← Quay lại trang sách

Chương 1 Sông Thủ Chân, Quốc Tuấn cảm hóa Khánh Dư
Vũng Trần Xá, Nhân Tông triệu hồi Phiêu Kỵ

Bấy giờ là cuối tháng chín năm Nhâm Ngọ (1282), Nhân Tông hoàng đế vào độ tuổi 25 nhưng đã ở ngôi được bốn năm. Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông dù nhường ngôi cho con song vẫn tham gia điều hành việc nước, nhưng ngài theo ý chí của phụ hoàng ngày trước nên luôn tạo cơ hội để vua trẻ quen với việc triều chính.

Một bữa, Thượng hoàng cho gọi Thái sư Chiêu Minh Vương và Tiết chế Hưng Đạo Vương tới để phủ dụ:

– Từ ngày trẫm lui về chốn thiền môn đến nay đã được bốn mùa mang áo kép, mà lòng chẳng hề thanh thản, vẫn canh cánh trăm mối lo toan việc sơn hà xã tắc. Nhà vua còn quá trẻ, tuy tâm đức trong sáng nhưng không từng trải, cũng may có các vương đỡ đần trong ngoài nên quốc sự yên ổn, triều đình kỷ cương, trăm họ no ấm. Đây hẳn là phúc lớn của đế nghiệp Đông A và giang sơn Đại Việt. Tuổi trời có hạn, trẫm đâu thể đèo bồng mãi việc nước, đôi khi muốn lơi tay để tìm một giấc ngủ ngon trên giường cỏ thì lại sợ bệ hạ gánh vác không nổi xã tắc này. Vậy các khanh có cách gì giúp trẫm chu toàn cho hoàng thượng tự thân đảm trách quốc gia đại sự?

Hai vị lương đống triều đình nghe xong lời tâm huyết của Thượng hoàng bèn đưa mắt nhìn nhau như ngầm ý bảo “huynh lên tiếng trước đi”. Quả thật họ cùng e ngại vì đề nghị của Thánh Tông đột ngột quá nên chẳng ai kịp nghĩ cách trả lời sao cho hợp đạo lý quân thần trước một vấn đề nếu không khéo nói thì dễ bị mang tiếng là “dạy vua trị nước”. Đùn đẩy nhau cũng có giới hạn, Quang Khải trong cương vị Thái sư đành phải lên tiếng trước:

– Bẩm, theo ý thần, nhân chuyến tuần du đông bắc, ta nên để nghị hoàng thượng cho họp bá quan văn võ ngoài Thăng Long, bấy giờ Thượng hoàng lánh mặt vì một lý do nào đó, thì coi như Quan gia phải tự quyết mọi chuyện còn gì.

– Khanh giải thích rõ hơn, tại sao phải mở hội nghị ngoài kinh thành? – Thánh Tông yêu cầu Thái sư cắt nghĩa tường tận.

– Khởi bẩm, nếu hội nghị ở cung điện thì hoàng thượng vẫn có tâm lý “gia chủ”. Xưa nay người ta thường rất vững bụng và tự tin khi hành xử trong ngôi nhà của mình. Tuy giang sơn Đại Việt chỗ nào cũng là đất của vua, nhưng giải quyết công việc ở ngoài cũng là dịp hoàng thượng thử thách bản lĩnh mọi nơi mọi lúc, điều hành trên thực địa và ra quyết định kịp thời. – Quang Khải lý luận.

Thượng hoàng quay sang hỏi Hưng Đạo:

– Ý của Quốc Tuấn thế nào?

– Bẩm Thượng hoàng, việc thường xuyên tổ chức cho hoàng thượng tuần du, duyệt quân và họp bàn ở nhiều nơi cũng là một cách hay để ngài quen dần với công việc điều hành đất nước ở bất cứ nơi đâu trên lãnh thổ của ngài. Khi nước nhà gặp biến thì dù nhà vua ở trên rừng hay dưới biển vẫn có thể lãnh đạo toàn dân ứng biến. Tình hình hiện nay cũng có nhiều việc phải bàn, nhất là vấn đề một số đại thần hoang mang dao động trước áp lực của Nguyên triều khiến cho nội bộ ta thiếu thống nhất về chủ trương đánh giặc. Coi như một công đôi việc, đáng thực hiện lắm. – Hưng Đạo bày tỏ thái độ của mình.

Thánh Tông lại nói:

– Nghe cũng được đấy, các khanh phải giúp ta làm tốt chuyện này. Trước tiên là mở hội nghị trong chuyến tuần du đông bắc, nhưng địa điểm nên ở đâu?

