Chương 2 Uất chí bến Bình Than, Hoài Văn chiêu quân ứng nghĩa
Nặng lòng vườn Thanh Trúc, Mẫn Bà bán ngọc may cờ
Lại nói về Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, người đã rủ Hoài Nhân Vương dong thuyền đến Bình Than, hy vọng được thay cha tham nghị việc nước. Sở dĩ có chuyện này vì cha của cậu là An Bình Vương qua đời từ hai năm trước, nên triều đình không gửi công văn triệu hồi. Tình cờ Hoài Nhân ghé qua chơi, bấy giờ Quốc Toản mới biết được thông tin Quan gia mở hội nghị bàn kế giữ nước. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng Hoài Nhân đã mang tước vương vì là con của Thượng hoàng Trần Thánh Tông, em cùng cha khác mẹ của Nhân Tông hoàng đế. Cho nên không có gì lạ khi Hoài Nhân thông thạo tin tức triều chính hơn Hoài Văn.
Một bậc vương, một bậc hầu, hơn kém nhau một tuổi, song hai người kết bạn với nhau từ nhỏ vì điền trang của hai nhà cùng trong huyện Thanh Lâm. Khi nghe nói mở hội nghị Bình Than, Hoài Văn bảo với Hoài Nhân:
– Sao ta không được gọi nhỉ? Huynh có được gọi không?
Hoài Nhân đáp:
– Triều đình quy định vương hầu đủ mười tám tuổi mới được dự việc nước. Huynh mới mười sáu, còn ta mới mười lăm nên không được dự.
Quốc Toản bất bình:
– Như vậy ta không phục. Tuy chưa đủ mười tám nhưng chúng ta cũng biết phân biệt trắng đen, biết ứng thuận chống nghịch, biết ai là bạn, ai là thù. Giả sử giặc tràn sang thì tráng niên mười tám tuổi trở lên mới được đánh giặc à, còn tụi ta phải bám váy mẹ mà trốn chạy vào rừng hay sao?
Hoài Nhân tặc lưỡi có vẻ hiểu vấn đề nhưng “lực bất tòng tâm”:
– Biết vậy, song quy định như thế, phải tuân thủ thôi.
Quốc Toản tỏ thái độ cương quyết:
– Không được. Là nam tử ở đời, bất luận tuổi tác ai cũng có trách nhiệm tham gia công việc phò vua giúp nước. Ta cứ đi, đến đấy tranh đấu cho ra lẽ.
Hoài Nhân do dự:
– Lỡ không được vào còn bị hoàng huynh quở trách thì tính sao?
Quốc Toản lý giải:
– Mình không phải nghịch thần tặc tử nên không việc gì phải sợ. Chẳng cho vào thì thôi chứ Quan gia đời nào bắt tội người có lòng muốn tham dự việc nước.
Hoài Nhân thấy an tâm hơn, gật đầu chấp thuận:
– Đi thì đi.
Thế là hai chàng niên thiếu vận lễ phục theo phẩm trật, sai tôi tớ dong vương thuyền của Hoài Nhân từ thượng nguồn sông Thủ Chân xuôi về bến Bình Than cách đây chừng bốn mươi dặm.
Khi đến vùng Trần Xá thấy thuyền bè đậu san sát, ngựa xếp kín bãi, cờ xí bay rợp trời, lính canh vòng trong vòng ngoài thật uy nghi hoành tráng đủ khiến cậu trai hiền lành Hoài Nhân tỏ ra ngần ngại. Hoài Văn phải khích lệ:
– Đã đến đây rồi, còn chần chừ gì nữa. Huynh là hoàng tử, dưới một người trên muôn người, việc gì phải dè dặt.
Họ đậu thuyền từ xa, cuốc bộ vào vùng cấm địa. Lính canh vòng ngoài thấy hai vị tiểu vương hầu áo mũ xênh xang, lại có người biết mặt Hoài Nhân nên không dám ngăn cản. Nhưng khi muốn lên thuyền rồng thì bị cấm vệ cự tuyệt. Quốc Toản một mực đòi vào, cấm vệ khăng khăng cản lại, khiến cậu chàng bất bình tranh cãi.
