ quan phòng đuổi bắt mấy tên sống sót chạy trốn trên đường Ma Nhai.
Đã nắm sơ qua tình hình, Lý Hằng tin tưởng với tài nghệ của Nhan Hợp, nếu đuổi kịp bọn thám báo thì coi như chúng toi đời. Nhưng bóng đêm là bạn đồng hành của kẻ trốn chạy. Tăng cường lực lượng, tổ chức lượng lùng sục gắt gao sẽ hiệu quả hơn. Y lại dẫn đoàn kị mã tiếp tục hành quân trên cung đường Ma Nhai uốn lượn giữa trùng điệp núi rừng.
Đi được chừng chục dặm lại bắt gặp hai tên tuần phòng đang ngồi trông mấy cái xác bên vệ đường. Lý Hằng gọi lại hỏi, được chúng bẩm báo:
– Bọn tiểu nhân đến nơi đã thấy người chết. Mấy ngài kị mã sai chúng tôi ở lại trông xác kẻo thú dữ tha mất, rồi họ cưỡi ngựa còn mấy chục lính tuần thì chạy bộ, hò hét đuổi theo bọn thám báo.
Lý Hằng nhìn sắc phục của mấy kẻ xấu số biết chúng là lính của mình, bèn bảo một tên đến xem ai bị giết. Tên lính soi đuốc nhận diện tử thi, rồi lật đật chạy lại báo với chủ tướng bằng cái giọng run bần bật:
– Bẩm đại nhân… có… có… “Nhất mâu sát bát”… trong… trong đấy.
Hằng nghe vậy liền nhảy xuống ngựa, chạy lại xem cho rõ mặt. Quả nhiên tiểu tướng thân cận của y đã chết thảm bởi một nhát chém ngang hông làm nửa dưới của hắn muốn đứt rời khỏi thân xác đồ sộ. Viên chủ tướng vò đầu bứt tai, khóc rống thảm thiết:
– Trời ơi, Nhan Hợp của ta, sao lại ra nông nỗi này? Bây giờ biết ăn nói sao đây với cha ngươi? Nhan Báo à, huynh gửi gắm đứa con trai duy nhất cho ta mà nay để nó chết thảm như vậy, ta đau đớn lắm. Thiên địa chứng giám, ta sẽ đòi nợ máu cho con trai huynh.
Nhan Báo là bạn thiếu thời của Lý Hằng, lại cùng nhau đầu quân dưới trướng Đại Hãn, nên tình thân như ruột thịt. Trong trận diệt Đại Lý, Nhan Báo bị chém lìa cánh tay khi đỡ một nhát đao cho chiến hữu nên phải từ giã quân đội. Mười năm trước, Báo dẫn con trai là Hợp đến ra mắt Lý Hằng, xin cho hắn được theo hầu quan Tả thừa. Nhớ ơn cứu mạng năm xưa, lại thấy Hợp cường tráng, giỏi giang nên Hằng hết lòng nâng đỡ, coi như thủ túc thân cận nhất. Một lần ở sa trường, bị địch vây quanh, Nhan Hợp dùng xà mâu giết sạch cả tám đứa, từ đấy Hằng đặt cho y biệt danh là “Nhất mâu sát bát”.
Hằng cắt cử năm kị mã đem xác Nhan Hợp và mấy tên lính bị giết về quân doanh, rồi huấn thị toàn quân:
– Ai giết được một tên thám báo ta sẽ thưởng một trăm lạng bạc, bắt được một tên thám báo ta sẽ thưởng hai trăm lạng bạc. Trận này các ngươi phải dốc sức mà triệt trừ bọn An Nam để vong linh Nhan Hợp và các chiến hữu đỡ tủi nhục.
Hơn trăm cái miệng dạ ran. Cả bọn náo nức lập công lĩnh thưởng, giục ngựa theo chủ tướng tiếp tục tầm nã gian tế nước Nam.
Toán quân đuổi theo thám báo chạy qua cánh rừng thông thì mất hút bóng dáng của kẻ bị truy sát. Chúng nghi ngờ đối tượng trốn vào rừng, bèn quay lại chia nhau lùng sục khắp nơi nhưng không thấy gì. Rõ ràng tên địch vừa ở phía trước, khi đến khúc ngoặt thì mất dạng. Chẳng lẽ hắn từ bỏ ý định trốn về An Nam mà ẩn nấp trên rừng rồi quay lại để đối đầu với toán lính bộ ở phía sau? Đám kị mã đoán già đoán non trước một hiện tượng kỳ lạ nên quyết định quay về, biết đâu lại góp sức với hậu quân tiêu diệt kẻ địch.
Hai nhóm hội quân cách Tam Thạch chừng một dặm ở phía bắc rồi ngơ ngác hỏi nhau về tăm hơi tên thám báo gian xảo. Chúng lúng túng chưa biết nên dừng hay tiếp tục truy kích thì kịp lúc đoàn kị binh của Lý Hằng kéo tới. Nghe thuộc hạ bẩm báo tình hình, viên Tả thừa nổi đóa quát mắng ầm ĩ:
– Không thể có chuyện bay mất như chim trời, chẳng qua các ngươi ngu dốt không biết hắn đã rẽ vào một ngóc ngách nào đó để trốn sang biên giới. Tiếc thay cho sự hy sinh uổng phí của dũng tướng Nhan Hợp khi có chiến hữu bất tài như mấy người.
Hằng chia quân ra làm hai, một đội chiếm số đông phi thẳng đến quan ải Tây Phong rồi từ đó tỏa dọc cương giới, đón đầu thám báo vượt biên bằng đường ngang lối tắt; một đội gồm bốn mươi kị sĩ cùng với đám tuần thú do Hằng trực tiếp chỉ huy, lùng sục hai bên Ma Nhai Đạo, tìm kiếm các lối mòn bí mật có thể dẫn đến biên giới.
Các toán lính nhanh chóng triển khai nhiệm vụ. Bọn đi về biên giới phi ngựa rầm rập trên đường, tiếng vó câu đập vào vách đá rền. vang cả một dải núi đồi hoang lạnh. Bọn ở lại đốt đuốc tưng bừng như lễ hội, túa ra hai bên đường săm soi từng gốc cây ngọn cỏ.
