← Quay lại trang sách

Chương 8 Quan gia rời kinh, hoàng thành bỏ ngỏ
Dân chúng lánh nạn, phố phường trống trơn

Lại nói về Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc.

Lúc Tắc chào đời do thể chất nhỏ yếu nên vua cha có phần ưu ái hơn mấy anh em khác. Cũng vì được nuông chiều từ bé thành ra y cứ tưởng mình có vị trí cao hơn người, xứng đáng được cung phụng hơn bất cứ ai. Một lần trong bữa tiệc, khi nô tì dâng món yến, thấy bát yến của các huynh to hơn bát của mình và Nhật Duật khiến Tắc không vui. Trong lúc cậu em sì sụp ăn uống, thì Ích Tắc dứt khoát không động đến dù chỉ một sợi yến. Vua cha thấy lạ bèn hỏi:

– Sao Tắc không ăn?

Đứa trẻ hỉ mũi chưa sạch đáp:

– Con cũng là con vua, tại sao các huynh được ăn bát to, còn con chỉ được ăn bát nhỏ? Như vậy là bên trọng bên khinh, nên con không ăn.

Thái Tông cười ầm lên mà rằng:

– Không phải khinh trọng mà tùy theo sức lực. Các huynh đã trưởng thành nên sức ăn nhiều hơn, con và Duật còn nhỏ xíu thì ăn như thế là vừa đủ. Ăn uống mà bỏ thừa là có tội với trời Phật đó.

Bấy giờ Ích Tắc sáu tuổi, Nhật Duật năm tuổi, còn Thánh Tông hoàng đế mới ở ngôi được một năm. Thái Tông lên làm Thượng hoàng, tiếng rằng nghỉ ngơi tĩnh dưỡng để toàn tâm niệm Phật nhưng mắt vẫn dòm cửa ngách mà điều khiển triều chính, huống hồ việc chăm nom mấy tiểu hoàng tử là con đẻ của ngài. Cũng từ đấy, Thái Tông luôn nhắc nhở các người con lớn chớ có chấp nhặt mà xa lánh, phế loại thằng em trái tính trái nết.

Sau này, tuy có chút tài cán nhưng tâm địa thì đầy tham vọng nên Tắc luôn cho rằng người anh Trần Hoảng (Thánh Tông) lẫn đứa cháu Trần Khâm (Nhân Tông) đều không xứng làm vua Đại Việt, chỉ có Ích Tắc này mới đủ bản lĩnh và tài ba gánh vác trọng trách chúa tể nước Nam. Nhưng số phận lại chẳng ưu đãi cho Tắc có cơ duyên bén mảng đến ngai rồng, thành thử y uất chí kinh niên mà nuôi dã tâm chiếm đoạt ngôi cao bằng mọi giá. Để thực hiện mưu đồ của mình, thấy không thể trông cậy vào cái triều đình ngu muội đội trên đầu mở giáo lý hủ bại “chính thống” mà bất chấp hay dở, Tắc quyết định cầu cạnh Nguyên triều, mặc dù họ là ngoại bang nhưng lại có tầm nhìn sâu rộng, nhận chân được giá trị đích thực của người tài. Từ nhiều năm trước Tắc đã bí mật thư từ qua lại với nhà Nguyên thông qua đám thương buôn ở Vân Đồn.

Cha con Hốt Tất Liệt ban đầu cũng chẳng tha thiết giao hảo với một kẻ hoàng tộc An Nam thất chí. Về sau thấy có thể lợi dụng y như một lực lượng nội ứng hỗ trợ cho đại quân thảo phạt Nam quốc, họ đổi ý mà hứa hẹn đủ điều với Ích Tắc; nếu y chia rẽ được nội bộ Đông A, xúi bẩy vua quan đầu hàng và tổ chức nghênh đón Đạt lỗ hoa xích thì thiên triều sẽ cho ngôi vào cái ghế của Nhân Tông. Trong một lần tiếp kiến một sứ của Nguyên, Tắc hỏi:

– Thiên tử hứa giao cho tôi danh vị An Nam quốc vương. Nhưng nếu thuyết phục vua Trần đầu hàng thì Nguyên triều cũng phải hứa hẹn giữ nguyên địa vị của họ. Như vậy nước Nam có hai vua sao?

Mật sứ đáp:

– Ngài đừng quá lo xa. Một kẻ đã đầu hàng thì đâu có thể muốn gì được nấy. Cứ để họ tại vị dăm tháng rồi kiếm cớ đổi ngôi là xong.

Tắc lại hỏi:

– Đã cho tôi chức quốc vương nước Nam, vậy còn chức Đạt lỗ hoa xích của thiên triều có vai trò gì?