Bấy giờ Quan gia và đại thần đứng trên thuyền rồng đàm đạo, nhìn xuống bờ thấy có đám đôi co ầm ĩ, nhà vua bèn sai thị thần gọi hai kẻ to tiếng lên thuyền để hỏi chuyện.
Nghe Hoài Văn và Hoài Nhân giãi bày mong muốn được tham gia hội nghị bàn việc nước, hoàng thượng không quở trách còn dùng cách xưng hô trong nhà mà từ tốn giải thích:
– Các đệ còn nhỏ tuổi nên chưa thể dự bàn. Hãy về nhà tu tâm dưỡng tính và rèn luyện võ nghệ cho giỏi, vài năm nữa đến độ trưởng thành đương nhiên huynh sẽ có ghế dành cho hai người.
Quốc Toản vẫn cố dùng lý lẽ thuyết phục nhà vua:
– Khởi bẩm bệ hạ, thần và Hoài Nhân Vương đến đây chỉ cốt bày tỏ thái độ sẵn sàng tham gia đánh giặc giữ nước, chứ không có ý gì khác. Chúng thần nghĩ tuổi tác không quyết định tinh thần, tại sao phải quy định giới hạn?
Nhân Tông nghe thấy vậy liền cười rồi nói:
– Ta khen ngợi nhiệt huyết của mấy đệ nhưng cho các em tham dự thì nếu cả trăm vương hầu trạc tuổi hai người cũng đòi phá lệ để được vào, bấy giờ chỗ đâu mà chứa. Hãy nghe lời huynh, các đệ về đi. – Nói rồi, tiện thấy trên bàn có đĩa cam tươi, vua lấy hai trái dúi vào tay Hoài Văn và Hoài Nhân, lại sai thị vệ tiễn họ xuống thuyền.
Lòng Quốc Toản uất nghẹn nhưng chẳng biết nói gì thêm, đành lủi thủi cùng Hoài Nhân rời bến. Bi phẫn ngập tràn cảm xúc, bàn tay Toản bóp nát quả cam của vua ban mà không hề hay biết. Hoài Nhận thấy vậy liền an ủi bạn:
– Không dự họp lần này thì còn lần khác. Quan gia hứa vài năm nữa ắt có ghế cho mình. Bấy giờ ai dám cản?
Chợt có tiếng gọi từ phía sau:
– Tiểu vương hầu, hãy chờ ta.
Họ quay lại, thấy Quốc công Tiết chế đang rảo gót đi tới. Hưng Đạo đến gần hai nhà quý tộc nhỏ tuổi rồi bảo:
– Lúc nãy ta đã chứng kiến lòng nhiệt thành của các em. Quả tình ta rất cảm phục chí khí tuổi trẻ. Nhưng các em cũng nên cảm thông cho hoàng thượng, quy định vua ban không thể có ngoại lệ, như thế mới giữ được kỷ cương. Quan gia không để hai người dự họp nhưng ngài đâu thể cấm các em tổ chức đánh giặc. Hãy về mà nghĩ cách phò vua giúp nước theo khả năng của mình.
Lời của Hưng Đạo làm lóe lên trong đầu Quốc Toản một ý định chưa thật cụ thể nhưng đã có hình hài, mở ra một hướng giải quyết khát vọng rất sáng sủa và trong tầm hiện thực. Niềm lạc quan lại đầy ắp, Hoài Văn cười rạng rỡ, cùng Hoài Nhân bái tạ Tiết chế Đại Vương, rồi đôi bạn hồ hởi xuống thuyền lại đáo Thanh Lâm.
Trên đường về, họ bàn luận sôi nổi lắm, khiến mấy gã gia nhân thầm thì bảo nhau:
– Hai vị tiểu chủ nhà mình tuổi trẻ tài cao chắc được nhà vua đề bạt làm tướng nên chỉ thấy bàn chuyện ngũ lữ, gươm giáo với cờ xí.