Chúng lần mò đến Tam Thạch.
Một tên phát hiện có dấu máu đọng trên đá vệ đường, nhưng đám tuần thú kiếm quanh lại không tìm thấy chỗ nào khả dĩ có thể vượt qua ngọn núi bằng ngựa. Sự việc được báo cho Lý Hằng, hắn đến tận nơi quan sát cũng không thấy có hiện tượng khả nghi. Đang đăm chiêu nghĩ ngợi, Hằng dẫm chân vào một chỗ trũng, hắn nhìn xuống thì nhận ra đây là dấu in lõm trên mặt đất của một tảng đá được dời sang chỗ khác. Trong đầu Hằng lóe sáng manh mối có thể giải mã sự biến mất đột ngột của bọn thám báo An Nam.
Viên chiến tướng tinh ranh cho quân soi đuốc kiểm tra tỉ mỉ vách núi bên trong Tam Thạch thì phát hiện một chỗ đá chồng lên nhau không tự nhiên, tạo ra những lỗ hở đáng ngờ. Hóa ra vì trong hang tối om, nên chỉ nhìn lướt qua với tầm chiếu sáng hạn chế của ngọn đuốc thì chẳng ai phát hiện nổi đó là khe nứt bị lấp đá.
Hằng cho quân dỡ đá để mở lối vào phía trong. Ba thằng lính dùng sức đẩy ngã mấy tảng ở trên cao rồi hì hục khiêng nốt những tảng ở dưới. Đề phòng bị phục kích, chủ tướng cho lính soi đuốc để quan sát bên trong trước khi bước chân vào hang.
Nền hang ẩm thấp còn in rõ dấu chân người và chân ngựa. Nhưng thật khó hiểu, ngoài những dấu chân đi vào còn có cả dấu chân đi ra, chứng tỏ hành tung của bọn thám báo rất bí ẩn và khó lường. Khi tìm thấy cửa hang ở phía bên kia sườn núi, Hằng đoan chắc đây chính là lối đào thoát của gian tế An Nam, bấy giờ y mới xuống lệnh điều người ngựa vào hang để tiếp tục truy kích đối phương. Mặc cho chủ tướng nóng lòng thúc giục, việc từng người dắt ngựa chui qua cái khe nhỏ hẹp cũng mất khá nhiều thời gian. Đến cuối canh sửu, toàn đội mới tập hợp đầy đủ trước cửa hang, Hằng tức thời cho xuất kích.
Bốn mươi kị mã Thát Đát hăng hái lên đường, chúng đã quá quen hành quân đánh trận ròng rã nhiều ngày đêm. Riêng đám lính trấn thủ không hề hứng thú khi phải tiếp tục vượt núi băng rừng, do mệt mỏi và đói khát vì chạy bộ cả đêm, lại không mang theo lương thực ăn đường như bọn chiến binh Mông Cổ. Đám kị mã đã phóng ngựa hút tầm mắt, còn tuần thú cuốc bộ rềnh ràng, buộc phải đi thì chúng đi nhưng không việc gì mà vội.
Lương Bành tuổi trạc tứ tuần, là tì tướng trong thái ấp Vạn Kiếp, được Hưng Đạo Vương rất tín nhiệm và thường sai bảo những việc hệ trọng. Cuối thu năm ấy, theo quy ước định sẵn, Bành được cử lên xứ Lạng đón thám báo trở về.
Để đảm bảo bí mật, nhóm của Lương Bành không tá túc trong doanh trại của quân trấn thủ biên cương mà sống trong bản của người Nùng nằm kề quan ải Lộc Châu, cửa ải của nước Nam đối diện với cửa ải Tây Phong của Đại Nguyên. Ngoài chỉ huy quan ải là Lê Đĩnh, không ai biết rõ nhiệm vụ của họ. Nhưng chờ đợi cả tháng trời mà vẫn chẳng thấy một ai trở về, sợ ở nhà lo nghĩ, nên cách mười ngày Lương Bành lại phái người về bẩm báo tình hình với chủ tướng.
Quan ải Tây Phong bên phía Trung Quốc được xây bằng đá dựa vào vách núi, rất kiên cố và bề thế. Phía trên của quan có tháp canh và hành lang rộng để dàn quân cung nỏ khi gặp biến cố. Cách Tây Phong không đầy một dặm là quan ải Lộc Châu của Đại Việt, được dựng bằng gỗ lim chắc chắn, án ngữ đầu hẻm núi Khâu Cấp Lĩnh hiểm yếu. Hằng ngày, cửa khẩu hai bên vẫn hoạt động bình thường, người dân vùng biên qua lại làm ăn buôn bán hoặc thăm viếng nhau chỉ bị tra xét vài câu chiếu lệ. Buổi tối nghỉ thông quan song cả hai phía không cần đóng cổng cài then.
Ba hôm trước, người liên lạc quay lên biên giới, mang mật thư của Đại Vương gửi cho Lương Bành. Trong thư, ngài viết “Được biết bên kia có dấu hiệu lo ngại, nhưng ta chưa nắm cụ thể. Theo phán đoán, có thể chuyến này anh em Thế Quang về cả, đây là nguồn cung cấp tin tức quý báu, cho nên nếu xảy ra tình huống nguy cấp phải cố mà cứu họ bằng mọi giá. Bất luận bao lâu, người của ta chưa về thì các ngươi cứ phải chờ. Nếu biên ải có hiện tượng bất thường thì đón người tại địa điểm dự phòng. Khi cần thiết thời yêu cầu quan trấn thủ Lê Đĩnh và thổ hào Lô Viên Tả huy động lực lượng hỗ trợ”.
Buổi chiều hôm đấy, khác với thông lệ, trời còn chưa khuất núi đã nghe tiếng tù và rúc liên hồi từ bên Tây Phong, Bành liền cử người đi thám thính. Chốc lát, đội viên trở về thông báo:
– Bọn chúng đã đóng kín cửa quan, dân quân trên cổng, không cho bất cứ ai qua lại. Có vẻ chúng cố ngăn chặn ai đó muốn vượt qua.
