Chương 7 Sinh lộ Ma Nhai, mãnh tướng Nguyên ỷ tài thiệt mạng
Mật hang Tam Thạch, tráng sĩ Việt vọng quốc dấn thân
Ma Nhai hay còn gọi là Ma Nhai Đạo là con đường đèo từ quan phòng Quế Khẩu đến quan ải Tây Phong nằm trên biên giới Việt – Nguyên, đường đất đá tuy không bằng phẳng nhưng cũng không quá gập ghềnh, người cưỡi ngựa khỏe phi nhanh thì ước chừng một phần tư canh giờ là đi hết quãng đường ấy.
Dân Nam sang đây làm ăn buôn bán lại quen gọi con đường là Sinh lộ, mà theo họ, tên gọi này do chính danh tướng Lý Thường Kiệt đặt ra. Nguyên do hơn hai trăm năm trước, Lý Thường Kiệt dẫn mười vạn quân kéo vào Trung Hoa nhằm đập tan kế hoạch tập trung quân lực của nhà Tống để chuẩn bị tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta. Sau khi làm cỏ Khâm Châu, Liêm Châu và Ung Châu, quân Việt bắt sống được nhiều người Tống đem về nước. Trên đường trở về, đoàn quân của Lý Thường Kiệt qua Ma Nhai Đạo, khi nghe tướng sĩ báo tin “Bọn tù binh thà chết không chịu đi, vì sợ sang ta phải làm nô lệ”, ngài bèn đến tận nơi bảo với họ rằng:
– Các ngươi bại trận, theo lý thì phải giết. Ta đã tha chết còn cho sang Đại Việt sinh sống, đây chính là sinh lộ của các người đó, ai theo ta tới nước Nam sẽ được cấp đất mà làm ăn bình thường.
Thế là họ đồng lòng theo ngài cả. Nghe nói nhà Lý cho đám tù binh, hàng binh đến vùng Hoan Ái khai khẩn, sinh cơ lập nghiệp yên ổn đến nay đã được sáu, bảy đời.
Nhan Hợp đã rõ về quãng đường, y biết nếu không bám đuổi khẩn trương thì chốc lát thôi bọn gian tặc có thể đào thoát sang biên giới, bấy giờ thành công toi. Vừa thúc ngựa phi hối hả, Hợp vừa nghĩ trong bụng: “Mấy tên thám báo nhãi nhép mặc sức đốt giết vì chưa gặp phải đối thủ xứng tầm, nếu ta đến sớm hơn thì chúng có chạy đằng trời. Năm xưa ta từng độc chiến với bảy, tám dũng sĩ Nam Tống, còn đánh chúng thua liểng xiểng. Huống hồ bây giờ đối đầu với lũ An Nam bé nhỏ, tầm thường.” Tuy vậy, y cho rằng cũng không nên khinh suất, nếu gặp phải đối thủ lợi hại thì vừa đánh vừa cố hãm đường tháo lui của đối phương, chờ quân bộ kéo tới, bấy giờ sẽ bao vây tiêu diệt. Đấy là chưa tính đến toàn quân trên đường Trạm Nhai và Pắc Pình đang quay về, nếu họ tới kịp lúc thì coi như mười mấy tên thám báo đến ngày tận số.
Mấy con ngựa của huynh đệ Thế Quang đã thấm mệt, là ngựa thồ mà phải phi nhanh như ngựa chiến làm chúng mau xuống sức, bước chạy càng lúc càng uể oải, nếu không được nghỉ và uống nước thì chúng có thể gục xuống bất cứ lúc nào. Ba anh em cũng mệt và đói khát, mấy bình nước lại chẳng còn một giọt. Đi ngang một con lạch chảy ra từ khe đá, dù biết rất mạo hiểm, Thế Quang vẫn quyết định dừng chân cho ngựa uống nước, họ cũng tranh thủ ăn uống để có thêm sức lực vượt qua biên giới. Thực phẩm mang theo đủ dùng cho hai ngày, ngoài mấy vắt rơm được bẻ vụn cho ngựa ăn, số còn lại vứt hết, bình nước cũng bỏ đi, áo bông mặc trên người cũng cởi ra, tất cả nhằm giảm bớt sức nặng cho ba con ngựa đã đuối sức.