Mật sứ trả lời:

– Đạt lỗ hoa xích là khâm sai của hoàng đế Đại Nguyên nắm trọng trách giám sát hoạt động của triều đình sở tại. Nếu ngài làm An Nam quốc vương mà tuân thủ nghiêm chỉnh các quy chế của Nguyên triều, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của thiên tử thì Đạt lỗ hoa xích chỉ còn mỗi công việc chuyển giao tấu sớ, biểu chương qua lại mà thôi.

Tắc hỏi tiếp:

– Theo ngài, trong triều đình An Nam, kẻ nào đáng gờm nhất, cần phải loại trừ để nước tôi rộng đường nội thuộc Đại Nguyên?

Mật sứ nói ngay:

– Trần Quốc Tuấn.

Ích Tắc hài lòng lắm, coi như người Nguyên và y cùng chung quan điểm về việc nhổ bỏ một chướng ngại có nguy cơ phá vỡ mưu đồ cấu kết ngoại bang của y. Nội gian và ngoại gián lập mưu loại trừ Hưng Đạo Vương. Nắm được thông tin vương tuần tiễu phương nam, chúng bày trận phục kích trên đèo Tam Điệp, nhưng kế hiểm của Tắc đã không thắng nổi sự trí dũng của chủ tớ Hưng Đạo.

Sau bữa thuyết vua hàng giặc ở điện Thiên An thất bại, Ích Tắc trở về thái ấp thảo mật thư sai thuộc hạ trung tín vượt biển sang Nguyên báo cáo tình hình. Thế rồi âm mưu vỡ lở, kẻ bị bắt, kẻ trốn thoát chạy về cấp báo tin dữ. Bị dựng dậy lúc nửa đêm, Tắc Vô cùng run sợ nhưng vẫn còn đủ sức rủa xả “Thằng giữ mật thư thì bị bắt, thằng đi theo hộ tống thì thoát thân. Sao không nhảy xuống biển trầm mình chết cả cho rồi. Bây giờ thì nguy to”. Biết không nhanh chân đào thoát ắt họa sẽ ập đến tức thời, y liền đánh động già trẻ lớn bé trong nhà, cùng với mấy môn khách và dăm chục thủ hạ thân tín nhất, vơ vội được một ít đồ quý, giải tán hết đám nô tì, rồi kéo nhau bôn tẩu.

Chạy được mấy chục dặm thì trời đổ mưa to, vợ con và môn khách kêu ca ướt lạnh, muốn tìm chỗ trú chân. Tắc buộc đi tiếp, chẳng những không rầu rĩ y còn ngửa cổ cười vang, mà rằng:

– Ông trời còn muốn ta sống, vậy thì phải nhanh chân lên.

Có môn khách hỏi:

– Ngài nói vậy là ý làm sao?

Ích Tắc đáp:

– Mưa to xóa sạch dấu vết ngựa, xe. Quan quân triều đình muốn truy đuổi cũng chẳng biết đâu mà lần.

Đám vong bản chạy về châu Đà Giang, là địa bàn Chiêu Quốc từng trấn nhậm. Ở đấy y có mối giao kết đồng đáng với chủ trại người Mường là Cao Thái Phong, kẻ nuôi tham vọng làm tri châu, một khi Ích Tắc trở thành An Nam quốc vương.

Sau cuộc vây bắt Trần Ích Tắc thất bại, Hưng Đạo Vương bái biệt nhị hoàng rồi quay về Nội Bàng. Trước lúc lên đường, ngài tâm sự với Chiêu Minh Vương:

– Ta với huynh cùng có lỗi trong việc này. Đã đoán trước được dã tâm của Ích Tắc nhưng không cương quyết ngăn chặn. Bây giờ thì không có thời gian và lực lượng để truy lùng, coi như Đông A mất đứt con người này.

Quang Khải rầu rĩ đáp:

– Lỗi của ta nhiều hơn của huynh, chỉ vì tình ruột thịt mà không nỡ thẳng tay với nó. Đáng lẽ ta phải bấm tấu Thượng hoàng để người ra lệnh giám sát, rồi vua đi đâu thì lôi nó theo đấy, bấy giờ kẻ âm mưu phản nghịch hết đường theo giặc.