– Theo ý hạ thần, bến Bình Than có vũng Trần Xá là địa điểm thích hợp tụ hội và thuận tiện giao thông thủy bộ, có bờ sông rộng đủ chỗ nhiều thuyền neo đậu. – Hưng Đạo gợi ý.

Thượng hoàng hài lòng.

Chuyến tuần du năm ấy, Thánh Tông vin cớ trong người không khỏe, từ chối đi cùng hoàng thượng lên miền đông bắc. Thái sư Trần Quang Khải xin nhà vua tổ chức họp bàn các vương hầu và văn võ toàn triều ở bến Bình Than để tìm kể đối phó với giặc phương Bắc đang rình rập trước cửa ngõ Đại Việt.

Sau buổi hầu chuyện Thượng hoàng, Hưng Đạo Vương nghĩ ngay đến một kẻ đang mai một tài năng trong kiếp người lầm lũi mưu sinh, trôi dạt theo dòng chảy u uất của cuộc đời mà trở nên tầm thường, vô danh vô vị. Chẳng phải y không có chí hướng công danh sự nghiệp, cũng không phải là kẻ bất tài tham sống sợ chết mà chui nhủi thân phận nơi giang hà hoang vắng, chẳng qua do y phạm lỗi lầm nên mắc tội, bị Quan gia lột sạch phẩm hàm chức tước, đuổi về làm thứ dân. Nhưng ở đời ai mà không có lỗi lầm trong cuộc sống, nếu không phải tội bất trung hay phản trắc thì cũng nên rộng lòng để người ta đoái công chuộc tội. Nước nhà rất cần nhân tài, nhất là võ tướng giỏi cầm quân đánh giặc, thêm một người là thêm một phần sức mạnh, vậy thì hà cớ gì mà khư khư định kiến nhỏ mọn, cứ riết róng buộc người ta phải gánh tội cả đời. Dịp quần nghị ở Bình Than là cơ hội long vân cho Trần Khánh Dư đó, dứt khoát ta phải bày vẽ để y được trình diện Quan gia, sớm trở về đội ngũ góp sức phò vua giúp nước.

Nghĩ sao làm vậy, Đại Vương sai người dò la tung tích của Khánh Dư, nghe đâu sống quanh quất trong vùng Chí Linh, mưu sinh bằng nghề bán than củi. Sau khi biết rõ nơi chốn của người này, ngài bảo Dã Tượng tháp tùng, một chủ một tớ sửa soạn cưỡi ngựa lên đường từ sáng sớm. Thấy Đại Vương không lấy thêm quân sĩ hộ vệ, đường xa muôn sự khó lường, Yết Kiêu lo ngại nên đòi đi theo. Vương bảo:

– Mình Dã Tượng theo ta là đủ. Đến nhà kẻ đang thất chí mà dẫn theo cả đoàn chỉ khiến người ta mặc cảm.

Căn nhà lá đơn sơ của Khánh Dư nằm lẻ loi bên triền sông Thủ Chân, giữa sân chất đầy than củi, trong nhà ngoài cái án thờ cha có bày vài món đồ cúng bằng đồng thì không còn vật gì đáng giá, ngay đến cái giường đơn và bộ bàn trà cũng sù sì mộc mạc, còn y phục chỉ là mấy bộ đồ nâu thô ráp vắt trên chiếc sào bên vách nhà. Gia chủ đi vắng, chỉ có cậu bé giúp việc đang lúi húi thổi nấu trong bếp. Thấy quan khách là người sang cả, đứa trẻ hơi sợ sệt nhưng cũng lễ phép thưa gửi, lại còn biết xuống bếp đun nước pha trà mời khách. Hưng Đạo ngồi nhìn gia cảnh nghèo hèn của một kẻ từng mang tước vương mà lòng ngậm ngùi về số phận con người. Dã Tượng đứng hầu trước cửa, cả canh giờ không nói một tiếng, chỉ đăm đăm nhìn ra ngoài canh chừng bất trắc.

Tới sang ngọ, Khánh Dư trở về bằng thuyền, xách theo một con cá chép buộc lạt xâu vào mang. Tuổi ngoài tam tuần, tạng người cao lớn bệ vệ, có khuôn mặt vuông vức đầy khí khái và đôi mắt sáng quắc bên dưới cặp lông mày sâu róm rậm rì mang dáng dấp con nhà võ, nhưng Dư lại vận quần nâu áo vá tuềnh toàng như dân làng chài. Thấy trong sân có hai con ngựa cột bên gốc mít và một gã tráng niên mặt mũi dữ tợn đang đứng như tượng đá trước cửa, Dư nhíu mắt ngỡ ngàng vì mấy năm qua chẳng hề có bậc quyền quý nào lai vãng đến chốn nương thân tồi tàn của kẻ sa cơ lỡ bước.