Phu nhân Trần Thị Trúc Mẫn là cháu họ của Thái sư Trần Thủ Độ, khi xuân xanh đôi tám được gả cho tướng quân An Bình Vương Trần Phái. Tuy duyên phận do hoàng gia sắp đặt nhưng tình nghĩa vợ chồng vẫn đầy ăm ắp, có điều họ chung sống với nhau mười lăm năm mà vẫn không có con nên bầu không khí trong nhà buồn tẻ lắm. Nghe ở đâu có thuốc hay thầy giỏi là vợ chồng bà cũng nhất quyết thỉnh về, nghe ai nói miếu nọ đền kia rất linh thiêng dù cho xa tận Hoan Ái thì hai người cũng lặn lội tìm đến cầu tự. Nhưng ông trời quá cay nghiệt với họ, khi trên đầu tướng quân đã hai thứ tóc mà trong nhà vẫn vắng bóng trẻ thơ. Nhiều lúc buồn tủi trước ánh mắt dè bỉu trong tộc họ, phu nhân muốn lang quân cưới thiếp để có con nối dõi, song ông cứ lảng tránh mãi.
Thế rồi một người mách bảo với bà ở vùng Xích Thổ ở trên bờ sông Gián Khẩu có đền thờ Long Vương Đông Hải là nơi nhiều người đến cầu con đều được linh ứng. Nghe nói nơi ấy xưa kia có nàng thiếu nữ xinh đẹp thường ra sông tắm gội, một lần thái tử Long cung theo sông nước dạo chơi vùng sơn thủy hữu tình đã tình cờ nhìn thấy nên đâm ra mê mẩn. Ngài hóa thành chàng trai tuấn tú đến bắt chuyện làm quen, rồi từ đó đôi bên đem lòng yêu thương nhau. Nhưng người trần không thể kết duyên và có con với thần biển, nàng đành ôm hận mà nguyện một đời ở vậy. Khi thái tử trọng nhạm Đông Hải đã cảm thương người xưa tình cũ mà chú nguyện cho nước nguồn trên núi – nơi họ thường dạo chơi – linh ứng với đôi lứa đến cầu phúc, cầu tự.
Trúc Mẫn phu nhân thuyết phục chồng thêm một lần nữa thành tâm đi lễ bái, biết đâu lại được báo đáp. Vì thương vợ mà An Bình Vương miễn cưỡng cùng bà lên đường, tuy trong lòng ông đã mất hết niềm tin vào khả năng thần thánh sẽ phù trợ cho mình có một mụn con.
Họ đến nơi thì trời chuyển mây u ám rồi mưa trút xuống xối xả. Lúc bước lên thềm ngôi đền, phu nhân bị trượt chân ngã bệt xuống, bụng dưới đập vào cạnh bậc đá đau điếng. Nhưng bà chẳng dám kêu rên mà còn nói “Không sao” vì sợ ông phàn nàn đi cầu may lại rước họa. Sau khi đặt lễ cúng dường, hai vợ chồng quỳ trước linh vị thần biển mà lầm rầm khấn khứa. Ông thủ từ nhà đến bước ra từ hậu đường, trên người khoác áo lụa đỏ, đầu quấn khăn xếp đội một khay nước, chắp tay bái vọng ban thờ, miệng lanh lảnh van vái:
– Long Vương đại hải. Uy Vũ cõi đông. Ra ơn cứu độ. Giúp vợ trợ chồng. Phu phụ Trần Phái. Được con nối dòng. Lòng thành kính bái. Ân đức thiên tai.
Rồi thủ từ nhấc chiếc khay khỏi đầu, chén nước vẫn đầy nguyên không đổ ra ngoài một giọt, ông dâng cho phu nhân và nói:
– Nước này hứng từ khe núi sau đền, xin phu nhân hãy uống cạn.