Hành vi khác thường của phía bên kia không khỏi làm Lương Bành lo nghĩ. Ông e ngại có liên quan đến chuyến trở về của huynh đệ Đào Thế Quang. Nhớ lời dặn của Đại Vương, Bành sang cửa khẩu bàn bạc với Lê Đĩnh về kế hoạch hành động. Quan trấn thủ cắt cử mười binh sĩ chịu sự điều động của Lương Bành, số còn lại do ông trực tiếp chỉ huy được báo động thường trực chiến đấu, sẵn sàng đối phó tình huống kẻ địch từ bên kia biên giới tràn sang.
Để tìm sự trợ giúp của dân binh địa phương, Bành trực tiếp đến nhà thổ hào Lô Viên Tả. Trước nay, mỗi lần lên xứ Lạng, ông đều mang quà của Đại Vương gửi biếu vị chủ trại đầy quyền thế nơi biên cương xa xôi. Viên Tả rất cảm kích thịnh tình của Tiết chế Hưng Đạo và luôn bày tỏ niềm tự hào được kế nghiệp ông cha làm phên giậu cho Đại Việt bền vững muôn đời.
Sở dĩ vị thổ hào vùng cao tâm đắc việc trấn giữ nơi biên ải Tổ quốc bởi gia tộc ông vốn có truyền thống trung thành với các vương triều Đại Việt. Năm xưa, cụ tổ của ông là Lô Viên Tước từng tham gia cuộc khởi loạn của Nông Trí Cao, về sau lại theo chủ tướng quy thuận Lý Thái Tông. Khi Lý Thường Kiệt xuất binh đánh Tống, bấy giờ Viên Tước đã ngoại lục tuần nhưng vẫn hăng hái dẫn năm trăm dân binh Thổ – Nùng tham chiến và lập được nhiều công trạng, được triều đình ban tặng danh hiệu Thiết Cương Trấn Quốc tướng quân.
Sau vài câu thăm hỏi xã giao với gia chủ, Lương Bành đề cập trực tiếp yêu cầu:
– Theo sự dặn dò của Hưng Đạo Đại Vương, tôi đến xin trại chủ giúp đỡ nhân lực để tổ chức đón người trở về từ bên kia. Hiện nay tình hình rất nguy cấp, quân Nguyên đã báo động chiến đấu, chúng đóng chặt cửa ải hòng bủa lưới vây bắt người của ta. Chúng tôi được lệnh dù phải hy sinh bản thân cũng cứu cho được họ. Đây là việc hệ trọng, mong ngài hết lòng trợ giúp.
– Đại Vương tuy ở xa những hiểu rõ lòng dân biên viễn nên mới chủ ý dặn ngài đến tệ xá tìm tôi. Triều đình cần người, chúng tôi đáp ứng ngay, đây là trách nhiệm đối với giang sơn xã tắc cũng là dịp để tổ tiên chứng giám con cháu của họ vẫn giữ vững tinh thần Thiết Cương Trấn Quốc. – Bằng thái độ hào sảng, Viên Tả đáp lời rồi cung kính chỉ bức hoành phi vàng son đề bốn chữ đại tự treo giữa nhà.
– Xin đa tạ. Vậy mong trại chủ điều động ngay trong đêm kẻo không kịp. – Bành mừng rỡ đáp.
– Ngài cần bao nhiêu người? – Trại chủ hỏi lại.
– Nếu có thể, hỗ trợ cho bọn tôi ba mươi trang định với đầy đủ khí giới, bí mật tập kết tại đồi cây cạnh nhà lão ông Ma Văn Kế. Mục đích của ta không chỉ cứu người còn đề phòng quân Nguyên thừa cơ xâm phạm bờ cõi.
– Cứ tin tưởng ở tôi, trong khoảng một canh giờ chúng tôi sẽ có mặt tại vị trí đã định.
– Vậy thì còn gì bằng. Tôi xin cáo từ, hẹn gặp lại ngài trong đêm.
Tiễn Lương Bành ra cửa, chủ trại cho gọi thuộc hạ vào sai bảo. Bốn tráng sĩ tuân mệnh, khẩn trương tỏa đi bản trên xóm dưới truyền lệnh triệu tập dân binh của thủ lĩnh vùng cao Lộc Châu.
Gia nhân đã vào việc, bấy giờ vị hào trưởng lẳng lặng mở tủ lấy bộ giáp trận kết bằng da lợn lòi do đời trước truyền lại, mặc vào người rồi kính cẩn thắp hương, quỳ lạy trước trang thờ, lầm rầm khấn bái “Con là Lô Viên Tả, truyền nhân đời thứ tám của Thiết Cương Trấn Quốc tướng quân Lô Viên Tước, nay khấu đầu vái lạy tổ tiên cho con được sát cánh cùng binh sĩ Đông A trong cuộc đối đầu với lũ lang sói phương Bắc. Con thề nguyện cống hiến hết mình cho đại nghiệp gìn giữ biên cương của nước Nam để không làm tiền nhân phải hổ thẹn”.
Viên Tả ngạc nhiên khi thấy Viên Dụng cũng mặc giáp phục đang quỳ lạy ở phía sau. Là con trai trưởng của thổ hào, vừa qua tuổi mười sáu mà sức vóc cường tráng không thua kém nam nhi trưởng thành, tình cờ nghe thấy cha bàn bạc với khách việc điều động dân binh tham chiến trong đêm, Viên Dụng thiết nghĩ không thể vắng mặt trong sự kiện này. Viên Tả lên tiếng hỏi con trai:
– Ăn mặc vậy là ý làm sao?
Viên Dụng đáp lời cha bằng thái độ cứng cỏi:
– Con muốn theo cha đêm nay.
– Không được. Con còn nhỏ tuổi, chưa thể tham gia việc của người lớn. – Trại trưởng cau mày, xua tay cương quyết.