Trở về đại bản doanh mới mấy ngày thì Hưng Đạo nhận được tin báo giặc đem quân áp sát biên giới tại khu vực Tây Phong và Khâu Ổn, có thể chúng sẽ đánh qua trong nay mai. Ngài điều động khẩn cấp ba phần tư binh sĩ Vạn Kiếp lên Nội Bàng rồi triệu Lương Bành và Tuấn Thọ đến giao việc:

– Lương Bành dẫn theo ba trăm quân hỗ trợ cho quân dân Lộc Châu phòng thủ hẻm Khâu Cấp Lĩnh. Nếu giặc tràn qua thì cố giữ trong ba ngày, đây là mệnh lệnh sinh tử, nhất quyết không được làm trái. Tuấn Thọ dẫn năm trăm quân đến Khâu Ôn kết hợp với quân ở đấy chặn giặc, như giặc vào sâu rồi đánh tập hậu, thấy tình thế bất lợi thì rút về Chi Lăng.

Từ Khâu Cấp Lĩnh đến Nội Bàng khoảng hơn hai ngày đường, một khi để giặc vượt qua dễ dàng chúng sẽ tức thời đánh Khả Ly, cô lập Nội Bàng rồi tiến về Vạn Kiếp chỉ vài ngày sau đó. Vương giao phó cho Lương Bành trọng trách rất nặng nề vì ngài biết Bành thông thuộc Lộc Châu. Do Khâu Cấp Lĩnh hiểm yếu, nếu dùng nhiều quân cũng không xoay trở được nên chỉ cần dăm trăm binh sĩ thiện chiến trấn giữ hai sườn núi là có thể cố cầm chân giặc được ba ngày, thêm thời gian để điều quân bố phòng Khả Ly và Động Bản. Đường Khâu Ôn dễ đi nhưng muốn đến Vạn Kiếp cần nhiều ngày, lại còn phải vượt qua ải Chi Lăng do Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện trấn thủ, nên ngài giao cho Tuấn Thọ nhiệm vụ quấy nhiễu, đánh tiêu hao lực lượng địch, không nhất thiết đối đầu sinh tử với chúng.

Hưng Đạo lại gọi Nguyễn Hòa đến giao việc:

– Ngươi hỏa tốc lên bản doanh của Nguyễn Khoái và Phạm Ngũ Lão ở Sơn Động, truyền lệnh cho họ đem quân lên trấn giữ ải Khả Ly và ải Động Bản. Khi giặc đến thì mỗi nơi cố thủ một ngày rồi kéo về Nội Bàng hội quân với ta.

Việc điều cả vạn quân từ Sơn Động lên Khả Ly và Động Bản tối thiểu cũng phải mất vài ba ngày, nếu Khâu Cấp Lĩnh sớm thất thủ thì hai ải phía sau coi như bỏ ngỏ, giặc sẽ tiến về Nội Bàng như vào chỗ không người.

Vương tin rằng Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Khoái đủ khôn ngoan để không đem một vạn quân dưới quyền đối chọi với hơn chục vạn quân của A Lý Hải Nha, mà chỉ cốt dựa vào địa thế đồi núi để cầm chân giặc trong một thời gian ngắn, buộc chúng luôn ở trong tình trạng phải đối phó với quân của họ. Ngài ấn định mỗi tướng chỉ cần giữ ải một ngày là đủ, do địa hình ở đấy không hiểm trở nên giặc có thể chia quân đánh tạt sườn, bấy giờ quân ta sẽ rơi vào tình thế bất lợi, hao binh thiệt tướng.

Nghe tin Lương Bành lấy quân lên Lộc Châu, Phạm Thái và Lô Viên Dụng nằng nặc đòi tham gia. Thái thì vin lý do đã luyện tập mấy ngày liền nên cánh tay hoàn toàn bình phục, lại muốn quay về nơi chốn được quân dân cứu mạng để sát cánh cùng họ báo thù nhà đền nợ nước. Dụng thì bảo đấy là quê hương nên phải quay về để cùng cha và đồng bào đánh giặc Thát.

Bành lâm vào tình thế khó xử, ông biết việc cố thủ Khâu Cấp Lĩnh là nhiệm vụ nguy hiểm, tuy chủ tướng cho bạn cầm cự chỉ ba ngày nhưng trước một đạo quân hàng chục vạn người thì với lực lượng mấy trăm người cho dù dựa vào lợi thế địa hình cũng khó mà tránh khỏi tổn thất nặng nề, thậm chí không còn ai toàn mạng. Viên Dụng vẫn còn là đứa trẻ, chủ trại giao cho ông rèn giũa nó thành một chiến binh, nỡ nào ông để nó tham gia trận đầu chống Thát ở một nơi rất ít khả năng sống sót. Phạm Thái mới trải qua cuộc truy kích đẫm máu của giặc, vừa mất đi những huynh đệ thân thuộc nhất, dù thương tổn xương thịt đã lành được chín phần nhưng thương tổn tinh thần vẫn còn rỉ máu, ông không nỡ nhìn Thái đổ thêm máu lúc này.