Lạ thay, Trúc Mẫn vừa uống xong chén nước thì một tiếng sét nổ vang trên núi, mọi người nhìn ra ngoài đã thấy mưa tạnh trời quang, ánh nắng chói lòa gieo sắc vàng lấp lánh mặt sân sũng ướt. Thủ từ kinh ngạc bảo:
– Ứng nghiệm nhanh quá. Thiện tại. Thiện tai.
Trở về thái ấp chưa hết tuần trăng, phu nhân thấy trong người đổi khác. Một hôm bà thỏ thẻ với chồng:
– Hình như thiếp đã có thai.
Ông tưởng mình nghe nhầm, bèn hỏi lại “Có gì?”. Bà trả lời “Có thai chứ còn gì nữa”. Bậc trượng phu mừng quá líu cả lưỡi mà rằng “Thật... thật à? Sao... sao bây giờ mới nói?”. Bà đáp “Phải chắc chắn mới dám nói”. Thế là An Bình Vương cùng hai gia nhân phóng ngựa thâu đêm đi tạ lễ nhà đến. Chuyện đến tại Thượng hoàng Trần Thái Tông, một hôm sau buổi chầu, ngài hỏi An Bình:
– Ta nghe nói phu phụ tướng quân cầu đền Long vương đã đậu thành quả?
– Khởi bẩm Thượng hoàng, vợ thần mang thai được sáu tháng. Trước kia vợ chồng bề tôi có đến cầu Long Quân, song huyền cơ thế nào hạ thần không dám khẳng định. – An Bình trả lời thành thật.
Thái Tông lại nói:
– Dầu thế nào ta cũng mừng cho vợ chồng khanh, cũng là mừng cho dòng dõi Đông A. Nội tộc thêm con, hoàng gia thêm cháu là phúc của trời ban cho họ Trần ta đó. Quả đúng thánh thần phù trợ thì đứa trẻ này khác người lắm. Mai mốt phu nhân lâm bồn, nếu sinh con trai hãy đặt tên là Quốc Toản, mang nghĩa là chén ngọc quý của nước nhà dâng lễ trời đất.
Rồi ngài lấy bút viết chữ Toản lên giấy và đưa cho An Bình Vương. Tướng quân mừng lắm, khấu đầu lạy tạ Thượng hoàng bằng tấm lòng tràn trề cảm kích. Trên đường trở về thái ấp, ông linh cảm hài nhi trong bụng vợ sẽ là con trai.
Ngày Quốc Toản chào đời, An Bình Vương cho trồng thật nhiều trúc quanh dinh thự và đặt tên thái ấp là Thanh Trúc viên, vừa thể hiện tấm tình đối với hiền thê Trúc Mẫn đã cần mẫn một đời tìm kiếm cho được hạnh phúc tươi tốt, vừa khẳng định niềm tin đứa con đầu lòng sẽ lớn khôn khỏe mạnh và được chăm chút nên người, sớm trở thành một trang nam tử có khí phách và ngay thẳng như tre trúc.
Từ ngày đức lang quân mắc bạo bệnh qua đời, gia cảnh của phu nhân Trúc Mẫn không còn sung túc như xưa. Mất lương bổng của triều đình, nguồn sống của hai mẹ con chỉ trông vào khoản nông phẩm do tá điền cống nộp. Dẫu cuộc sống khó khăn hơn trước, nhưng tâm tính của bà chẳng hề đổi khác, vẫn nhân hậu với những hoàn cảnh hoạn nạn và chu đáo với kẻ ăn người ở trong nhà. Bà tâm niệm cuộc đời mãn nguyện rồi, cao xanh đã đắp điểm cho mình đủ hạnh thì cũng nên chia phúc cho người khác, đấy mới là lẽ an bằng của hóa công.