Theo ước tính của Thế Quang, đi chừng bảy dặm nữa sẽ tới ba tảng đá chồng, vốn được mấy anh em đặt biệt danh là Tam Thạch. Đó là một mỏm núi lớn bị nứt ngang dọc, tạo ra những khe nhỏ trông như ba tảng đá được chồng lên nhau, gồm hai tảng ở dưới và một tảng ở trên. Lâu nay khi vào ra Trung Quốc họ đều qua quan ải Tây Phong như mọi người dân vẫn qua lại làm ăn buôn bán. Nhưng phòng trường hợp nguy cấp, Đại Vương đã nhờ người địa phương tìm một con đường kín đáo để các tráng sĩ khi cần thiết có thể đào thoát nhanh chóng. Mỗi dịp qua Ma Nhai Đạo, ai cũng ghi nhớ trong đầu vị trí Tam Thạch, nơi có lối đi bí mật dẫn đến khe Tả Pạc nằm ở phía tây Lộc Châu, cách cửa khẩu Tây Phong chỉ bốn dặm.
Nghe trong hơi gió vó tiếng có câu dồn dập, nhưng không nhìn thấy ánh đuốc trên đường, Thế Quang đoán bọn Nguyên bám đuổi đã tắt hết đuốc nhằm đột kích bất ngờ, chàng và các em vội vàng nhảy lên mình ngựa, phóng thẳng. Quả nhiên mấy con ngựa đã hồi phục một phần sức lực, nên bước chạy khỏe khoắn hơn nhiều. Chỉ vượt qua một đoạn ngắn nữa thôi, khi mấy anh em rẽ vào lối mòn bí mật thì khả năng thoát hiểm đã ở trong tầm tay.
Nhưng họ không ngờ rằng có những yếu tố chẳng thể lường trước được.
Đã một tháng nay, các quan phòng và cửa ải tiếp giáp Đại Việt được lệnh tăng cường tuần tra, đề phòng gian tế xuất nhập dò la đại binh thiên triều. Bất luận ngày hay đêm, mọi kẻ qua lại vùng cận biên giới đều bị tra hỏi, khám xét kỹ càng. Trên cung đường Ma Nhai Đạo, bọn chưởng quản Quế Khẩu và Tây Phong thỏa thuận trách nhiệm chung, cứ hai canh giờ luân phiên cắt cử một đội gồm sáu kị mã tuần tra trên đường. Vào thời điểm ấy, có một toán lính cưỡi ngựa từ Tây Phong đang tuần tiễu về hướng Quế Khẩu.
Đang nỗ lực phóng tới cột mốc ba hòn đá chồng, bất chợt anh em Thế Quang nhìn thấy ánh đuốc đằng xa, định tìm chỗ ẩn nấp, nhưng xung quanh chỉ có vực sâu và đá núi dựng đứng.
Huynh trưởng nói:
– Cứ đi tiếp rồi tùy cơ ứng biến.
Họ thả nước kiệu, dàn hàng ngang tiến về phía trước.
Khi vừa đối diện sáu tên kị mã, thì đám quân phía sau cũng ập đến, ba tráng sĩ kìm ngựa, tay nắm chặt đoản đao, chờ xem động tĩnh của đối thủ. Biết rơi vào tình thế hiểm nghèo, Thế Quang nghiêm giọng bảo hai em: “Khi có lệnh, các đệ xông lên phá vây, huynh sẽ quyết tử với đám phía sau, chặn đường không cho chúng đuổi theo. Rõ chưa?”. Đỗ Thành và Phạm Thái cùng đáp: “Rõ” mà không dám nói gì thêm. Họ biết huynh trưởng chấp nhận hy sinh để các em có cơ hội vượt thoát.
Hai tiểu đệ vẫn hướng ngựa về phía trước, riêng Thế Quang quay ngựa lại, sẵn sàng nghênh chiến với bọn giặc bám đuổi đằng sau. Ba người họ tạo thành thế chân kiềng vững chãi, lăm lăm khí giới trên tay, quyết một phen sống chết với quân thù.