Đem trăn trở của mình giãi bày với Hưng Đạo Vương, Bành nhờ ngài gỡ rối. Vương bùi ngùi nói:

Làm tướng thì phải biết tiếc máu xương của binh sĩ. Vì đại cuộc, ở thế chẳng đặng đừng buộc phải giao nhiệm vụ sinh tử cho thuộc cấp, nếu không cần thiết thì đừng đưa họ vào chỗ chết. Cách nghĩ của người về sinh mạng của Phạm Thái và Viên Dũng khiến ta rất cảm phục. Để ta thu xếp cho hai đứa một nhiệm vụ khác.

Bành cảm tạ Đại Vương, lui ra ngoài. Hưng Đạo gọi lại, mà rằng:

– Lời ta vừa nói chắc ngươi cũng phần nào hiểu được bụng ta. Giữ được Khâu Cấp Lĩnh trong mấy ngày sẽ có lợi cho quân ta ở tuyến sau. Không còn cách nào khác, phải quyết tử thôi.

Bành đáp:

– Tiểu nhân hiểu lòng của ngài. Đã thề theo Đại Vương cùng trời cuối biển, nếu phải chết thì bề tôi cũng cam tâm.

Được Hưng Đạo Vương gọi đến giao việc, Phạm Thái và Viên Dụng rất nghi ngại, trong khi họ đã chuẩn bị lên Lộc Châu cùng toán quân của Lương Bành. Vừa thấy hai tiểu tử, Vương đã giáo đầu trước:

– Một đứa thì đã lành vết thương, một đứa thì chỉ quen làm mấy việc lặt vặt, tinh thần dũng sĩ đầu cả rồi? Bây giờ có việc cực kỳ khẩn cấp, ta muốn hai người phải hoàn thành bằng mọi giá. Liệu các ngươi có phụ lòng tin của ta không đấy?

Hai gã trai hoảng quá vội cùng thưa:

– Xin Đại Vương tin tưởng ở bề tôi.

Vương cười mà rằng:

– Vậy thì tốt rồi. Bây giờ chuẩn bị ngựa và lương ăn, sáng mai lên đường đến ngã ba Hạc ở trấn Tuyên Quang, giao cho Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đang trấn thủ đạo Đà Giang phong thư này, bảo với vương cứ theo lời ta dặn mà thi hành. Chắc các ngươi chưa từng lên miền tây bắc nhưng đường nằm trên miệng, vừa đi vừa hỏi tất sẽ đến. Đây là nhiệm vụ tối mật, không bàn cãi xầm xì nữa nhé.

Họ nhận thư, bái biệt Đại Vương rồi tiu nghỉu đi ra. Thái bảo với Dụng “Có khi nào Bành huynh bày chuyện cản trở mình lên Lộc Châu đánh giặc?”. Về đến trại thì quân của Lương Bình đã đi rồi, Dụng than thở với Thái “Tưởng được đánh giặc ở quê nhà cuối cùng lại đi tây bắc. Nhưng chủ tướng đã giao chắc việc hệ trọng, đành nỗ lực thôi”.

Về sau, khi ở lại tham gia quân của Trần Nhật Duật bày trận trên sông Thao đánh phá đạo quân của Nạp Tốc Lạt Đinh từ Vân Nam kéo sang, bấy giờ hai gã trai Phạm Thái và Viên Dụng mới hiểu tầm quan trọng của lá thư do họ đích thân chuyển giao cho Chiêu Văn Vương theo lệnh của Tiết chế Đại Vương.

Kế hoãn chinh của Trần Hưng Đạo giúp triều đình có thêm thời gian để tổ chức kháng chiến, nhất là việc chiêu quân bổ sung lực lượng, chỉ trong vòng chưa đầy tháng, quân ta tiếp nhận gần mười vạn tân binh gia nhập vệ quân, lộ quân và quân của các vương hầu. Có được hiệu quả này ngoài sự vận động của các bô lão sau hội nghị Diên Hồng, còn nhờ vào biện pháp tuyên truyền do Thái sư Trần Quang Khải khởi xướng. Ngài cử một đội ngũ đông đảo tỏa đi khắp bản xa xóm gần, từ miền núi cho đến miền biển, nơi nào có dân cư thì dán cáo thị kêu gọi “Giặc Mông Thát sắp kéo vào nước ta, trai tráng Đại Việt hãy lên đường tòng chinh phò vua cứu nước. Khi thấy giặc thì người già, trẻ nhỏ và phụ nữ chạy lên núi lẩn tránh, chớ để lại lương thực cho chúng, nếu không mang đi được thì tiêu hủy cho hết”. Tinh thần quân dân lên cao, cũng là lúc giặc thù ngấp nghé bờ cõi.

