Chu Thich
.
Nơi hợp lưu của sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam, sông Đuống, sông Kinh Thầy và nhánh chính sông Thái Bình, còn gọi là sông Phú Lan, ngày nay được gọi chung là hệ thống sông Thái Bình. ↩
Trong thời điểm bấy giờ dùng chỉ Trần Nhân Tông (1258–1308). ↩
Mùa thu, tháng 7 (1283), sai Trung phẩm Hoàng Ư Lệnh, Nội thư gia Nguyễn Chương sang Nguyên ( Đại Việt sử ký toàn thư – Bản Kỷ – Quyển V ). ↩
Địa danh này vẫn là một bí ẩn của lịch sử. Đến nay đã có hàng chục giả thuyết song chưa có giả thuyết nào thật sự thuyết phục. Tuy nhiên hầu hết các học giả đều cho rằng: bến Bình Than là một bến sông nằm ở đâu đó trên những dòng sông chảy qua địa phận Hải Dương, Bắc Giang hoặc Bắc Ninh ngày nay. ↩
Chỉ sự trải qua 4 mùa đông (4 năm), với 4 lần mặc nhiều áo để chống rét. ↩
Mùa đông, tháng 10 (1282), vua ngự ra Bình Than đóng ở vũng Trần Xá họp vương hầu và trăm quan, bàn kế sách công thủ và chia nhau đóng giữ những nơi hiểm yếu ( Đại Việt sử ký toàn thư – Bản Kỷ – Quyển V ). ↩
Tức hội rồng mây. Ngụ ý rồng với mây giống như cá với nước. Kinh dịch có câu “Vân từng long, phong tùng hổ”, mang nghĩa: Mây theo rồng, gió theo hổ. Chỉ sự gặp gỡ vua tôi (quân thần), mở ra vận hội công danh cho người phò tá đế vương xây dựng đại nghiệp. ↩
Tức sông Kinh Thầy, dài 44km, chảy qua địa phận Chí Linh (Hải Dương), đổ vào sông Thái Bình. ↩
Sử sách không ghi chép năm sinh của Trần Khánh Dư, nhưng Đại Việt sử ký toàn thư có viết trước kia ông từng lập công đánh đuổi quân Nguyên, như vậy nếu là trận chiến năm 1258 thì lúc ở bến Bình Than (1282) ông phải ở độ tuổi 50. Ông mất năm 1340 tức là 58 năm sau, bấy giờ phải thọ trên 100 tuổi. Đây là điều không thực tế ở thời đại nhà Trần, có lẽ Đại Việt sử ký toàn thư chép chiến công đánh Nguyên của Trần Khánh Dư không phải năm 1258, mà có thể chỉ là việc đánh đuổi những toàn quân nhỏ quấy phá vùng biên. ↩
Là danh hiệu Trần Thánh Tông phong cho Trần Khánh Dư ( Đại Việt sử ký toàn thư – Bản Kỷ – Quyển V ). ↩
Trần Khánh Dư thông dâm với công chúa Thiên Thụy là con dâu của Trần Hưng Đạo, vợ của Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn, vì sợ phật ý Hưng Đạo nên vua Trần Thánh Tông khép Dư vào tội chết, nhưng vì mến tài nên ngài ngầm sai không đánh chết, rồi lột hết chức tước, tài sản, đuổi về quê. ↩
Còn gọi là sông Kim Giang, phân lưu của sông Hồng, bao quanh kinh đô Thăng Long ở phía đông và đông nam. Đại Việt sử ký toàn thư – Bản Kỷ – Quyển V có chép “Mùa xuân, tháng giêng (1284), vét sông Tô Lịch”. Ngày nay nhiều đoạn sông Tô Lịch đã bị lấp. ↩
Toàn bộ tình tiết về việc Trần Nhân Tông triệu hồi và phục chức cho Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư được ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư – Bản Kỷ – Quyển V . ↩
Theo Lịch triều hiến chương loại chí – mục Binh chế chí của Phan Huy Chú thì cấm vệ quân và lộ quân dưới thời Trần chỉ có khoảng 10 vạn người (thường trực). ↩
Năm Thiệu Bảo thứ 4 (1282), mùa xuân, tháng 2, Chiêm Thành sai bọn Bố Bà Ma Các một trăm người sang dâng voi trắng ( Đại Việt sử ký toàn thư – Bản Kỷ – Quyển V ). ↩
Chiếu thư của nhà Nguyên gửi Trần Nhân Tông năm 1281 (theo An Nam chí lược – Quyển đệ nhị – mục Đại Nguyên chiếu chế của tác giả Lê Tắc), ép buộc vua ta thực hiện sau điều khoản nhục nhã vốn được họ đề ra từ thời Trần Thánh Tông còn ở ngôi. ↩
Tức Darughachi, một chức quan cai trị do nhà Nguyên áp đặt tại các nước phiên thuộc. Tương tự chức Thái thú, Tiết độ sứ của các triều đại trước. ↩