Bước vào trong nhà, Dư sửng sốt khi thấy Hưng Đạo Vương đang ngồi bên chiếc bàn bụi bặm của dân bán than. Biết gia chủ ngần ngại bởi sự xuất hiện đột ngột của mình, Hưng Đạo bèn chủ động lên tiếng:

– Đã lâu không gặp, Phiêu Kỵ tướng quân dạo này sức khỏe ra sao?

– Đội ơn trời Phật, sức khỏe vẫn như ngày nào. Chẳng hay quý ngài có việc gì mà quá bộ đến tệ xá bẩn thỉu này? – Khánh Dư tỏ vẻ cao ngạo, bất cần.

– Ta theo Quan gia kinh lý đông bắc, tiện dịp ghé qua thăm ngài. – Hưng Đạo trả lời.

– Ngài là quan lớn đầu triều nếu không có duyên cớ mà đến nhà tiện dân thì khó tin lắm. Hay là muốn ta gánh thêm tội khác, sự trừng phạt của Quan gia từng ấy chưa đủ thỏa mãn ngài sao? – Khánh Dư căn văn bằng giọng khinh khỉnh.

– Tướng quân nghĩ vậy là phụ lòng ta đấy. Chuyện đã qua đừng nhắc lại nữa, ta cũng quên lâu rồi. Người khí phách như ngài thì hoàn cảnh nào cũng chấp nhận được nên ta đến đây không vì ái ngại cho cuộc sống của ngài, mà thật lòng muốn ngài xúm tay cùng bọn ta gánh vác trọng trách phò vua cứu nước. – Hưng Đạo bộc bạch chủ ý bằng thái độ chân thành.

– Ôi dào, ngài ở trên cao nên nói gì chẳng được. Hạng phế thải như ta thì lấy thân phận nào mà xúm tay gánh vác giang sơn cùng các ngài? Quá lắm chỉ được sung vào lính thú vác giáo xông pha tuyến đầu rồi chết vùi thây ngoài chiến địa chẳng ai hay, chẳng ai biết. – Dư vẫn không ngớt giọng mỉa mai chua chát.

– Ta đâu bảo ngài đăng lính, mà muốn ngài trở lại vị thế Phiêu Kỵ đại tướng quân. Chuyện xưa chỉ là mâu thuẫn cá nhân, không hề làm lu mờ phẩm chất trung quân ái quốc của một chiến tướng lẫy lừng trận mạc như ngài. Phẩm chất ấy là vốn quý của sơn hà xã tắc, dứt khoát phải cất nhắc vào vị trí xứng đáng.

Nghe Quốc Tuấn nói, từng lời thấu vào tâm can Khánh Dư khiến ông bồi hồi xúc động. Không kìm nén được lòng, Dư lấy vạt áo chùi đôi mắt đỏ hoe rồi chắp tay trước ngực, quay mặt kính cẩn hướng ra cửa mà nghẹn ngào hỏi Đại Vương:

– Sức khỏe của Thượng hoàng và Quan gia thế nào? Nhiều lúc nhớ nhị hoàng, ta chỉ biết ngồi buồn so mà hồi tưởng về các vị chứ không dám lai vãng đến kinh thành thăm hỏi.

– Được ơn trên độ trì, nhị vị hoàng đế vẫn bình an mạnh khỏe. Nhưng bây giờ tình thế rất rối ren, ở bên ngoài thì quân Nguyên ngày càng o ép, ở bên trong thì nhiều vương hầu và đại thần lại tỏ ra nhu nhược, chỉ muốn dâng xã tắc cho giặc để được yên thân, nên nhị hoàng chẳng đêm nào có được một giấc ngủ ngon.

Biết Khánh Dư đã xuống giọng đổi ý, Quốc Tuấn tìm cách khơi gợi ý chí quật cường của trang tuấn kiệt đang ẩn mình trong vỏ bọc nông phu. Quả nhiên như ngài phán đoán, Dự trợn mắt đấm ngực, mà rằng:

– Thật là quá đáng, lũ giặc Nguyên chó má lẫn bọn triều thần đớn hèn. Vậy nhị hoàng bảo ngài đến gặp ta à?

Hưng Đạo nói:

– Các vị không sai bảo, nhưng họ vẫn luôn nhắc tới ngài, còn nói: “Vị trí này mà có Nhân Huệ đảm trách thì hay biết mấy”. Chẳng qua ở cương vị đế vương, các vua không thể đường đột hạ chiếu mời ngài hồi triều mà thôi.

– Như thế thì làm sao ra mắt Thượng hoàng và Quan gia? – Dự hỏi đầy nghi ngại.