Cuối tháng mười một, tình hình biên giới vô cùng nguy cấp, tin báo về kinh dồn dập từ mọi hướng khiến hai vua và Thái sư Chiêu Minh Vương mỗi ngày phải họp bàn đến ba, bốn bận. Ngày hai mươi chín, Hưng Đạo Vương từ Nội Bàng cấp báo “Giặc Nguyên đã tràn ngập biên cương. A Lý Hải Nha chia quân làm hai cánh, chỉ ngày một ngày hai sẽ tiến vào nước ta. Cánh tây do Vạn hộ Bột La Hợp Đáp Nhĩ đầu lĩnh sẽ tiến đánh Khâu Ôn. Cánh chủ lực hướng đông do A Lý Hải Nha thống lĩnh, phía sau có đại quân Thoát Hoan tiếp ứng, dự định đánh ải Lộc Châu, vượt hẻm Khâu Cấp Lĩnh rồi tiến về Vạn Kiếp. Hạ thần cầu khẩn Thượng hoàng và Quan gia rời kinh trong một vài ngày tới. Để tránh tổn thất, đề nghị Thái sư cho quân hiệu đi khắp kinh thành buộc dân chúng còn ở lại phải di tản hết...”.

Lúc bấy giờ, ngoài hai vua và Thái sư, trong triều chỉ còn lại mười mấy vị trọng thần gồm Viên ngoại lang, Lệnh thư gia, Tả bộc, Hữu bộc, Kiểm pháp quan, Ngự sử và Tham tri làm các việc văn thư, giấy tờ và giúp vua điều hành các công việc nhà nước.

Thượng hoàng bàn với Quan gia và các quan:

– Dân chúng chưa đi hết thì trẫm chưa an lòng mà rời kinh. Tuy đã có giao phó nhưng các khanh cần đốc thúc quân lính đi kiểm tra từng nhà, hộ nào chưa đi thì bắt phải rời đi nội trong ngày nay và ngày mai. Việc này không chỉ vì tính mạng của họ, còn nhằm làm cho quân Thát kéo vào thành mất chỗ dựa dân chúng, lũ chiếm đóng phải tự lo liệu mọi khoản sinh hoạt mà không kiếm đâu ra người phục dịch.

Nhà vua và các quan cũng đồng lòng với chủ ý của Thượng hoàng, họ sẽ cùng ngài rời kinh sau rốt. Nhân Tông hỏi Quang Khải:

– Việc kiểm tra, đôn đốc dân chúng lánh nạn, Chiêu Minh Vương làm đến đâu rồi?

Trong cương vị Thái sư, Quang Khải là người trực tiếp chỉ đạo công tác đôn đốc dân chúng rời thành chạy giặc, ngài đáp:

– Thần cắt cử vệ Tứ Thiên dưới quyền của Nội tiền điện chỉ huy sứ Vũ Quốc Minh tỏa đi khắp nơi buộc mọi người phải lên đường ngay, ai chống đối sẽ nghiêm trị theo quân luật. Nhiều hộ phải bỏ lại những vật dụng cồng kềnh nên dễ bị kẻ xấu xâm phạm, nếu bắt được đứa nào hôi của thì phạt năm mươi roi, đày làm lính lao dịch.

Thánh Tông hỏi:

– Hiện trong thành còn bao nhiêu quân?

Quang Khải trả lời:

– Còn ba vệ Tứ Thiên và một vệ Tứ Thần, ngoài ra có năm trăm cấm vệ, tổng cộng khoảng một vạn tám.

Thánh Tông nói:

– Nhiều quá. Ngoài biên ải cần quân hơn ở đây. Bệ hạ nên điều bớt quân ra mặt trận.

Nhân Tông đáp ứng liền, ngài truyền dụ:

– Lệnh thư gia Nguyễn Khoản viết lệnh điều vệ tả Thiên Chương của Phó tướng Đặng Trứ lên đông bắc phối thuộc lực lượng của Hưng Đạo Vương, điều vệ Củng Thần của Nội tiền điện Trần Thông Bảo lên tây bắc phối thuộc lực lượng của Chiêu Văn Vương. Sai Tả bộc Lưu Văn Các giám sát việc điều quân tả Thiên Chương, sai Hữu bộc Trần Thế Di giám sát việc điều quân Củng Thần. Hai vệ tả hữu Thiên Thuộc đang làm công vụ sẽ ở lại cùng cấm vệ phò tá Thượng hoàng và trẫm.