Ông nhà quy tiên chưa đầy nửa năm thì lũ lụt đổ về làm ngập úng đồng ruộng, còn bao nhiêu thóc dự trữ, bà sai người phân phát hết cho các hộ bị mất trắng mùa màng, chỉ để lại số lượng thực đủ dùng qua cơn giáp hạt. Trước kia trong nhà có tới ba chục tôi tớ, phận góa bụa đâu cần lắm kẻ hầu người hạ, nên bà cho về gần hết, chỉ giữ lại dăm người thân tín nhất. Các gia nhân rời thái ấp đều được cấp chút ít vốn liếng hoặc một mảnh đất để dựng nhà. Đức hạnh của quả phụ Trúc Mẫn được người trong vùng hết lòng khâm phục, họ gọi Bà bằng thái độ tôn kính nhất.
Quốc Toản từ Bình Than trở về đã vội vàng vào nhà vấn an mẹ. Thấy ánh mắt của con có vẻ phân vân lưỡng lự, biết Toản đang nghĩ cách thưa gửi điều gì đó, Mẫn Bà bèn chủ động dò hỏi:
– Xảy ra chuyện gì vậy? Mẹ có giúp được cho con không?
Toản ngần ngừ chốc lát rồi thú thật với mẹ:
– Có một việc hệ trọng nhưng không phải chuyện xấu mà là điều đại nghĩa. Con và Hoài Nhân Vương đang bàn tính kế hoạch thực hiện, chỉ mong được mẹ chấp thuận.
Bà nói:
– Việc gì? Con nói rõ xem nào. Nếu hợp đạo lý thì mẹ sẽ ủng hộ.
Toản trình bày:
– Hoàng thượng và triều đình họp bàn việc nước ở Bình Than. Con và Hoài Nhân có đến nhưng vì còn nhỏ nên Quan gia không cho dự. Lòng con uất ức lắm mà không biết làm sao có thể góp Công sức đánh đuổi ngoại xâm, báo đến ân nghĩa của hoàng triều. Hưng Đạo Đại Vương thấy vậy bèn chỉ dạy “Quan gia không cấm ai đánh giặc. Hãy tùy theo khả năng của mình mà phò vua giúp nước”. Chúng con đã ngộ ra chân lý nên nhất quyết sẽ dựng cờ tụ nghĩa, tuyển mộ dân binh, rèn mác luyện võ, sẵn sàng đánh giặc khi chúng kéo sang. Thưa mẹ, cha con một đời trung quân ái quốc, vì người đã mất nên không thể góp mặt ở Bình Than, nhưng chí khí của người vẫn sôi sục trong huyết mạch của con, con nhất định phải kế tục.
Nói đến đấy, Toản nghẹn ngào ngước nhìn làn khói hương quản quanh bên linh vị trên bàn thờ cha, rồi buồn bã thở dài:
– Ngặt nỗi nhà mình bây giờ không còn dư giả, nên con chưa biết lấy đâu ra tiền bạc để chiêu quân. Nếu mẹ chấp thuận cho con ứng nghĩa đánh giặc thì xin người tìm cách giúp con vượt qua khó khăn này.
Người mẹ lặng nhìn con mà ứa lệ. Nó đã khôn lớn thật rồi, trong cơ thể trẻ ranh có lửa, có nhiệt huyết tràn trề và khí phách hiện ngang. Mẫn Bà cảm nhận được hình bóng của người chồng trong dáng vóc Quốc Toản, đứa con duy nhất được bà đứt ruột đẻ ra sau quá nửa cuộc đời mòn mỏi trông đợi. Nhưng không người mẹ nào vui vẻ khi thấy đứa con niên thiếu khoác áo chinh nhân, không người mẹ nào an lòng khi thấy con trẻ dấn thân vào sa trường máu lửa. Tình mẫu tử của bà cũng vậy, nó đang ngụy tạo một lớp vỏ thiêng liêng để níu kéo tâm hồn xuống tận cùng thăm thẳm của lòng vị kỷ và ra sức biện minh bằng bản năng thiên chức “Con còn nhỏ tuổi, hãy ở trong vòng tay mẹ, để mẹ được bao bọc con lâu hơn”.
Vậy mà vị chát trên bờ môi lại khiến Mẫn Bà chợt hiểu có điều gì bất ổn trong suy tính của mình. Bà tự nhủ:
– Không nên yếu đuối trước mặt con. Ở tuổi của ta, khóc lóc giàn giụa chỉ là nỗi hờn cô độc.