– Cha luôn dạy con làm người phải có nghĩa khí, tuổi nhỏ thì góp sức nhỏ mà tập trung với nước Nam, tận hiếu với ông bà cha mẹ, đừng gây điều trái đạo lý làm hổ danh họ Lô. Con nay đã đủ khôn lớn để góp sức với cha vào việc gìn giữ biên cương Đại Việt, đấy là tận trung; cùng sát cánh bên cha tranh đấu chống kẻ thù phương Bắc như lời truyền dạy của tổ tông, đấy là tận hiếu.
Vị hào trưởng kinh ngạc trước lập luận sắc bén của Viện Dụng. Ông tặc lưỡi miễn cưỡng khuất phục ý chí sắt đá của cậu con trai:
– Được rồi. Nhưng phải hứa một điều là luôn ở bên cạnh ta, không được rời nửa bước.
– Dạ thưa cha. – Viên Dũng tỏ ra phấn khích khi lần đầu tiên được cầm khí giới tham gia bảo vệ cương vực nước nhà.
Ngôi nhà sàn của lão ông Ma Văn Kế nằm lẻ loi bên sườn đồi trông ra khe Tả Pạc Nầm có dòng Bản Thí quanh năm sẵn nước. Mấy năm trước hai vợ chồng già rời bản dắt nhau ra khu đồi hoang nằm sát biên giới dựng nhà, vỡ đất trồng tỉa rau trái. Có người hỏi lão “Vợ chồng ông già rồi, sao không ở bản cho đông vui, ra đây vắng vẻ, khi đau ốm ai biết mà giúp?”. Ông trả lời “Tao còn khỏe mà, con ma bệnh không đến tìm đâu. Chỗ này đất tốt lại gần suối, trồng cây tưới nước đều thuận lợi”. Nghe nói năm xưa từng có một vị đại quan triều đình đi tuần tiễu biên cương đã ghé qua nhà ông ở chơi một buổi.
Đầu giờ tuất, Lương Bành đến nhà cụ Kế. Họ trao đổi thầm thì trong bóng tối lờ nhờ phủ khắp núi rừng hoang vu. Lão ông vào nhà bảo vợ tạm lánh về bản rồi lấy một cây đèn lồng to như cái cối giã gạo, thắp sáng và treo trước mái hiên. Ông cũng nai nịt gọn gàng, xách cây mã tấu, lẳng lặng đi theo viên tiểu tướng để gia nhập đội ngũ chiến binh tập kết ven rừng. Bành thấy lão đã cao tuổi nên lựa lời tế nhị:
– Nhờ cụ về bản chuẩn bị cho ít đồ ăn, khi xong việc anh em quay về cũng có cái ăn.
– Việc này để đàn bà làm, mày đừng lo, tao đã dặn vợ kêu chị em chúng nó thổi nấu đâu vào đấy rồi. – Lão Kế chặn đứng âm mưu đuổi khéo của Lương Bành.
– Trời đêm sương gió lạnh lẽo, cụ nên về nghỉ ngơi, mọi việc ở ngoài này để chúng con giải quyết.
– Người Thổ quen sương gió, mày chịu lạnh không giỏi bằng tao đâu.
– Cụ là tai mắt của Đại Vương, nếu có mệnh hệ gì thời tụi con gánh vác không nổi trách nhiệm. – Bành nói thẳng suy nghĩ của mình, hy vọng lão Kế đổi ý.
– Ô hay, tai mắt của triều đình mà không biết ứng nghĩa thì như mù như điếc. Tổ tiên ta vốn người Phong Châu từng theo vua Hùng mở nước, vậy giang sơn này ta phải có trách nhiệm giữ gìn. Năm xưa khi quân Nguyên phạm cõi, thổ quan Hà Bổng vùng Quy Hóa hiệu triệu người Thổ, người Nùng ở khắp nơi sát cánh giết giặc, ta đã tháp tùng cha của Lô trại chủ sang tận bên đó tham gia đánh đuổi bọn chúng chạy dài về phương Bắc. Ta còn khỏe lắm, vẫn đánh giặc được mà, mày đừng ngăn cản nữa.
Cảm phục trước chí khí kiên cường của người chiến binh già khiến Lương Bình không thể nói gì hơn, đành để lão gia nhập đội ngũ. Trận tuyến thầm lặng đã hình thành trong đêm trên một đoạn hiểm yếu của tuyến biên giới Lộc Châu với những con người quả cảm, đồng lòng bảo vệ các giá trị thiêng liêng đúc kết nên tinh thần tự tôn dân tộc.
Hơn năm mươi con dân Đại Việt, bao gồm chiến binh và dân binh, người miền xuôi và người miền ngược, người già và người trẻ, theo sự chỉ huy của đội trưởng Lương Bành và trại chủ Lô Viên Tả âm thầm chiếm lĩnh các gốc cây, mỏm đá ven bờ Tả Pạc Nầm, tay nắm chắc vũ khí, mắt hướng về bên kia biên giới, căng thẳng đợi chờ dấu hiệu hành động.
Khi nhìn thấy khe Tả Pạc Nầm ở phía dưới chân núi, huynh đệ Thế Quang thở phào nhẹ nhõm. Đất mẹ kia rồi, chỉ cần vượt qua con sông Bản Thí đang mùa nước xiết là họ đặt chân lên lãnh thổ Đại Việt, Tổ quốc thiêng liêng của dòng giống Lạc Hồng. Sở dĩ mấy anh em tới giữa canh dần mới xác định được vị trí là do sương mù xuống nhiều làm họ mất phương hướng, đi lệch khỏi địa điểm cần phải đến. Nhớ lời dặn dò của Đại Vương, Thế Quang leo lên ngọn cây tìm kiếm tín hiệu. Trong màn sương bàng bạc, huynh trưởng phát hiện đốm sáng đỏ ở phía đông nam, biết chắc đấy là ngọn đèn chỉ điểm của ta, chàng mừng rỡ leo xuống, giục các em nhanh chân đổi hướng.