Nguyễn Khoản dâng lệnh để Quan gia xem xét và cho đóng ấn tín. Các quan phụng mệnh chưa kịp bái biệt nhị hoàng thì thị vệ vào báo có Chánh quản Thiên Thuộc Vũ Quốc Minh xin trình tấu việc khẩn cấp.

Một viên tướng trẻ bước vào điện, đấy chính là Vũ Quốc Minh, đương nhiệm quản hai vệ tả hữu Thiên Thuộc, người phủ Kiến Xương, hình dung tuấn tú, giỏi cả binh pháp lẫn cung kiếm, từng theo Thượng hoàng Thánh Tông đánh dẹp các động chủ khởi loạn từ nhiều năm trước. Minh vái quỳ trước sảnh mà xưng danh:

Nội tiền điện chỉ huy sứ Vũ Quốc Minh khấu kiến Thượng hoàng và bệ hạ, xin được trình tấu việc hệ trọng.

Nhà vua truyền:

– Cho người bình thân, hãy nói rõ sự vụ.

Quốc Minh đứng dậy, trình bày chuyện xảy ra:

– Nhận lệnh của Thái sư, sáng nay hạ thần điều động hơn ngàn quân Thiên Thuộc chia thành từng toán nhỏ đến các ngõ xóm trong thành kiểm tra, đôn đốc việc di tản. Hầu khắp các nhà đều đã đi, nhưng mười nhà cũng còn vài nhà chưa đi, khi nghe lệnh họ thu xếp đi ngay hoặc hứa sẽ đi trong ngày mai. Duy ở phía nam hoàng thành, cách cổng Đại Hưng khoảng ba trăm thước có một tửu điểm cửa đóng then cài nhưng vẫn có người ra vào lén lút. Sinh nghi, một ngũ Thiên Thuộc ập vào tra xét thì bất ngờ thấy bên trong có hơn ba chục tên tráng niên đang ẩn náu. Bị phát hiện, chúng đồng loạt rút đao hạ thủ hòng che giấu tung tích. Năm binh sĩ đánh không lại, bốn người bị giết, một người chạy thoát ra ngoài kêu cứu. Các toán lính ở gần đấy kéo đến bao vây quán khách. Tiểu tướng nghe cấp báo liền cho gọi loa kêu chúng đầu hàng nhưng không được đáp ứng, bèn quyết định tấn công, diệt hơn hai chục tên, bắt sống sáu tên giải về nhốt trong thiên lao để triều đình phán xử.

Nhân Tông hỏi:

– Đã tra xét được gì chưa?

Quốc Minh đáp:

– Khởi bẩm, tiểu tượng chưa kịp tra xét tường tận. Mấy tên đầu đảng bị khảo đòn nhưng không hé răng nửa lời. Riêng tên trẻ nhất là Hồ Văn Trạc, mười sáu tuổi, kêu khóc bảo rằng chỉ làm công việc nấu nướng phục dịch đồng bọn chứ không tham gia hành sự. Nó khai nhận bọn chúng được một thương nhân phương Bắc buôn bán ở kinh thành chiêu mộ làm nội ứng cho Thát, mục đích chính là dò la các vua sau khi rời kinh sẽ đi đâu, ở đâu, nếu làm tốt sẽ được trả công hậu hỉ, hoặc được nhận một chức vị tương xứng với công lao.

Thượng hoàng Thánh Tông cả giận, nói lớn:

– Một phường bán chúa vong nô. Kẻ tước vương thì khom lưng làm cầu cho giặc vào chiếm Thăng Long. Lũ thứ dân thì làm khuyển cho giặc đánh hơi dấu vết của vua. Bọn Mông Thát thâm độc quá, bất chấp thủ đoạn triệt hạ ta đến cùng. Nhà vua phải trừng trị thẳng tay để làm gương cho kẻ khác.

Nhân Tông hỏi:

– Có bắt hay giết được tên thương nhân chủ mưu không?

Quốc Minh trả lời:

– Thằng bé cho biết, tên đầu sỏ đến giao việc rồi đi nên chưa bắt được hắn.

Nhân Tông truyền lệnh:

– Chỉ huy sứ Vũ Quốc Minh tổ chức lùng sục tìm kiếm dư đảng của bọn phản nghịch, nếu trong thành còn thương nhân phương Bắc thì bắt về tra vấn. Việc xử lý sáu tên theo giặc giao cho Kiểm pháp quan Lê Trọng Dĩnh. Nếu kẻ nào ngoan cố thì dùng nhục hình buộc chúng khai ra đồng đảng. Năm tên đầu đảng xử trảm bêu đầu, riêng thằng bé đã khai báo thì không đáng giết, nhưng trẫm cũng chưa nghĩ ra cách trừng phạt nào cho thích đáng trong hoàn cảnh không thể giam giữ.