Tiểu tướng Nhan Hợp chột dạ khi thấy đối phương chỉ có ba người mà không phải mười mấy người, hắn sợ bị tập kích nên dặn đàn em “Đề phòng quân mai phục”. Nhưng nhìn quanh chỉ thấy đá núi dựng thẳng và vực sâu hun hút, không có chỗ nào để em quân. Hợp cho rằng “Thôi kệ, nghĩ nhiều ắt phân tâm, chúng ít quân ta càng dễ diệt”. Ước lượng tình thế đôi bên, Nhan Hợp chắc mẩm mấy tên thám báo khó trốn thoát, nhưng bắt được để khai thác vẫn hơn là giết chết. Hắn bèn giơ tay ra lệnh cho đám kị mã án binh bất động, một mình cưỡi ngựa tiến đến cách anh em Thế Quang mười trượng, rồi nói:
– Mấy người An Nam nghe đây. Các ngươi hết đường chạy rồi. Nếu xuống ngựa quy hàng, ta sẽ mở cho một con đường sống. Nhược bằng ngoan cố thì đây chính là tử lộ của các ngươi.
Thế Quang cười gằn, cao giọng:
– Quân bay đông thật đấy. Nhưng đừng tưởng dễ hạ gục bọn ta. Cỡ mình ngươi thì ta không thèm đánh, thách năm thằng xông lên một lúc đó.
Chàng biết, nếu diệt được tên chỉ huy, đám quân như rắn mất đầu ắt rúng động, bấy giờ sẽ có cơ hội thoát hiểm.
Hợp nóng mặt bởi lòng kiêu hãnh bị xúc phạm mà không biết đang bị đối phương khích tướng, hắn hét to:
– Giặc An Nam chớ có ngạo mạn. Mình ta cũng đủ tiễn người về Diêm phủ. – Rồi khua giáo, sấn sổ lao đến.
Thế Quang cũng chẳng kém, vung đao quát trả:
– Giặc Nguyên ngông cuồng. Sinh lộ của ta chính là tử lộ của ngươi đấy.
Họ quần thảo quyết liệt trên khúc đường nhỏ hẹp, tiếng binh khí va chạm chan chát, người ngựa đôi bên líu ríu vào nhau tạo thành một cái bóng không rõ hình hài chuyển động thoăn thoắt dưới ánh trăng mờ mới ló qua ngọn núi. Nhan Hợp to khỏe và dày dạn trận mạc, đường đâm lực gạt từ ngọn thương của hắn có thể giết chết một con bò rừng. Thế Quang nhanh nhẹn và dũng khí, lại có võ công điêu luyện, lưỡi đao sắc bén của chàng thừa sức chặt đôi một gốc tre già đặc ruột. Lợi dụng ưu thế ở chỗ đường rộng, Hợp đâm một nhát mạnh như vũ bão vào đối phương bấy giờ đang ở phía vách núi nên khó bề xoay xở, Thế Quang gập người sát vào bụng ngựa tránh đòn, đường giáo đâm vượt qua lưng làm rách bung chiếc áo, chàng nhanh tay lia đao chém vào chân con chiến mã của đối thủ. Khi con ngựa khụy xuống khiến người Nhan Hợp đổ về phía trước làm hở phần lưng, cũng là lúc Thế Quang nhổm lên xả một nhát dao chí mạng ngang hông tên tiểu tướng nhà Nguyên. Hắn vừa gục ngã, chàng liền hét vang: “Các em đánh đi”.?
Lúc Thế Quang nghênh chiến tướng giặc, Đỗ Thành và Phạm Thái vẫn hướng ngựa đối diện với sáu tên tuần thám, nhưng cách nhau một khoảng đủ chỗ cho ngựa đổi hướng nhanh chóng. Phạm Thái theo dõi động tĩnh của bọn ngáng đường, đề phòng chúng xông tới. Đỗ Thành quay đầu nhìn phía sau để có thể tiếp ứng cho đại ca khi nguy cấp. Nghe Thế Quang phát lệnh, hai người thúc ngựa xông vào đám kị binh dàn hai hàng ngang trước mặt.
Chú ngựa ô chạy mé ngoài nhảy chồm vào giữa đội hình địch, Phạm Thái thúc cán đao trúng sườn con ngựa của đối phương, lực mạnh đến nỗi làm nó lảo đảo, trượt chân ngã nhào xuống vực cùng với tên kị binh. Tên đi giữa vung mác chém xuống, Thái giương sống đao đỡ đòn rồi vặn tay xoay lưỡi phạt ngược lên chặt lìa cánh tay của hắn. Tiếp cận hàng hai, chàng bổ đao vào mặt đứa phía bờ vực, nhưng bị trúng một thương vào bắp tay trái từ tên lính ở giữa. Thái thúc ngựa vọt lên trước, song không phóng ngay mà có ý chờ đợi.