– Có cách chứ, mấy bữa nữa Quan gia mở hội nghị ở Bình Than, ngài cứ... như thế... như thế... tất sẽ được. – Quốc Tuấn ghé tai Khánh Dư thì thầm to nhỏ.

Nghe xong, Dư liền bật dậy, chắp tay vái dài Hưng Đạo Đại Vương và thốt ra những lời từ trong gan ruột:

– Dư mỗ từng mắc tội với gia đình Quốc công Tiết chế, vậy mà người đã không chấp nê còn bày cho cách tiến cử. Tấm lòng cao thượng của ngài, Dự mỗ xin ghi nhớ suốt đời. Dù việc gặp Quan gia thành công hay thất bại thì thân này vẫn khắc cốt ghi xương ơn nghĩa của Đại Vương.

Hưng Đạo khoát tay không nhận lễ, ngài bảo:

– Tướng quân chớ có câu nệ ơn nghĩa, việc ngài sẵn sàng trở về đội ngũ là đủ đền ơn ta. Một mai trên sa trường nghe tin ngài thắng trận là ta vui sướng nhất rồi.

Đại Vương thở phào nhẹ nhõm như trút được gánh nặng trong lòng. Ngài chỉ cầu mong việc bày đường cho Khánh Dư xuất hiện trước nhà vua diễn ra suôn sẻ, để quân đội có thêm một vị tướng tài biết cầm quân đánh giặc.

Đứng gác ở ngoài cửa, thấy việc thuyết tướng của chủ nhân thuận lợi, Dã Tượng mỉm cười mãn nguyện. Tuy không dám nói năng gì, nhưng lần này chàng ta cứ lẩm bẩm trong miệng:

– Tài thật. Tài thật. Đại Vương quả là người văn võ song toàn. Nghe ngài biện giải thật sướng lỗ tai.

Trung tuần tháng mười, thuyền rồng của vua đậu ở Trần Xá, là cái vũng hình bán nguyệt ăn lõm vào đất. Neo kín bờ sông có non trăm chiếc thuyền lớn bé của các vương hầu và đại thần. Trong khoang thuyền lớn, Quan gia ngồi ghế có tay vịn và lưng tựa, quần thần lớn bé ngồi ghế thấp không tựa, chia tả hữu mỗi bên ba dãy tùy theo thứ bậc mà ngồi trước sau, đầu cuối.

Trần Nhân Tông mặc áo chẽn màu lam thêu rồng, đầu đội mão gấm đồng cân cùng màu với y phục, chân đi hài đỏ mũi cong, nhân diện thanh thoát tinh anh, tuệ nhãn sáng bừng rực rỡ, tinh thần phong quang, cốt cách giản dị, một bậc minh quân trẻ trung và tràn đầy khí phách. Ngài cùng bá quan văn võ nghị đàm từ lúc mặt trời mới lên một con sào.

Hình bộ thượng thư Nguyễn Thuyên dâng sớ đề nghị hoàng thượng bố cáo thiên hạ về việc hặc tội bọn Trần Di Ái để làm gương cho thần tử cả nước. Hàn lâm viện học sĩ Đinh Củng Viên đề cử phái bộ mới sang Nguyên để xoa dịu vụ Di Ái đồng thời trì hoãn âm mưu chinh phạt Đại Việt của phương Bắc. Thú thần Lạng Châu là Lương Uất bẩm báo về tình hình biên cương sau vụ khiêu khích mượn đường đánh Chiêm của Toa Đô. Thái sư Trần Quang Khải trình tấu kế hoạch nạo vét sông Tô Lịch để thuyền chiến có thể vào ra bảo vệ phía đông kinh thành Thăng Long.

Nhà vua xem xét kỹ lưỡng từng vụ việc rồi ra những quyết định sáng suốt và phù hợp, khiến nhiều vị trọng thần cao niên không khỏi thán phục trí tuệ của đấng minh quân trẻ tuổi. Đến giờ ngọ, ngài cho bãi nghị, các quan về thuyền nghỉ ngơi, buổi chiều họp bàn tiếp. Còn lại bốn, năm đại vương trụ cột triều đình được lại dùng bữa với hoàng đế. Tranh thủ lúc chờ lính hầu dọn cơm trưa, Hưng Đạo mời Quan gia và mọi người ra mũi thuyền vãn cảnh sông nước.

Gặp lúc triều rút, dòng sông co ngót lộ ra lớp phù sa nâu quạch ở phía bờ đối diện bến thuyền. Thấy con chim xít mỏ đỏ dẫn theo ba chú chim non tha thẩn kiếm mồi trên bãi bồi, một chim con vướng chân vào vũng lầy, chim mẹ dùng mỏ bới bùn giúp con thoát ra, Nhân Tông bèn chỉ tay nói:

– Muôn loài đều có tình mẫu tử. Bậc sinh thành luôn hết lòng vì con, nhất là khi chúng sa cơ.