Thánh Tông phản ứng:

– Bệ hạ nhân từ quá. Tuy nó có khai nhận nhưng vì hám tiền mà cam tâm theo giặc thì cũng không đáng sống.

Thái sư Quang Khải lên tiếng:

– Tội nó tuy chưa đáng chém nhưng cũng không thể tha. Quân thần sắp rời kinh thành không lẽ đem tội đồ đi cùng?

Nhân Tông cau trán ngẫm nghĩ rồi nói với phụ hoàng:

– Theo ý hoàng nhi, đày nó vào quân dịch cho đoái công chuộc tội theo cách của Thái sư trị tội bọn hôi của, có được chăng?

Thượng hoàng đáp những nét mặt không vui:

– Tùy ngài thôi, ngài là vua mà. Thằng này tên Trạc, tha cho nó chẳng khéo lại bị nó đâm sau lưng.

Thấy phụ hoàng nói lẫy, biết người không hài lòng, nhưng Nhân Tông không nỡ giết một đứa trẻ nhất thời lầm lỡ, nên ngài quả quyết ra lệnh:

– Tha tội chết cho Hồ Văn Trạc, buộc sung quân làm lao dịch, giao cho Tiền điện chỉ huy sứ Vũ Quốc Minh giám sát. Chớ để nó chạy trốn đấy.

Rồi nhà vua nói nhỏ với Thượng hoàng:

– Con hy vọng thằng Trạc này biết cải hoán, trở thành kẻ ngay thẳng.

Thánh Tông cũng nói nhỏ với nhà vua:

– Ta mong rằng con đúng. Thật lòng thì ta không yên tâm cho lắm nhưng cũng rất vui vì thấy con xử lý hợp tình hợp lý hơn ta. – Ngài cười rồi nói thêm – “Con hơn cha là nhà có phúc”, còn muốn gì hơn thế.

Nguyễn Thuyên kiến nghị:

– Theo hạ thần, việc di tản khỏi thành nên bí mật, đề phòng vẫn còn bọn thám báo hoặc phản nghịch bám theo.

Quang Khải có ý kiến:

– Cần tổ chức nghi binh, nhị hoàng đi một hướng còn xa giá đi một hướng, rồi hội tụ trên đường về cứ địa.

Nhân Tông chấp thuận:

– Cứ theo ý các khanh mà tiến hành. Sáng mốt ta rời kinh.

Các quan nhất nhất tuân lệnh, cùng bái tạ hai vua để đi hoàn tất các công việc còn lại, trước lúc vua tôi bỏ Thăng Long tạm lánh sang xứ khác theo quyết sách “Tị kinh thượng sơn” do Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đề xướng.

Sáng mồng một tháng chạp, những cư dân cuối cùng đã rời khỏi kinh thành, để lại sau lưng một thị tứ trống rỗng và vắng lặng đến rợn tóc gáy. Trong vòng hơn nửa tháng, hàng chục vạn con người đành bỏ nhà cửa, vườn tược, quán xá và dinh thự mà tản mát khắp nơi hòng trốn chạy một cuộc sát sinh đẫm máu. Lời đồn về sự tàn ác và man rợ của lũ Mông Thát khiến người ta khiếp đảm, chấp nhận bỏ của chạy lấy người trong tâm trạng hoang mang vô vọng. Có lẽ trong số người cất bước ra đi chẳng có được mấy người còn niềm tin về một ngày tái hồi toàn vẹn.

Các chùa chiền cũng bỏ hoang, sư sãi đã chạy nạn hết, tượng Phật, đồ thờ tự và pháp khí dời chỗ đi ẩn náu ở tận đầu tận đâu thì chỉ có nhà chùa mới nắm được. Trong hoàng cung cũng vậy, những thứ quý giá có thể mang đi đã được tháo dỡ và dời đi cất giấu ở tận đâu tận đầu thì cũng chỉ một số ít người trong triều được biết. Thành ra sau cuộc chiến, sự mai một các hiện vật văn hóa và tinh thần có giá trị cao đều có nguyên do từ đây, khi mà lượng dời đi và lượng dời về thường hay thiếu hụt do bị thất lạc, bị hư hỏng, bị đập phá, bị ngoại xâm cướp bóc, bị nội gian biển thủ, thậm chí bị tống khứ rẻ rúng khi người ta phải đem đổi lấy miếng ăn để tồn tại. Thiên hạ còn kháo nhau về việc nhiều người giàu sang quyền quý do không thể đem đi hết của cải đành phải chôn giấu trong nhà, trong vườn của họ. Nhưng vào thời điểm ấy, phần thì sợ bị quan quân bắt được, phần thì lo chạy nạn để giữ mạng sống nên ngay cả những kẻ hắc ám nhất cũng chẳng mấy ai dám nghĩ tới chuyện đi đào xới trộm cắp tài sản của người khác.