Khi áp giặc, Đỗ Thành vung đao xả ngang vai tên kị mã phía trong rồi điều khiển ngựa húc thẳng vào con chiến mã ở hàng dưới làm nó hoảng sợ lồng lên hất chủ ngã lăn, đầu đập vách đá. Do va mạnh nên Thành cũng ngã xuống đường, thấy Thái bị trúng một thương, chàng liền bật dậy bổ thẳng đao vào sườn thằng giặc đâm chiến hữu của mình. Mấy con ngựa không chủ hoảng sợ chạy tán loạn, ngựa của Thành cũng chạy mất.
Khi thấy Thái dừng ngựa đột ngột, Thành quát to:
– Đệ cứ chạy đi, huynh sẽ đuổi theo sau.
Thái nghe lời huynh phi lên phía trước, cố bắt kịp con ngựa của Thành. Cánh tay cầm cương tê buốt, máu chảy đầm đìa xuống lưng ngựa cũng không làm Thái nao núng, lúc ấy chàng chỉ quan tâm làm sao sớm bắt được ngựa để quay về cứu Thành huynh. Phóng chừng nửa dặm thì đuổi kịp con ngựa, nó nhận ra chỗ quen biết nên chạy chậm lại, chàng túm lấy dây cương rồi khiển ngựa quay về tìm đồng đội.
Thành chạy được một đoạn đã thấy Phạm Thái phi về cùng với con ngựa của chàng. Anh em mừng rỡ ra mặt nhưng lòng ai cũng canh cánh lo âu. Thế Quang đang cầm chân địch ở phía sau, sinh tử thế nào không rõ, vậy mà họ buộc phải ra đi, càng sớm thoát hiểm càng tốt. Không thể làm khác được, đấy là mệnh lệnh của huynh trưởng, là quyết định cần thiết để hoàn thành trọng trách được Đại Vương và triều đình giao phó. Nhìn cánh tay của Thái chảy máu, Thành xé vạt áo của mình băng vết thương cho em, rồi cùng nhau phóng ngựa về biên giới.
Khi đến Tam Thạch, anh em Đỗ Thành đi vòng ra phía sau mà không tìm thấy lối lên vách núi nhưng lại phát hiện một khe nứt cao hơn trượng, rộng chừng một cánh tay, đủ một người hoặc một ngựa đi lọt. Đỗ Thành chui vào xem xét, khi quay ra bảo với em “Đi thôi”, rồi người trước ngựa sau cùng chui qua khe núi. Phía trong tối tăm nhưng có ánh sáng lờ mờ ở đằng xa, hai người dò dẫm từng bước, hướng theo nguồn sáng mà đi.
Thì ra đây là một cái hang thông hai đầu xuyên qua sườn núi. Cửa hang bên kia rộng lớn hơn nhiều, Thành và Thái quyết định nán lại chờ Thế Quang. Chỗ dừng chân đã hoàn toàn tách biệt Ma Nhai Đạo, không lo bị giặc phát hiện, họ chỉ lo huynh trưởng không đến được Tam Thạch.
Hồi lâu sau, lòng nôn nao như lửa đốt mà chẳng thấy tăm hơi của Thế Quang, Đỗ Thành bàn bạc với em:
– Đệ tranh thủ nghỉ ngơi dưỡng sức, để huynh quay ra đường thám thính tình hình, biết đâu có thể hỗ trợ cho đại ca.
– Cho đệ đi cùng với. Nếu gặp bất trắc, sức hai người vẫn hơn một người. – Phạm Thái nài nỉ.
Đỗ Thành gạt phắt yêu cầu của cậu em:
– Không được. Đường về còn gian nan mà đệ lại bị thương. Thế Quang huynh chặn hậu để chúng ta vượt thoát, nếu quay ra cả thì phụ lòng huynh ấy sao? Dùng ngựa dễ bị lộ, huynh sẽ đi bộ cho tiện ẩn nấp. Đệ chờ thêm nửa canh giờ, nếu các huynh không về thì cứ lên đường trước, nhắm hướng nam mà đi. Đây là quân lệnh, không bàn cãi.