Ngước nhìn lên, thấy khói nhang mù mịt hương án như chất chưa biết mấy niềm u uất nơi vong linh người chồng quá cố, Mẫn Bà bần thần cảm giác có lẽ hương hồn ông chẳng đồng tình với cách nghĩ của bà. Bà thấy hổ thẹn trong lòng vì đã cố tìm kiếm lý lẽ để chống chế phản ứng bột phát khi biết con trai muốn tham gia trận mạc đánh giặc cứu nước. Giang sơn, dân tộc và triều đại là những thứ lớn lao hơn tình cốt nhục, vợ chồng bà đã dạy dỗ con nên người bằng đạo lý ấy, con của bà đã lớn khôn bằng lẽ sống ấy.
Thôi đành nuốt nước mắt cho chảy xuống tận đáy lòng sâu kín, để tủi buồn cô quả không làm vướng bận tâm trí con trẻ; thà tận tụy giúp con ứng nghĩa phò vua còn hơn rào dậu chí khí thanh xuân trọng lũy tre kín gió; thà nâng đỡ bước chân con trên đường đời cát bụi còn hơn vận tình mẫu tử mà níu giữ thân phận nam nhi quẩn quanh trong xó nhà để báo đền ơn nghĩa sinh thành.
Tâm tư thông suốt, Mẫn Bà nói với con trai:
– Quả thật, nhà ta chẳng có mấy của nả. Nhưng mẹ vẫn còn một số vàng ngọc dành dụm bấy lâu, tuy không nhiều nhưng cũng đủ cho con làm kinh phí tụ nghĩa trong thời gian đầu. Con hãy lo việc tổ chức chiêu quân, phần tiền bạc mẹ sẽ chu cấp.
Quốc Toản mừng lắm, vội quỳ dưới gối bà mà cảm tạ từ mẫu rồi cùng hai gia nhận vội vã phóng ngựa đi. Nhìn bóng con khuất dần sau lũy trúc, Mẫn Bà nở nụ cười trìu mến.
Đêm ấy phu nhân mở cái rương chứa đồ quý, lấy ra một chiếc hộp khảm bạc đựng vàng ngọc hồi môn và các đồ nữ trang dành dụm trong bấy nhiêu năm, rồi mân mê từng món kỷ vật mà nhớ về một thuở xa xưa. Bà buồn bã thở dài nhưng chẳng bớt lại một món nào, đậy hộp lại và gói bằng vuông lụa đỏ.
Tờ mờ sáng hôm sau, khi sao mai còn lấp lánh trên trời, Mẫn Bà cùng người lão bộc thân tín và một thị nữ xuống thuyền thượng kinh, đem theo toàn bộ của nả còn lại của gia đình một vị đại vương lúc sinh thời đức cao vọng trọng.
Mẫn Bà trở về Thanh Trúc viên trên chiếc thuyền chở đầy bao to, gió lớn. Số vàng ngọc quý giá đã được hoán đổi thành vải vóc, mũ giày và binh khí, toàn những thứ thiết yếu dùng vào việc trang bị cho nhà binh.
Mới đi vắng năm ngày mà thái ấp đã hoàn toàn khác lạ, bà thật sự ngỡ ngàng trước khung cảnh tất bật của hàng trăm con người mải mê làm việc dưới sự điều hành của Quốc Toản và các trợ thủ đắc lực. Lũy trúc bị đốn hạ quang đãng, chỉ còn lại những búp măng trơ trọi trong ánh nắng vàng hoe. Mấy toán trai tráng đang hì hục dựng trại bằng những thân tre còn xanh mướt. Dãy nhà kho bỏ không lâu ngày lại mở cửa nhập lương thực từ những gánh thóc kĩu kịt của đám đàn bà. Tiếng búa lò rèn nện chan chát trong túp lều tạm bợ ở cuối vườn dội vang cả khu trại. Đại sảnh rộng rãi hơn hẳn khi mọi vật dụng sinh hoạt được dọn sạch, thay vào đấy là một án thư mộc mạc có đám người vây quanh làm thủ tục nhập tên phân ngũ.