Hưng Đạo Vương đứng bên cạnh vua, góp lời:

– Thưa bệ hạ, quả đúng vậy. Là con người hay muông thú, không bề trên nào bỏ con cái, cho dù đôi khi chúng cũng có lỗi lầm.

Bấy giờ ở phía thượng nguồn có chiếc thuyền chở đầy than củi đang xuôi tới. Người chèo thuyền là một nam nhân vạm vỡ, đầu đội nón lá, mặc áo ngắn và vai, tay khua mái, miệng hò vang:

Dô hầy thuyền xuôi

Chở củi cho đời

Đêm đông lạnh giá

Lửa hồng reo vui

Dô ta dô hầy.

Nhân Tông nheo mắt nhìn và bảo với thị vệ:

– Người kia chẳng phải là Nhân Huệ Vương đó sao? Lấy thuyền đuổi theo đưa y về đây.

Quân hiệu chèo thuyền đến cửa Đại Than mới bắt kịp thuyền chở than. Thấy nói được vua triệu hồi, người lái thuyền khẳng khái trả lời:

– Ta chỉ là người bán than mưu sinh. Có gì mà phải triệu hồi? – Rồi nhất quyết không theo về gặp vua mà tấp vào bãi chợ bán hàng.

Nghe quân lính trở về trình tấu lại, hoàng thượng quả quyết:

– Nhất định người này là Nhân Huệ, kẻ dân dã tầm thường đời nào dám nói thế. – Ngài liền sai quan thị Phạm Trung Tín đi triệu bằng được Khánh Dư đến gặp.

Vua tôi gặp gỡ, mừng tủi tỏ bày, bề trên tha thứ, kẻ dưới lạy tạ, một thuyền hân hoan vui vẻ. Được hoàng thượng ban áo ngự và phục chức, Nhân Huệ ngồi dưới các đại vương, trên các hầu tước, cùng bàn việc nước trên thuyền rồng trong buổi chiều hôm ấy.?

Phiên nghị đàm buổi chiều, Quốc công Tiết chế Hưng Đạo trình bày về tình hình quân sự, là vấn đề gai góc, do nội bộ triều thần có nhiều quan điểm trái ngược nhau. Ngài nói:

– Theo ước tính của hạ thần, vệ quân và lộ quân của ta có hơn mười vạn, nếu giặc Nguyên kéo sang hai mươi vạn thì quân ta cứ một phải đánh hai, nếu chúng kéo sang đông hơn thì tương quan lực lượng rất bất lợi cho ta. Vẫn biết quân tinh nhuệ dù ít cũng có thể thắng quân ô hợp đông hơn nhiều lần. Nhưng chúng ta không được khinh suất, quân Thát rất thiện chiến, muốn thắng chúng không chỉ cần tinh thần hay giỏi đánh trận mà còn cần có lực lượng tương xứng. Ngoài quân đội triều đình, ta có vài vạn gia binh của các vương hầu tôn thất, song chừng ấy cũng chỉ thêm thắt được một phần nhỏ mà thôi. Vì vậy thần đề nghị hoàng thượng ban chỉ dụ tuyển thêm năm vạn tân binh bổ sung vệ quân và lộ quân, đồng thời kêu gọi vương hầu khanh tướng mộ thêm gia binh tại các lãnh địa của họ. Thời gian rất gấp gáp, mong Quan gia soi xét.

Hưng Đạo vừa dứt tiếng, đã thấy Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc đứng lên phản bác:

– Tiết chế thống lĩnh quân đội chắc thừa biết quân Nguyên hùng mạnh thế nào, sứ giả của họ là Sài Xuân năm ngoái từng cảnh báo năm mươi vạn quân thiên triều sẵn sàng đợi lệnh kéo vào thanh tảo Đại Việt, vậy ta có bổ sung thêm năm vạn quân cũng chẳng ích gì. Dùng chưa đầy hai chục vạn quân nhiều năm không đánh trận đối đầu với năm mươi vạn quân thường xuyên chinh chiến thì khác nào “châu chấu đá xe”. Muôn tâu bệ hạ, thần cho rằng kế của Hưng Đạo là hạ sách.

Bá quan văn võ xì xào trước chủ kiến của Chiêu Quốc Vương, nhiều người bất bình giận dữ, cũng lắm kẻ tán thưởng phụ họa. Nhân Tông thấy vậy bèn hỏi Ích Tắc:

– Vậy Chiêu Quốc có thượng sách gì, nói cho ta biết?