Bản tính Đỗ Thành vốn hòa nhã, nhưng trong tình thế này chàng buộc phải cất giọng nghiêm khắc để Thái khỏi nài nỉ. Nhớ lời huấn thị của Đại Vương “Người trên bảo, người dưới phải tuyệt đối tuân theo” nên Thái miễn cưỡng phục tùng. Thành lẳng lặng xách đao quay vào hang, đi được mấy bước, chàng quay lại, móc gói đồ từ lưng quần ra, dúi vào tay cậu em:
– Nhờ đệ cất dùm, nhớ lời huynh dặn hôm trước đấy.
Lần này thì Phạm Thái giãy nảy, dứt khoát không nhận ủy thác, chàng nói:
– Huynh kỳ khôi quá, đồ của huynh thì huynh giữ mà đem về tặng hôn thê, sao lại giao cho đệ? Đây là việc tư, đệ không chấp hành đâu.
Thành lý giải:
– Đệ giữ hộ huynh có sao đâu. Sang bên kia biên giới thì trả lại cho huynh.
– Nói thế còn nghe được. Dứt khoát huynh phải đặt chân qua nước mình để đệ còn trao trả.
Trả lời vậy mà lòng Thái không khỏi bùi ngùi, lâng lâng niềm xúc động khiến tâm tư của chàng vẩn vơ một chút âu lo không rõ nét.
Khi Thế Quang chém chết Nhan Hợp, đám kị mã Nguyên rơi vào tình thế lúng túng, chúng giương cung muốn bắn nhưng lại sợ trúng vào đồng bọn ở phía trước. Do đường hẹp nên không thể tạo thế bao vây, ba thằng liều xông lên nghênh chiến, hai thằng bị đao xả trọng thương, một thằng hoảng sợ kìm ngựa ở khoảng cách an toàn. Huynh trưởng chặn ngang đường, khí thế oai phong như mãnh hổ sẵn sàng đánh trả đợt tấn công mới của đám cẩu trệ, tạo điều kiện cho hai em cao chạy xa bay, sớm thoát khỏi cuộc truy đuổi gắt gao của giặc Thát.
Thấy đồng bọn ở đầu đường bên kia bị giết sạch, đám lính Nguyên đồng loạt giương cung bắn Thế Quang.?
Chàng đã lường trước tình thế nên múa đao quạt rụng các mũi tên xé gió lao tới. Nhưng tài nghệ bắn cung của kị binh Mông Cổ gấp bội phần lũ đánh lén trên đèo Tam Điệp năm xưa nên ngựa của Thế Quang bị trúng một tên vào ức khiến nó lồng lên dữ dội. Biết khả năng chịu đựng có hạn của con ngựa bị thương, lại thấy một đám quân đang rầm rập chạy tới, lực lượng tăng viện của chúng đông quá, không ra tay kịp thời thì muộn mất. Chàng bèn sấn đến gã kị binh gần nhất, bổ một nhát đao vào đầu tên giặc rồi phi thân vọt qua đạp hắn văng xuống đất, đoạt ngựa, phóng thẳng.
Đội tiếp ứng đến kịp thời, mấy tên kị binh của Nhan Hợp lên tinh thần, hò nhau lùa về mấy con ngựa chết chủ để bổ sung lực lượng cưỡi ngựa, tiếp tục truy đuổi thám báo An Nam đang đào thoát về hướng biên giới.
Con nâu đốm trắng cướp của giặc chạy được một đoạn thì giở chứng. Có lẽ biết kẻ đang cưỡi trên mình không phải là chủ, nên nó dựng ngược hai chân sau cố hất tung Thế Quang bật khỏi yên. Là kị sĩ lão luyện lại biết ít nhiều về kinh nghiệm thuần phục chiến mã của người Mông Cổ, chàng bèn móc trong chiếc túi nhỏ treo trên yên, lấy ra một cục đường đút vào miệng ngựa và thì thầm điều gì đấy vào tai nó. Quả nhiên con ngựa thuần hẳn, phi như bay trên đường.