Quốc Toản thấy thân mẫu trở về vội vàng chạy tới đón mừng. Chàng ta hớn hở khoe với mẹ:
– Chỉ mấy ngày đã có năm, sáu trăm tá điền đăng tên trình diện, gia nhân cũ cũng tề tựu gần đủ. Con trai của một quan viên cáo lão dẫn theo mười mấy người đến gia nhập đội ngũ. Dân chúng còn tự nguyện góp lương và mang cả dụng cụ bằng sắt đến rèn dao mác.
Người mẹ hỏi:
– Sao phải chặt trụi cả vườn trúc thế kia?
Quốc Toản đáp:
– Con cho chặt để lấy tre dựng lán trại làm nơi ăn chốn ở của nghĩa binh. Mẹ đừng buồn con nhé, mai mốt măng lại thành tre, vườn nhà lại xanh tươi như trước.
Mẫn Bà nhìn đống lá cành bị vứt bỏ bằng ánh mắt tiếc nuối nhưng vẫn nói để con an lòng:
– Kể cũng tiếc thật, lũy trúc bằng tuổi con đấy. Mà thôi, tre già măng mọc, cha con ở trên trời nhìn xuống chắc cũng không buồn phiền đâu. Mẹ mua vải may trang phục cho nghĩa binh, nhưng đông thế không biết có đủ cho mỗi người một bộ. Còn sắm được vài trăm đao kiếm, như vậy là thiếu nhiều lắm.
Quốc Toản cả mừng, cười tươi với mẹ:
– Con thay mặt anh em nghĩa binh xin đa tạ mẹ. Về vũ khí không lo lắm, nhiều người đã có vũ khí của họ, ngoài số mẹ mua về, nếu thiếu thì lò rèn sẽ cung cấp. Con quên dặn mẹ mua vải đỏ để may cờ, lúc nhớ đến thì mẹ đã đi rồi.
Người mẹ nói thản nhiên:
– Có mua đấy, một cuộn to thừa may một lá cờ lớn.
Toản kinh ngạc, thốt lời thán phục:
– Mẹ tài giỏi thật, đoán được cả bụng con muốn gì.
Mẫn Bà mỉm cười vui vẻ:
– Ta đẻ ra ngươi mà, không hiểu con thì làm sao làm mẹ.
– Đại kỳ phải có tên hiệu, con chưa nghĩ ra nên viết chữ gì trên lá cờ. – Toản tâm sự.
– Hôm trước con đã nói, muốn “góp công sức đánh đuổi ngoại xâm, báo đến ân nghĩa của hoàng triều”, đúc kết lại gọn gàng thành câu “Phá cường địch, báo hoàng ânPhá giặc mạnh, báo ơn vua”, vừa là hiệu kỳ vừa thể hiện tôn chỉ của nghĩa binh. Nền đỏ thêu chữ vàng sẽ rực rỡ lắm. – Mẫn phu nhân gợi ý.
Thật tuyệt vời, ý tứ cô đọng mà giàu biểu cảm, chứa đựng đủ đầy chí khí của thần dân Đại Việt trước họa xâm lăng. Toản mừng khôn xiết khi được mẹ gỡ bị cho mình, nhưng rồi cậu lại băn khoăn:
– Cờ to thì chữ phải lớn, hiệu kỳ gồm sáu chữ, con sợ thêu không kịp để ngày mai thượng cờ.
– Việc này để mẹ lo. Con cứ chu tất các phần việc khác là đầu vào đấy. – Mẫn Bà khoát tay quyết đoán.
Cậu trai hớn hở nói:
– Dạ thưa mẹ, con đi chuẩn bị kỳ đài.