Niềm vui của ba anh em vụt tắt khi bốn bề vang lên tiếng hò hét của đám phục binh Nguyên Mông. Từ trong màn sương đêm, hai toán kị mã ồ ạt xông ra chặn ngang đường xuống núi của các chiến sĩ Đại Việt. Chúng ỷ đông hùng hổ lao tới như muốn băm nát vụn mấy đối thủ nhỏ nhoi bằng gươm bén giáo nhọn. Phán đoán tình hình tức thời, thấy bên trái sườn dốc ít gập ghềnh, Thế Quang hét lạc giọng: “Các đệ mở lối bên cánh trái, cố mà xuống được khe”, còn chàng kìm ngựa vung đao, chém tả chặt hữu bất cứ tên địch nào liều mạng xông ra cản đường.?
Lưỡi dao sắc lạnh của chàng khiến lũ giặc phải chùn bước, nhưng bọn chúng kịp trấn tĩnh tinh thần khi toán quân của chủ tướng Lý Hằng ập đến. Mã đao bị gãy, lưỡi đao văng ra xa, trên tay Thế Quang chỉ còn khúc cán bằng gỗ, chàng áp sát một tên giặc, vừa né mũi giáo vừa dùng đầu nhọn thanh gỗ đâm xuyên cổ họng của nó rồi thuận tay cướp luôn ngọn giáo làm vũ khí chặn giặc để các em vượt thoát.
Hàng chục tên Nguyên vụng gươm thọc giáo quyết diệt cho được người chiến binh quả cảm, Thế Quang bị một nhát chém vào đùi, máu chảy đầm đìa ướt sũng ống quần. Sức lực đang cạn dần song chàng không hề nao núng, cố gắng đánh trả bầy lang sói hung tợn.
Viên chiến tướng vong quốc làm nô bộc cho Mông Cổ vừa xuất hiện đã hạ lệnh cho cung thủ tiêu diệt hai mục tiêu đang chạy tới dòng Pạc Nầm. Bằng kinh nghiệm trận mạc, Lý Hằng biết phải chặn đứng trước tiên hai kẻ sắp thoát thân, hắn nói với quân sĩ:
– Ta sẽ giết tên còn lại, tụi bay thừa cơ ào xuống bờ sông, tên nào còn sống thì bắt về, chết thì lôi xác về.
Rồi Hằng múa xà mâu sấn đến nghênh chiến với Thế Quang.
Theo lệnh của đại ca, Đỗ Thành và Phạm Thái thúc ngựa xông tới, vung đao đột phá bên trái, đánh bật những mũi giáo nhọn hoắt của địch, chém gục mấy tên trong tầm đao phạt ngang bổ dọc khiến chúng phải giãn ra, tạo cửa mở để vọt xuống sườn núi. Một tên địch phi dao trúng Đỗ Thành, chàng nhổ lưỡi dao cắm sâu vào mạng sườn rồi phóng trả xuyên ngang ngực gã Mông Cổ. Thấy Đỗ Thành bị trúng dao, Phạm Thái giật dây cương nhường ngựa anh nửa bước, chàng quay đầu bổ đao vào mặt thằng giặc đang bám sát phía sau nhưng bị một tên khác chém trúng ngực. Thật kỳ lạ, lưỡi kiếm của kẻ thù chạm phải vật cứng rồi bật ra nên chỉ để lại trên ngực Thái một vết rách trên da.
Máu ra xối xả làm Thành kiệt sức, nhưng chàng vẫn cố bám theo em lao xuống bờ dốc. Hàng loạt mũi tên phóng tới, một mũi xuyên trủng lưng của Thành, hai mũi cắm vào bụng ngựa khiến nó đổ gục. Thành thoát khỏi con ngựa trọng thương, một tay bịt vết đâm trên sườn, một tay múa đao gạt tên, bảo vệ cho cậu em ở phía trước. Thái bị tên cắm vào vai đâm xuyên xuống nách làm tê cứng cánh tay vốn đã thương tích. Biết Thành lâm nguy, Thái nhảy xuống đất, vỗ mặt đao vào mông con ngựa ô, bảo nó “Chạy đi, cố tìm đường mà về nhà”, rồi vọt lên cứu anh.
Bấy giờ Thành đã trúng ba mũi tên, toàn thân nhuốm máu. Thái cũng đầm đìa máu trên người. Nhưng ý chí quyết tử và tinh thần đồng đội đã giúp họ không dễ dàng gục chết mà cố neo bám sự sống để bảo vệ lẫn nhau cho đến giọt máu cuối cùng. Hai anh em vừa đi giật lùi, vừa gạt đỡ yếu ớt những mũi tên đầy uy lực bay tới. Lúc bọn giặc ào xuống vây bắt, khi họ chỉ còn cách dòng Bản Thí không đầy năm bước chân. Thành nói hổn hển trong tiếng thở hắt ra “Cứ mặc huynh, đệ nhảy xuống nước đi, nhớ về thăm cha mẹ và hôn thê của huynh”. Thái khóc nấc, chàng buông tay khỏi người đồng đội đang hấp hối rồi lao xuống mặt nước lạnh buốt. Biết không thể làm gì hơn, nhiệm vụ trở về cấp báo với triều đình thông tin về giặc khiến lòng Thái nghẹn ngào mà đành đoạn tử biệt với hai người anh đã quên mình để cho chàng được sống.
Đỗ Thành dùng chút tàn hơi cuối cùng gạt đỡ những mũi tên bay về phía Phạm Thái, chàng cố lết tới bờ sông Bản Thí rồi gieo mình vào dòng nước xiết chảy xuôi về đất mẹ. Lúc bước vào cõi bất tử, Thành còn nghe văng vẳng tiếng hò la vang dậy từ bên kia bờ sông, trên lãnh thổ của vương quốc Đại Việt.
Ở đầu dốc, Thế Quang và Lý Hằng đánh nhau kịch liệt. Một người đã chiến đấu cả đêm lại bị trọng thương, một kẻ thừa sức lực còn được bọn thủ túc hỗ trợ bao vây, tất yếu tên chiến tướng Nguyên Mông chiếm ưu thế. Chàng dũng sĩ Đại Việt cố thu hút lực lượng địch để các em nhẹ gánh thoát thân, nên đường giáo tuy không còn mạnh mẽ nhưng vẫn quyết liệt và táo bạo khiến tướng giặc đang ở thế thượng phong cũng không dễ hạ gục đối thủ. Bị một nhát xà mâu đâm trúng ngực, Thế Quang ngã nhào khỏi mình ngựa, chàng gượng dậy, một tay vịn vào gốc cây, một tay múa giáo cố chống chọi với hàng chục binh khí đâm xỉa. Trước lúc lâm chung, Thế Quang mở mắt trừng trừng hướng về đất mẹ rồi mỉm cười mãn nguyện lúc vọng tiếng quân reo.