– Theo ý thần, cương với Đại Nguyên là không thức thời. Ta vốn dân ít nước nhỏ, còn không bằng một vùng Châu Giang bên đó, nếu cứ khăng khăng đối nghịch khiến họ tức giận kéo sang trừng phạt, bấy giờ xã tắc phòng giữ được chăng, hay là nền tự chủ bị họ xóa sạch, triều đình tan rã, quân thần ly tao, còn đẩy dân chúng vào chỗ can qua hoạn nạn, đói rách lầm than? Chi bằng nhún nhường một chút để Nguyên triều nguôi giận, một mặt dâng biểu tạ tội chưa làm tròn bổn phận phiên thuộc kèm theo cống phẩm dồi dào và nhi nữ hoàng tộc có nhan sắc sang kết tình giao hảo; một mặt chấp nhận để họ cử quan lại sang lập phủ Tiết độ sứ giám sát việc trị quốc của triều đình; mặt khác giúp họ vài vạn quân tham gia chinh phạt Chiêm Thành để chứng tỏ thái độ thành tâm quy thuận. Như vậy mọi sự ắt êm thấm, nước vẫn giữ được bình yên, con dân vẫn sống đời phúc mãn, hoàng thượng ở ngôi cao chín bệ vẫn là đấng chí tôn của Đại Việt.

Nghe Chiêu Quốc nói, Nhật Duật ngồi bên cạnh liền nổi giận, bừng bừng sắc mặt mà quát lớn:

– Ta không giỏi luận lý nhưng càng nghe huynh nói lại càng thấy sự đớn hèn nhu nhược. Nào là dâng biểu tạ tội, nào là cống nạp mỹ nữ hoàng tộc, nào là mời thái thú sang cai trị, những việc như thế là giúp cho giặc sớm xóa sổ vương triều, bấy giờ Đại Việt quốc sẽ thành An Nam phủ hay Giao Chỉ quận chi đó, lúc ấy lấy gì ra mà tự chủ?

Nhiều tiếng gầm ghè nổi lên, không ít khanh tướng mặt đỏ tai tía sẵn sàng lên tiếng mắng chửi kế sách nhục nhã của Ích Tắc. Mấy kẻ chủ hòa thấy bất lợi, ngồi im phăng phắc, không dám ho he một tiếng. Nhân Tông vẫn lắng nghe nhưng không hề đổi sắc mặt, để giữ hòa khí, ngài nói:

– Ta muốn các khanh có thái độ bình tĩnh, quân thần đều là người một nhà, không nên tranh cãi om sòm dễ sinh hiềm khích. Dùng lý lẽ mà thuyết phục người khác có tốt hơn không? – Không cho biết chủ ý của mình, Nhân Tông lại quay ra hỏi nhị vị vương gia đầu triều:

– Chiêu Minh và Hưng Đạo có ý kiến gì về kế sách của Chiêu Quốc?

Quang Khải trình bày:

– Cách biện giải của Chiêu Quốc không thể chấp nhận được, xem ra trái thiên đạo, nghịch nhân tâm, nếu làm vậy là đắc tội với tông miếu xã tắc. Mệnh trời giao phó cho Đông A đứng đầu bách tính, làm chủ một cõi giang sơn trù mật, mà nay lại rước giặc vào nhà thì khác nào làm công cụ cho chúng hà hiếp muôn dân. Bấy giờ triều đình này không còn là của thần dân Đại Việt mà chỉ là một nhóm quý tộc bợ đỡ quân Nguyên để được yên thân, rồi sớm muộn cũng hòa huyết với người phương Bắc mà tanh lòng với đồng tộc, đồng bào. Giữa ta với Chiêm Thành mấy năm nay một mực hòa hiếu, đầu xuân họ còn cho người sang dâng voi trắng, vậy mà muốn làm hài lòng giặc Thát lại theo đuôi chúng đem quân sang tàn phá nước người, thật chẳng khác gì lòng lang dạ sói, trở mặt thành thù, bỏ nhân nghĩa để chuốc oán cừu.

Hưng Đạo Vương cả mừng khi thấy tinh thần trung dũng của Chiêu Minh Vương được nhiều người hưởng ứng, chờ cho khí thế của đình thần lắng xuống, ngài mới lên tiếng:

– Chiêu Quốc biết một mà không biết hai, so sánh lực lượng đôi bên để cho thấy ta yếu hơn giặc nên cần tăng cường thêm quân đội, không có nghĩa tình thế của ta bất lợi hơn giặc. Quả thật, nếu dàn quân hai nước đánh nhau một trận để phân thắng bại thì ta khó địch được chúng, song kết quả của chiến tranh không phụ thuộc vào một trận đánh. Giặc tuy đông quân nhưng vào đất lạ đã không thông thuộc địa hình lại còn chẳng quen phong thổ, không được sự hậu thuẫn của dân chúng lại phải vận chuyển lương thảo từ xa đến, đó chính là tình thế bất lợi của kẻ xâm lược. Đại Việt ta đâu chỉ có mười hoặc hai mươi vạn quân, chúng ta còn có hàng triệu thần dân trong nước, họ cũng biết cầm vũ khí đấy, một khi quý vị nhất quyết cùng quan gia hô hào, khích lệ và lãnh đạo người dân sát cánh với quân đội đánh giặc giữ nước, Hoàng thượng phất cờ hiệu triệu, quần thần tuốt gươm đồng tâm, tất dân chúng sẽ hưởng ứng. Ta có núi rừng, ta có làng bản, ta còn có dũng khí và nhân tâm, đó chính là tình thế đại lợi của ta, vậy thì sợ gì năm mươi vạn quân Thát?

Nói đến đấy, giọng Quốc Tuấn chùng xuống, ngài hướng mặt rưng rưng nhìn hoàng thượng rồi thổ lộ nỗi lòng:

– Buổi sáng nay, trước lúc nghị đàm, thần và các quan chứng kiến việc Hoài Nhân Vương và Hoài Văn Hầu nằng nặc đòi vào tham nghị, do hai người còn nhỏ tuổi chưa thể luận bàn việc nước nên hoàng thượng đến an ủi và ban quà cho họ. Nhìn gương mặt phẫn kích của bọn trẻ, quả thật lòng thần rất xúc động nhưng cũng vô cùng phấn khởi vì thấy ý chí của huyết thống Đông Á mạnh mẽ biết nhường nào. Mạn phép bệ hạ, thần có đến khuyên chúng một câu “Các ngươi hãy trở về mà nghĩ cách phò vua giúp nước theo khả năng của mình”. Thần tin rằng Hoài Nhân và Hoài Văn sẽ ứng nghĩa cùng triều đình từ thái ấp của họ. Ước sao các vị ngồi đây ai cũng có tinh thần quật cường như tụi đầu xanh tuổi trẻ.

Hưng Đạo vừa ngưng lời, từ hàng ghế cuối có kẻ lên tiếng:

– Khởi bẩm Quan gia, xin người cho phép hạ thần được hỏi Hưng Đạo Vương một câu.

Mọi người quay lại nhìn, thì ra đó là Chương Hiến Thượng Hầu Trần Kiện con trai của Tĩnh Quốc Vương Trần Quốc Khang, hiện trọng nhận trấn thủ Ái Châu. Thấy hoàng thượng gật đầu đồng ý. Chương Hiển bền cao giọng hỏi:

– Hưng Đạo Vương có đề nghị Quan gia hô hào các vương hầu tuyển mộ và huấn luyện dân binh cho đông đảo để ứng nghĩa cùng triều đình đánh giặc. Vậy xin hỏi ngài tuyển mộ bao nhiêu cho vừa, lấy gì mà nuôi họ ăn ở và luyện tập, nếu triều đình không cấp kinh phí thì các vương hầu làm sao có tiền bạc để mộ quân?

Quốc Tuấn trả lời:

– Ngân quỹ quốc gia có hạn, nếu đem phân phát cho mọi người để mộ binh thì e rằng không đủ, dù có cấp cho thì cũng không quản lý nổi việc chi dùng. Các vương hầu ai cũng có thái ấp rộng lớn, ruộng đồng ngàn mẫu, tá điền vạn định, thóc lúa đầy kho, bạc vàng đầy rương, vậy mà phò vua cứu nước nhưng chẳng muốn sử dụng vật lực của mình lại đòi triều đình cấp phát. Đấy là ứng nghĩa sao? Ta nghe nói điền trang của Chương Hiến ở Ái Châu lớn hơn một huyện, còn phủ của hầu to gấp ba lần dinh của vương, kinh phí nuôi gia binh sợ gì thiếu thốn?

Bị Hưng Đạo cật vấn, Trần Kiện đuối lý, ngượng nghịu ngồi im. Quốc Khang thấy con bí thế bèn nói đỡ một câu:

– Chương Hiến tâm địa không tệ nhưng nông cạn, được Hưng Đạo chỉ giáo mới sáng mắt.

Trần Kiện còn là con rể của Chiêu Minh Vương, nên khi thấy hiền tế ăn nói thiển cận, Quang Khải không lên tiếng phê phán, chỉ ngồi yên mà lắc đầu ngao ngán. Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trong ngồi ngay sau Tĩnh Quốc, suốt buổi họp bàn không hề nói năng, bấy giờ mới lên tiếng:

– Vương hậu khanh tướng ở đây đều là rường cột lớn nhỏ chống đỡ hoàng triều, ai cũng được ân sủng dồi dào, nếu cứ khư khư cái hầu bao của mình mà không lo củng cố nền móng thì khi dông bão ập đến bấy giờ rường cột cũng gãy đổ.