Buổi chiều hôm ấy, những phụ nữ khéo tay được triệu tập đến tư dinh của phu nhân để may trang phục cho nghĩa binh. Mẫn Bà và hai thị nữ đảm trách phần may cờ thêu chữ. Gian đại sảnh hóa thành công xưởng may thêu, các bà các cô tíu tít ai vào việc nấy bận rộn cho tới khuya mới ngưng tay. Việc may trang phục không cần gấp, vì mười ngày nữa mới cử hành lễ khai quân, nhưng việc may cờ xem ra khó hoàn tất để có thể thượng cờ vào giờ thìn ngày mai.
Tới canh tý, khi mọi người đã ra về hết, Mẫn Bà cùng hai người hầu vẫn cắm cụi làm việc dưới ánh đèn nến lung linh. Họ mới thêu được bốn chữ, trong khi thị nữ đã uể oải lắm rồi. Quốc Toản lo cho sức khỏe của mẹ, xin người đi nghỉ, việc thượng cờ sẽ dời sang ngày khác. Bà trả lời cương quyết:
– Không được. Chưa ra quân mà có một chút trở ngại đã vội bỏ cuộc, sau này làm sao đánh giặc? Chọn được ngày lành tháng tốt thì không nên thay đổi. Con về phòng ngủ đi, ngày mai sẽ có cờ.?
Cậu hiểu tính bà, khi người đã nói vậy thì không ai lay chuyển được. Toản thương mẹ lắm mà chẳng thể giúp được gì, đành quay về phòng nằm trằn trọc một lúc rồi chìm vào giấc ngủ say.
Đúng giờ thìn ngày ba mươi tháng mười, lá đại kỳ đỏ rực thêu chữ vàng tươi rói được kéo lên ngọn cây sào cao vút dựng trên mô đất xây móng bằng đá hộc. Mọi người dùng tay, đứng xung quanh kỳ đài lặng lẽ ngắm nhìn lá cờ bay phần phật trong gió. Các nghĩa binh xúc động bảo nhau “Phá cường địch – báo hoàng ân” chính là lời thề quyết tử của chúng ta với vương triều Đông A, với giang sơn Đại Việt. Phu nhân đứng từ trong nhà nhìn ra, thấy đám đông đang ngây ngất trước ngọn cờ đại nghĩa, lòng rưng rưng khiến đôi mắt cay xè, bà tự nhủ “Chắc do mình thiếu ngủ”.
Tin tốt lành bay xa, chỉ trong ngày hôm ấy có thêm mấy trăm trai tráng đến gia nhập đội nghĩa dũng, viên thư lại bẩm báo với Hoài Văn Hầu “Tổng cộng ghi tên được gần chín trăm người”. Quốc Toản đã yên tâm về quân số, việc trước mắt là lễ khai quân, rồi lo chu cấp trang bị và huấn luyện dân binh, còn phải đóng thuyền và bổ sung thêm ngựa cho đội ngũ. Người của Hoài Nhân sang thông báo điền trang của vương cũng tuyển mộ được năm trăm người. Thủ lĩnh vườn Thanh Trúc cả mừng, nhất định hai bên sẽ hợp lực chống giặc phương Bắc trong cuộc chiến nay mai.?
Việc Hoài Văn Hầu và Hoài Nhân Vương dựng cờ tụ nghĩa truyền đến tận Thăng Long. Bấy giờ Hưng Đạo đang ở kinh thành, khi được nghe kể, ngài tỏ ra rất tâm đắc. Vương vuốt râu cười khoan khoái rồi nói với Yết Kiêu và Dã Tượng đang đứng hầu bên cạnh:
– Có thế chứ. Sóng sau đè sóng trước, con cháu Đông A tài cao chí lớn hơn cha anh của chúng thì sợ gì lũ giặc Thát ngạo mạn.
Chợt Tuấn Thọ vào báo:
– Bẩm chủ tướng, đại nhân Trịnh Đình Toản xin cầu kiến.
Vương đang vui, nghe thấy thế, liền nói:
– Mời vào. Chuẩn bị trà nước tiếp khách. Ta cũng muốn gặp người này.