Sự hoang phế của kinh thành tiến diễn nhanh hơn người ta tưởng. Nhiều nhà bỏ đi chưa đầy tháng mà cỏ dại đã xanh thêm, bụi phủ đầy lối ngõ, mạng nhện giăng mắc kèo mái và mùi ẩm mốc thường trực như nó vốn có từ lâu rồi. Chim chóc ở đâu bay về làm tổ trong các khe lỗ nhà cửa, đền đài chẳng khác gì đấy là nơi chốn thiên nhiên hoang dã. Vài tháng nữa biết đâu bầy khỉ cũng kéo đến thiết lập lãnh địa mới, bấy giờ mặc nhiên giữa kinh thành “chim kêu vượn hú” từa tựa rẻo cao núi rừng. Cũng không ít vật nuôi lạc chủ, nhất là chó với mèo, chúng đói khát vật vờ và kêu rên thảm thiết mà chẳng hề có ai đoái hoài.

Trưa mồng hai tháng chạp, nhị hoàng và các quan tướng còn lại trong triều cũng vội vã rời kinh sau khi nhận được tin cấp báo của Hưng Đạo Vương “giặc đã vượt biên giới đánh vào ải Lộc Châu. Quân ta đang tổ chức kháng cự trên núi Khâu Cấp Lĩnh. Một cánh quân khác của giặc đã chiếm Khâu Ôn..”.

Xe ngựa của vua được tám ngàn quân cấm vệ và Thiên Thuộc phò tá do đích thân Thái sư Trần Quang Khải chỉ đạo rời khỏi kinh thành xuôi về hướng nam. Đoàn quân tiền hô hậu ủng rầm rộ, cờ xí phất phới, giáp binh hùng dũng nhưng trên mấy chiếc xe mui vàng chỉ có hai ả tì nữ của công chúa An Tư và mấy quan thị thân cận nhất của các vua.

Nửa canh giờ sau, Thượng hoàng và Quan gia rời kinh bằng ngựa qua cửa động cùng với hai trăm quân sĩ tinh nhuệ nhất do Chỉ huy sứ Vũ Quốc Minh đầu lĩnh. Họ xuống mấy chiếc thuyền đã trực sẵn để vượt Nhị Hà rồi đi miết về châu Nam Sách, đến địa điểm quy định chờ quân của Chiêu Minh Vương Quang Khải. Để bảo đảm bí mật, hai vua mặc trang phục như binh sĩ, còn hoàng hậu và công chúa An Tư phải cải nam trang và cưỡi ngựa như mọi người.?

Cảnh tượng quân dân rời kinh được Nguyễn Thuyên miêu tả trong một bài thơ Nôm do ông sáng tác. Vốn là người đi tiên phong sử dụng chữ Nôm ở Đại Việt, nên bài thơ của ông được lan truyền rộng rãi trong khí thế bài phương Bắc kịch liệt của người nước Nam thời bấy giờ. Thuộc số quan lại cuối cùng ra đi theo đoàn quân của Trần Quang Khải, nhìn người dân chạy loạn và sự hoang vắng của Thăng Long khiến Thuyên bồi hồi cảm xúc mà nhỏ lệ thành thơ. Bài thơ viết rằng:

Vỡ tổ chim đàn nháo nhác mây

Bốn phương ly loạn nỗi tan bầy

Mẹ địu con thơ xuôi bến bắc

Chồng dìu vợ yếu ngược non tây

Chó ngáp vườn hoang nhà vắng chủ

Lụa nhàu gác phế nhện chăng dây

Một đoàn chiến mã lên biên ải

Gió cuốn về kinh bụi phủ đầy.

Có bà phi đang ẩn náu cùng bầu đoàn hậu cung ở chốn hoang vụ núi rừng miền tây, khi nghe được bài thơ của Nguyễn Thuyên đã cám cảnh nỗi niềm tị nạn mà cảm hứng họa lại. Bài thơ họa viết rằng:

Xiêm áo tơi bời chốn núi mây

Một phen chìm nổi chẳng chia bầy

Phi tần gót ngọc mòn khe bắc

Ấu chúa đầu xanh bợt nắng tây

Cá suối rau rừng hương quện khói

Lều tre Võng lác mộng đưa dây

Mơ buổi quân vương hoàn cố quận

Nghe khúc âu ca gió lộng đầy.