Thuộc châu Nam Sách, lộ Lạng Giang thời Trần. Nay thuộc huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương. ↩
Ngũ là đơn vị quân đội cấp cơ sở thời xưa, thường là 5 người. Về sau khái niệm được mở rộng khi kết hợp với một từ khác (quân ngũ, đội ngũ) dùng chỉ chung một lực lượng đông đảo. Lữ là đơn vị quân đội thời xưa, thường có số quân khoảng 500 người. Ngày nay, cấp “lữ đoàn” cũng mang khái niệm tương tự. ↩
Là một huyện thuộc trấn Thiên Quan thời Trần. Nay là huyện Gia Viễn, Ninh Bình. ↩
Trong Hán ngữ có nhiều từ đồng âm khác nghĩa. Muốn hiểu nghĩa phải nhìn mặt chữ. Chữ Toản (攢) được Thái Tông viết mang nghĩa chén ngọc hay môi ngọc quý dùng trong tế lễ, như vậy Quốc Toản (國 攢) mang nghĩa đồ ngọc quý dùng vào việc tế lễ quốc gia. ↩
Tức hành tỉnh Hồ Quảng, là cấp hành chính khu vực quản lý Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây và các lãnh thổ nước ngoài ở phương Nam bị nhà Nguyên thôn tính. Theo Đại Việt sử ký toàn thư – Bản Kỷ – Quyển V , trước khi quân Nguyên kéo vào nước ta ít ngày, sứ thần Đại Việt đã đến Kinh Hồ xin hoãn binh. Theo Nguyên sử – Quyển 13 – Bản kỉ 13 – Thế tổ đệ thập , sau khi được phong làm Trấn Nam Vương (6/1284), Thoát Hoan đóng quân tại Ngọc Châu (Hồ Bắc), song khoảng cách từ Ngọc Châu đến biên giới Đại Việt khá xa, nên điều này có lẽ chỉ đúng ở thời điểm ban đầu. Khi gần ngày phát động cuộc chiến, cơ quan đầu não của y có thể đã dời về phía nam. ↩
Tức các con trai của Hưng Đạo Vương, gồm: Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn, Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng và Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện (ngoài ra ông còn một người con trai mất sớm và hai người con gái). ↩
Chỉ Hịch tướng sĩ , với tên gọi đầy đủ là Dụ chư tỳ tướng lịch văn do Trần Hưng Đạo viết trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2 (1284–1285). Tuy nhiên, thời điểm ra đời của hịch văn (trước hay trong cuộc chiến) vẫn chưa tìm ra đáp án cụ thể. Theo thiển ý cá nhân, dựa vào nội dung bài hịch, có lẽ Hưng Đạo viết trước khi quân Nguyên kéo sang xâm lược Đại Việt. Ngoài ra còn có ý kiến tranh cãi về mục đích hịch văn nhằm răn dạy tướng sĩ nội phủ (tỳ tướng) hay tướng sĩ toàn quân? ↩
Đại Việt sử ký toàn thư – Bản Ký – Quyển V ghi chép tên tuổi của Đào Thế Quang, người được nhà Trần sai đóng giả làm dân buôn thuốc sang Long Châu để dò xét tình hình nước Nguyên. Có lẽ ông là người Việt Nam đầu tiên được chính sử nước nhà lưu danh trong vai trò thám báo, gián điệp. ↩
Trong đoạn văn đề cập tên Vân Nam Vương, là tước hiệu của Hốt Kha Xích (một người con khác của Hốt Tất Liệt), còn tước hiệu của Thoát Hoan là Trấn Nam Vương. Có thể Trần Hưng Đạo không nhầm lẫn, vì vào thời điểm ngài viết Hịch, nước ta bị áp lực từ Vân Nam Vương, còn Trấn Nam Vương chỉ được biết đến khi Hốt Tất Liệt giao phó binh quyền (1284) tiến hành xâm lược phương nam (Chiêm Thành, Đại Việt). Nếu đúng như vậy thì đây cũng là một bằng chứng cho thấy Hịch được viết trước cuộc chiến 1285. Tuy nhiên, nhiều sách báo trong nước vẫn nhầm lẫn Vân Nam Vương là Thoát Hoan. ↩
Thích là Từ Hán Việt chỉ động thái dùng vật nhọn xăm trổ, tiêm chích hoặc đâm vào da thịt. Chữ “###” đọc theo âm Hán Việt là Sát Thát, tức giết Thát Đát (Mông Cổ). ↩
Tức Trần Hoảng, tên húy của Trần Thánh Tông. ↩
Ngụ ý của Thánh Tông chỉ chữ Trạc mang nghĩa: đâm dao hoặc dùng vật nhọn để chọc. ↩
Ngụ ý của Nhân Tông chỉ chữ Trạc mang nghĩa: mọc thẳng. ↩