Chợt nghe tiếng hò hét ở phía sau, Thế Quang ngoái đầu nhìn, thấy cả đám kị mã Nguyên Mông đuổi theo chỉ cách chàng không đầy một phần tư dặm. Ba tảng đá chồng đã thấp thoáng phía trước, nhưng phi thẳng vào đấy thì khác nào vạch đường cho giặc bám đuổi sát gót các em, chàng bèn phóng qua. Cách Tam Thạch hai dặm là đoạn đèo gấp khúc, nơi có cánh rừng thông nằm trên sườn núi thoại thoải, Thế Quang chọn chỗ đấy để ẩn nấp rồi tìm cách thoát khỏi bọn đeo bám.
Leo lên khối đá chìa ra sát đường, Đỗ Thành náu mình ở trên cao cho dễ quan sát, khi cần có thể nhảy xuống tiếp ứng huynh trưởng. Thấy một người phóng ngựa tới, lúc đến gần thì nhận ra là Thế Quang đang cưỡi một con ngựa đốm. Thành nghĩ huynh đoạt chiến mã của giặc, bèn nhổm dậy, mừng rỡ gọi ầm lên “Đại ca, đệ đây”. Thế Quang nhìn thấy em, chàng lắc đầu làm hiệu rồi phi thẳng.
Nghe tiếng vó ngựa rầm rập vọng đến, Thành biết huynh trưởng đánh lạc hướng quân thù, để chúng không phát hiện ra lối đi bí mật. Chàng cho rằng:
– Trước sau huynh ấy cũng tìm cách quay lại. Khi đại ca mất hút, địch sẽ lùng sục khắp nơi, phải cản đường chúng càng lâu càng tốt.
Thành leo xuống đất, khệ nệ vần mấy tảng đá to vào bên trong khe nứt, rồi quay ra chờ đợi Thế Quang.
Phi ngựa đến đoạn đèo ngoặt khúc, biết bọn địch không thể nhìn thấy mình, Thế Quang giật dây cương điều khiển con chiến mã lao lên rừng thông. Đám kị binh Nguyên Mông phóng qua mà không hay biết kẻ chúng truy đuổi đang ẩn nấp sau thân cây cổ thụ. Chờ cho địch đi được một đoạn, chàng cưỡi ngựa xuống đường rồi quay về ba tảng đá chồng. Vừa đến nơi, đã thấy Đỗ Thành ở đấy, Thế Quang hỏi liền:
– Phạm Thái đâu?
Thành cho biết:
– Thái ở phía trong, chờ ta quay vào hang.
– Hang à? – Thế Quang ngạc nhiên.
– Hang thông hai đầu. Kín đáo lắm. – Thành đáp.
Chàng chỉ cho huynh trưởng cái lỗ nhỏ bên vách núi. Con ngựa đốm lại dở chứng, kéo cách nào cũng không bước chân qua khe nứt tối om, nhưng khi được Thế Quang an ủi bằng một cục đường lấy trong cái túi của chủ cũ, nó ngoan ngoãn theo chàng chui vào hang.
Đỗ Thành tấm tắc khen huynh trưởng:
– Tài thật, đã cướp được ngựa còn khiến nó theo mình, đại ca cái gì cũng giỏi.
Vào hang rồi, họ bê đá xếp chồng lên, bịt cái lỗ hổng nhằm che mắt bọn giặc.
Phạm Thái thấy hai anh xuất hiện, mừng quá reo to:
– Đại ca đây rồi. Đệ biết huynh thừa sức thoát hiểm nhưng trong lòng vẫn lo, bây giờ đã hết lo, vui quá.
Nhìn bắp tay Thái băng vải, Thế Quang hỏi:
– Đệ bị thương à, có nặng không?
– Không sao, chỉ xước da thôi.
Thái nói thế để huynh trưởng an tâm. Do cầm cương điều khiển ngựa nên vết thương vẫn rỉ máu, nhưng chàng chịu đựng được, không muốn chia nỗi lo cho đại ca.
Thế Quang ra bộ nghiêm khắc:
– Đáng lẽ phải đi rồi mà các đệ lại nấn ná chờ đợi, cũng may chỗ này kín đáo an toàn nên huynh không trách, nhưng lần sau chớ có làm trái lệnh đấy. Nào, anh em ta tiếp tục lên đường.
Ba tráng sĩ phóng ngựa vào rừng, nhìn sao trời để định hướng, chặt cành cây mở lối đi, cố gắng tìm đường trở về đất mẹ thân thương đang ngóng trông tin tức của họ.