Trước đấy, toán quân của Lương Bành và trại chủ Lô Viên Tả đã chờ cả đêm mà vẫn không thấy động tĩnh gì. Để tránh bị lộ diện, không ai được đốt lửa, dù sương giá lạnh thấu da thịt đội chiến binh đang im lìm mai phục. Tới canh tý, bốn phụ nữ người Thổ do bà vợ ông Kế dẫn đường đem ra cho họ mấy gùi xôi thịt nóng hổi. Mọi người lặng lẽ ăn uống trong màn đêm rồi luân phiên nhau dựa vào gốc cây, mỏm đá mà chợp mắt mỗi ca nửa canh giờ. Riêng Lương Bình, Viên Tả và lão Ma Văn Kế thức thâu đêm dõi mắt nhìn sang bên kia biên giới.
Bành không khỏi lo lắng khi nghĩ đến số phận của đồng đội đang ở đâu đó bên xứ người. Không biết tính mạng của họ ra sao, liệu có trở về trong đêm nay, có bị lạc đường trên nẻo về núi non trùng điệp, liệu hành tung của mấy anh em có bị kẻ địch phát hiện? Những câu hỏi cứ chập chờn trong đầu ông, nhưng không câu hỏi nào được giải đáp khi màn đêm biên giới vẫn vô cùng im ắng. Chẳng lẽ ông đã phán đoán sai, dấu hiệu bất thường của quan ải Tây Phong không nhằm đối phó thám báo Đại Việt đang tìm đường về nước? Đại Vương cho rằng huynh đệ Thế Quang có thể về cả, Người luôn nhìn xa trông rộng, ắt phải có cơ sở thì mới nhận định như thế.
Khi ba bóng người cưỡi ngựa hiện ra lờ mờ trong màn sương đêm trên con dốc dẫn xuống Tả Pạc Nầm, đội trưởng Lương Bành quá đỗi vui mừng liền làm hiệu để mọi người chuẩn bị tinh thần ứng đối. Theo hiệu lệnh, cả đội vẫn im tiếng chờ đợi. Ở bên kia là đất giặc, cũng chưa rõ đối tượng là người của ta hay kẻ địch, lộ diện sớm là hạ sách.
Ông thầm nghĩ trong bụng:
– Đại Vương đoán việc như thần.
Rồi cuộc chiến bất ngờ bùng phát giữa lúc ai nấy đều hy vọng đón người về an bình. Từ bên này nhìn sang không thể phân biệt được ai với ai, chỉ thấy những cái bóng quần thảo dữ dội và tiếng khí giới va chạm lách cách. Trại chủ và lão Kế nôn nóng quá nên đề nghị vượt sông đánh tràn qua để giải vây cho người của ta. Lương Bành gạt đi, ông nói:
– Đại Vương đã dặn bất luận thế nào cũng không được xung đột trên đất Nguyên, kẻo chúng lại mượn cớ hạch sách triều đình, vin vào đó mà đem quân thảo phạt Đại Việt.
Khi đám quân Nguyên hò hét nhau kéo xuống khe Pạc Nầm để bắt cho được “tên giặc cả An Nam đang vượt sông”, bấy giờ Lương Bành mới phát lệnh công kích. Hơn năm chục con người cùng hét vang “Sát Thát phạm cõi! Sát Thát phạm cõi!” rồi ào xuống bờ sông; hàng loạt ná bật lẫy hạ gục những tên giặc đứng lớ ngớ trên bờ bên kia; nhiều tay dao bơi ra giữa dòng chặn đường lũ giặc đang cố túm bắt viên thám báo chỉ cách chúng vài chục sải tay. Trại trưởng và ba tráng đinh bơi quanh chiến binh Đại Việt, vừa che chắn vừa gắng đẩy vào bờ chàng trai trẻ đang thoi thóp giữa con nước xiết. Trận chiến trên sông Bản Thí vô cùng hỗn loạn, người của hai bên vùng vẫy trong dòng nước lạnh giá, cố hạ thủ nhau bằng dao kiếm hoặc dìm chết nhau bằng những ngón nghề bơi lặn. Vật lộn trong con nước chảy xiết rồi bị cuốn trôi đi, ta và địch cùng thiệt hại nặng nề, mười hai chiến sĩ nước Nam đã bỏ mình trên dòng sông biên giới, trong số đấy có lão chiến binh can trường Ma Văn Kế.
Lý Hằng đổ quân xuống khe tiếp ứng cho đồng bọn, chúng bắn tên sang như mưa, thêm nhiều chiến sĩ của ta bị trọng thương. Trại trưởng Viên Tả cũng trúng tên vào lưng, khi lấy thân mình che cho Phạm Thái vừa được kéo lên khỏi mặt nước. Lương Bành chỉ huy đội ngũ trên bờ, phát lệnh bắn trả kẻ địch ở bờ bên kia. Cung và nỏ đồng loạt xạ tiễn, lính Mông Cổ không kịp quay ngựa lẩn tránh, nhiều đứa bị hạ gục tại chỗ. Chàng niên thiếu Viên Dụng giương nỏ bắn trúng mặt một tên địch, rồi hả dạ hét to “Con đòi nợ máu cho cha đó”.
Tả thừa Lý Hằng lồng lộn tức tối hò hét quân lính lập đội hình đánh sang. Chúng dùng hai mươi cung thủ yểm trợ cho bọn còn lại cưỡi ngựa vượt sông Bản Thí. Khi đám kị mã đang loay hoay tìm chỗ nước nông để lội qua, thì đội trưởng Lương Bành cất giọng đanh thép cảnh báo lũ giặc:
– Ta báo cho các người biết, vượt sông qua bên này là ở trên lãnh thổ Đại Việt. Kẻ nào xâm phạm sẽ bị trừng phạt. Qua một tên ta giết một tên, qua mười tên ta giết cả mười. Chúng ta thừa quân để giết sạch những kẻ phạm cõi.