Nhân Tông nghe xong bật cười, mà rằng:

– Bảo Nghĩa ví von chí lý lắm. Các khanh hãy ghi nhớ lời của y. Từ nãy đến giờ ta được nghe nhiều thuyết giải rồi, nhưng mọi ý kiến đều từ miệng của kẻ quyền thế, trong khi ta lại muốn biết người dân ngoài kia nghĩ gì về đường lối vệ quốc. Nay có Nhân Huệ mới hồi triều tùng mấy năm sống đời dân dã, vậy vương hãy cho ta và quần thần được biết lòng dân nghĩ sao về việc này?

Khánh Dư ngồi ở hàng giữa bá quan, được bệ hạ chỉ đích danh, do đã lâu không tham gia nghị chính nên có vẻ lúng túng, Hưng Đạo phải đưa mắt khích lệ, ông mới ấp úng trả lời:

– Muôn tâu thánh thượng, do mưu sinh buộc thần phải lăn lộn khắp nơi, quan hệ với nhiều hạng người nên ít nhiều hiểu được nhân tâm mong mỏi điều gì. Triều đình ta họp bàn chính sự mỗi năm chỉ độ dăm, bảy lần, còn người dân bàn việc nước ở mọi nơi mọi lúc, nhất là khi trà dư tửu hậu, tuy họ vẫn biết rằng tiếng nói của kẻ thấp cổ bé họng chẳng thể lọt thấu tại ngôi cao chín bệ. Nhưng dân chúng rõ cả đấy, từ việc nhà Nguyên o ép vương triều đến việc Di Ái cam tâm bán nước, họ bức bối lắm, căm giận lắm, chỉ mong đợi hiệu lệnh từ đấng minh quân để xúm tay vào gốc vác non sông, chứ nhất quyết không cam tâm quỳ gối khom lưng làm tôi đòi cho giặc. Có lão ông từng theo tiên để đánh Thát thời Nguyên Phong còn nói: chúng mà kéo sang, lão tuy chẳng được như xưa cũng sẽ vác gươm tòng chinh...

Hơn trăm cặp mắt hướng về quân vương, nhìn ngài chống cằm tư lự ra chiều xúc cảm lắm. Cả nghị đình im lặng như tờ, nghe vọng vào tiếng sóng triều ọp. Ở ngoài kia nước sông đang dâng lên...?

Sau lúc ưu tư, Nhân Tông đưa mắt dõi khắp lượt quan viên rồi truyền dạy:

– Làm vua một nước ai cũng muốn xã tắc được bình yên, triều đại được thịnh cường, nhân quần được no đủ. Song không thể đổi hòa bình bằng mọi giá. Mới rồi nhà Nguyên hạ chiếu bắt trẫm sang chầu, còn đòi ta thực hiện cho đủ sáu điều ô nhục. Đường đường là vua Nam quốc mà phải đến tận Đại Đô quỳ lạy vua nước người hay sao? Phải dâng sổ đinh cho chúng kiểm soát dân số hay sao? Phải trợ binh đi chết thay cho chúng hay sao? Phải rước mời Đạt lỗ hoa xích sang cai trị dân ta hay sao? Những điều ấy trẫm không làm được. Chúng ta vẫn cố giữ thái độ mềm mỏng để có được hòa bình, nhưng một khi bị dồn vào đường cùng thì không còn cách nào khác ngoài việc vua tôi đồng lòng mài gươm sửa giáo đợi giặc đến. Ý trẫm là vậy, lòng dân cũng thuận theo ta, mong các khanh hiểu thấu tâm can này mà suy ngẫm trách nhiệm của mình trước vận mệnh xã tắc.

Hưng Đạo vô cùng phấn khởi, chủ ý của nhà vua đã rõ ràng. Sá gì mấy kẻ chỉ biết vinh thân phì gia, cầu an hưởng lạc mà đớn hèn trước giặc, vua tôi Đại Việt đã sẵn sàng một phen sống mái với lũ ngoại xâm phương Bắc. Đêm khuya cao hứng, Vương này tình làm một bài thơ tứ tuyệt:

Vua mạnh dân bền, chung ý chí Muôn lòng sắt đá dựng kỳ công Chẳng sợ quân Hồ nhiều ngựa chiến Hỏa ngục non Nam ắt rực hồng.Đế dùng dân kiện chí nhất đồng Vạn tâm thạch thiết kết kỳ công Bất đảm binh Hồ đa chiến mã Hà tại Nam sơn ngục hỏa hồng.