Sau lời cảnh cáo, Bành nhô người khỏi gốc cây đang ẩn nấp, giương cung bắn trúng ngực đứa đi đầu bấy giờ đang ngập nửa thân ngựa trong làn nước. Mũi tên thị uy của Lương Bình làm thằng giặc ngã nhào, con ngựa hoảng sợ lồng lên khiến cả đám người ngựa ở phía sau rối loạn. Đáp ứng chiêu cảnh cáo của đội trưởng, các chiến binh Đại Việt cùng hô to “Sát Thát”, âm hưởng đồng điệu hừng hực khí thế quyết chiến rền vang núi rừng đủ làm quân tướng Lý Hằng hoang mang chùn bước.
Không đoán định được lực lượng của đối phương ẩn nấp sau những gốc cây mỏm đá, Hằng đành chấp nhận lui quân và tự thưởng cho mình chiến công đã giết sạch bọn thám báo An Nam hèn kém.
Phạm Thái tỉnh lại trong một ngôi nhà sàn khi trời đã sáng bạch. Nhìn thấy đội trưởng, chàng hỏi liền:
– Bành đại ca, Thế Quang và Đỗ Thành ra sao?
Lương Bành nhìn Phạm Thái bằng ánh mắt trĩu nặng mà chẳng nói câu nào. Thái đã hiểu sự tình, chàng khóc nghẹn ngào rồi cựa mình vật vã làm các vết thương bật máu, loang đỏ cả tấm băng quấn khắp nửa người. Bành ôm cậu em, vỗ về như dỗ dành trẻ nhỏ:
– Đệ về được là mừng rồi, đừng yếu đuối mà gục ngã. Đệ phải sống để các huynh mãn nguyện vì không chết vô ích.
Khi trấn tĩnh lại, Thái quờ tay kiểm tra miếng ngọc bội của Thành huynh rồi nghĩ đến việc phải làm, bèn nói với đội trưởng:
– Đệ cần về Vạn Kiếp gấp.
– Cứ yên tâm. Bây giờ đệ phải nằm yên dưỡng sức, đừng cử động nhiều kẻo lại chảy máu. Huynh đã cho chuẩn bị xe ngựa, lát nữa mấy anh em ta cùng về.
Trước lúc lên đường, Lương Bành sang nhà thăm hỏi hào trưởng Lô Viên Tả. Vị thủ lĩnh đáng kính của vùng núi Lộc Châu có áo giáp tốt nên mũi tên cắm vào lưng không phạm tới chỗ hiểm nhưng cũng làm sức khỏe của ông giảm sút đáng kể. Người đội trưởng bày tỏ lòng tri ân tinh thần trợ chiến và chia sẻ những đau thương mất mát của các huynh đệ vùng cao. Ngài chủ trại họ Lô giãi bày tâm nguyện:
– Tôi nay không còn được như trước, bản thân không tiếc nuối gì nhưng lòng canh cánh lo nghĩ về thằng con lớn. Nếu giặc tràn sang, không biết tôi có kịp bình phục để tham gia chiến trận, hay đành theo đám đàn bà, con nít lẩn trốn vào rừng sâu? Viên Dụng đã trưởng thành, đêm qua nó cũng chứng tỏ là người có khí phách. Nếu có thể, xin ngài cho cháu theo về Vạn Kiếp để rèn giũa học hỏi, mai mốt còn thay mặt họ Lô phò vua đánh giặc.
Lương Bành chân tình đáp nghĩa:
– Thật cảm kích tấm lòng trung thành của ngài đối với nước nhà. Ngài bảo cháu chuẩn bị hành trang gọn nhẹ để đi sớm kẻo chậm trễ hỏng việc. Về đến Vạn Kiếp, tôi sẽ bẩm báo với Đại Vương thành tích của quân dân Lộc Châu để triều đình ghi công. Ở với anh em chúng tôi, Viên Dụng sẽ sớm thành một trang nam nhi tuấn tú.
Trại trưởng rưng rưng lệ mừng, không ngớt lời cảm tạ người gia tướng tin cẩn của Hưng Đạo Vương. Viên Dụng đứng thập thò ngoài cửa cũng ứa lệ buồn vui. Giữa tâm trạng lo âu vì phải xa người cha đang bị thương tích vẫn ánh lên trong đôi mắt long lanh của cậu trai sơn cước niềm hân hoan được gia nhập đội ngũ những người chiến binh vệ quốc quả cảm.
Lý Hằng kéo quân về trại trong tâm trạng không vui. Tuy ngoài miệng thì khích lệ binh sĩ rằng chúng đã lập công lớn tiêu diệt sạch bọn thám báo An Nam, nhưng y vẫn ấm ức trong bụng mà không dám than thở, sợ làm nhụt ý chí đám lính dưới quyền. Ngoài số bị thương và mười mấy đứa bị nước cuốn trôi, Hằng nhẩm tính từ quan phòng Quế Khẩu cho tới khe Tả Pạc Nầm rải rác có hơn hai chục mạng bị giết phải mang xác về chôn cất, trong khi mục sở thị không quá một xác đối phương. Trong cuộc đời cầm quân đánh trận, lần đầu tiên Hằng phải trả một giá quá đắt. Đối với y, đau đớn nhất là cái chết của Nhan Hợp, viên thủ túc tin cẩn từng theo chủ vào sinh ra tử hơn mười năm qua.
– Sống chết là chuyện thường tình của binh gia, chắc Nhan Báo hiểu lẽ mà không nỡ trách, nhưng ta cũng nên làm một cái lễ trang trọng để tống tiễn linh cữu Hợp về quê nhà cho cha của hắn đỡ buồn tủi. – Hằng tự nhủ.
Càng nghĩ Hằng càng tức tối. Nhưng kẻ mà y căm giận nhất không phải thám báo đối phương mà là bản mặt của gã huyện lệnh Dương Tự Quán. “Nó phát hiện vài tên gián điệp con con đáng lẽ nên tự giải quyết cho rồi nhưng lại vẽ vời bẩm báo để tâng công với ta, khiến ta mất binh thiệt tướng vì cái chuyện không đáng. Với thực lực của đại binh thiên triều, lúc tràn sang thừa sức nhổ sạch cả An Nam thì cắc cớ chi mà lo ngại gian tế truyền tin. Thật mất hết thể thống. Được rồi, tên huyện lệnh này muốn lập công thì ta sẽ báo công để mà thăng chức. Ta sẽ xin cho một chức tương xứng với công lao đáng ghét của ngươi.”
Mấy ngày sau, Trấn Nam Vương Thoát Hoan lĩnh ấn nguyên soái thảo phạt Nam man, từ Đại Đô trở về, cho triệu tập tướng lĩnh tại soái phủ tiền phương đóng trên đất Khâm Châu để bàn kế hoạch khởi binh. Lý Hằng nhân tiện man tấu chiến công diệt hơn ba mươi tên thám báo An Nam ở biên giới và đề nghị thăng hàm cho người có công đầu là huyện quan Dương Tự Quán từ thất phẩm lên lục phẩm, sung quân tại chức Chánh quản Giám mã, trông coi đàn ngựa chiến của Tả thừa Lý Hằng. Trấn Nam Vương vui vẻ chấp thuận, còn ban khen:
– Giỏi thay Lý tướng quân, trong lúc ta không có mặt đã quyết đoán diệt sạch bọn thám báo gian tế. Ta sẽ trình tấu với thiên tử phong hàm Tham tri chính sự, ban thêm tước Vinh lộc đại phu cho quan Tả thừa. Đồng thời xin bổ người vào chỗ quan khuyết của Dương Tự Quán.
Viên quan huyện Long Châu ngã bổ chửng khi nhận được lệnh bổ nhiệm làm Chánh quản Giám mã, hạn ba ngày phải đến trình diện tại quận doanh của Tham tri chính sự Vinh lộc đại phu Lý Hằng. Ba hồn bảy vía bay đi cả, Tự Quán than trời trách đất nỡ nào lại đày một kẻ trói gà không chặt vào đội ngũ lính tráng dữ dằn bặm trợn sắp kéo nhau đi giết chóc ở xứ người. Tiếng rằng được thăng phẩm trật nhưng thực chất là đẩy người ta vào chỗ chết, lại còn phải đội ơn lão Tham tri hiểm ác đã tiến cử, ước gì ta đừng ngu dại đi bẩm báo tâng công. Một miếng võ chẳng có, giương cung không biết bắn, cầm kiếm không biết chém, không lẽ đem ta ra chiến trường để chải lông ngựa? Thà làm chức huyện lệnh nhỏ nhoi nhưng là phụ mẫu hơn vạn hộ để tận hưởng nhàn hạ sung sướng như chúa tể một vùng, còn hơn được thăng tiến vào cái chỗ thối hoắc chuyên thu xếp việc ăn uống, tắm rửa và hốt phân cho bầy ngựa bẩn thỉu của đám lính Mông Cổ, đúng là cái số ta đến thời tàn mạt.
Mọi sự đen đủi đều từ thằng rợ Nông Trí Nãi mà ra cả, đang yên đang lành tại cái xó xỉnh thâm sơn cùng cốc mắc mớ gì nhà nó mà mò đến cửa quan để tố giác quân gian? Kẻ gian ở đâu chẳng thấy, chỉ thấy cái bộ mặt lưỡi cày gian xảo của thằng Trí Nãi cứ ám ảnh ta từ bữa đấy đến nay. Đích thị nó là điềm gở nhưng ta lại quá khinh suất, không suy tính cẩn trọng đường đi nước bước nên mới ra nông nỗi này. Được rồi, ngươi muốn chỉ điểm lĩnh thưởng thì ta sẽ có phần thưởng dành cho ngươi.
Một bữa, có tên lính tới nhà Trí Nãi ở bản Mai Lâm bảo hắn đến quân doanh của Lý tướng quân lĩnh thưởng. Nãi mừng lắm, bèn vận trang phục lễ hội, cưỡi con ngựa duy nhất của gia đình, hí hửng đi theo tên lính.
Kẻ cáo giác được đưa vào một ngôi nhà tuềnh toàng nằm giữa khu trại san sát chuồng ngựa, ở đấy hắn gặp lại huyện lệnh Long Châu trong sắc phục võ quan lạ lẫm. Viên Giám mã Tự Quán sai lính lột hết quần áo trên người Nãi, bắt hắn mặc vào bộ y phục của quân tạp vụ, rồi dõng dạc tuyên bố:
– Do tích cực tố giác kẻ gian, nay ta Chánh quản Giám mã Dương Tự Quán thay mặt quan trên xét công ban thưởng cho Nông Trí Nãi bản Mai Lâm được sung lính quân đội Nguyên triều, thăng bậc từ thứ dân lên sĩ tốt hạng bét, giao công việc chuyên trách dọn phân và cọ rửa chuồng ngựa.
Nãi nghe xong khóc ầm lên đòi về, bảo rằng không cần lĩnh thưởng, không cần thăng bậc, chỉ muốn về nhà làm dân thường.
Tự Quán nổi đóa, sai lính nọc Nãi ra quất cho mười roi vào mông. Mặc kẻ được lãnh thưởng nằm quằn quại đau đớn giữa nhà, Quán lạnh lùng phán:
– Quân lệnh như núi, trái lệnh phải chịu phạt. Nhốt thằng này vào chuồng ngựa, bỏ đói một ngày. Khi nào hồi tâm chuyển ý thì cho ra làm việc. Con ngựa của nó cũng sung công theo chủ.
Trong thiên hạ có người biết chuyện này bèn làm thơ chế giễu, rằng:
Báo công nhận tội vạ Vì sao số biến họa? Lòng đen trời chẳng dung Trị người ý tạo hóa.Báo công nhận tội quá Hà nãi vận canh quả Hắc tâm thiên bất dung Trị nhân chỉ công hóa.