← Quay lại trang sách

Chương 1 Lửa bỏng dầu sôi, vận nước ngả nghiêng hưng phế
Trời long đất lở, sức thù dữ dội cuồng ngông

Sáng sớm mồng hai tháng chạp năm Giáp Thân (1984), tiếng hò la vang dội từ bên cửa Tây Phong vọng tới, đánh thức những chiến binh Đại Việt ở tuyến phòng thủ đầu tiên vốn đang còn ngủ say sau một ngày làm việc mệt nhọc. Từ trên chòi quan sát, người lính trực chiến gióng tù và inh ỏi báo động toàn quân khi nhìn thấy quan ải giặc mở toang, rồi một đoàn kị binh phóng ra như thác lũ, hướng về phía cửa khẩu của ta. Do các cụm chiến đấu ăn ngủ tại chỗ nên mỗi nơi đều có lính trực, họ tiếp nhận thông điệp từ cụm trước rồi nổi tù và báo động cho cụm sau. Người ở trên núi bừng tỉnh dậy, cầm ngay vũ khí sẵn sàng chiến đấu. Người ở bên dưới nhanh nhẹn trèo lên vị trí của mình, lăm lăm cung nỏ đón đợi giặc thù.

Hơn hai ngàn kị binh Mộng Thát dồn ứ trước cửa ải Lộc Châu, phía sau chúng là đoàn quân của A Lý Hải Nha đông như kiến kéo dài đến ba, bốn chục dặm đang bị tắc nghẽn trên đất Nguyên. Cách đấy một ngày đường, đại quân của Thoát Hoan cũng rùng rùng chuyển động. Cửa quan Đại Việt đóng im lìm, nếu không vượt qua được thì một ngày sau quân của Trấn Nam Vương cũng đành nằm chết dí sau cái đuôi dài thoòng của quân A Lý Hải Nha.

Viên tướng tiên phong của giặc là Vạn hộ Nghệ Nhuận, đứng trước quan ải Lộc Châu ngạo nghễ quát lác:

– Kẻ nào trông coi cái chòi xiêu vẹo này, mau ra đây cho ta hỏi chuyện?

Quan trấn thủ Lê Đĩnh từ trên đài cao hỏi lại:

– Ta là tướng giữ ải, các người đang ở trên đất Đại Việt, kéo sang đây có việc gì?

Nghê Nhuận ngông cuồng nói:

– Quốc vương nước người thất tín với Trấn Nam Vương, theo lý phải hỏi tội, nhưng nghĩ tình lân bang nên ngài miễn thứ cho. Nay vương muốn mượn đường đánh Chiêm Thành, vậy ngươi mau cho lính mở cổng để đại quân ta qua, nếu chậm trễ thì ta sẽ san phẳng chỗ này.

Lê Đĩnh hùng hồn đáp trả:

– Việc bội tín giữa hai nước, không đến lượt ta và người đứng đây tranh cãi. Còn việc mượn đường đánh Chiêm là không thể, đường qua đây chỉ dẫn đến vực thẳm, người đi chỗ khác mà hỏi.

Nghê Nhuận nổi đóa gào lên như một kẻ quen thói ngang ngược bị người khác chặn họng:

– Không nói lôi thôi gì nữa. Mau mở cổng kẻo ta cho lính xông vào lôi chúng bay ra chặt đầu cho chó gặm.

Lê Đĩnh thách thức:

– Có giỏi thì cứ vào đây mà chặt đầu ta?

Rồi ông nhanh nhẹn rời tháp cao, trước khi những mũi tên của giặc lao tới. Như đoán trước được kết cục đấu khẩu, bọn Nguyên đã chuẩn bị sẵn dụng cụ phá cổng. Hai mươi tên lính bộ binh hò nhau khiêng một thân gỗ to hơn cái cột nhà, được khoét lỗ tra thanh ngang làm mấu cầm, rồi hùng hục lao tới động vào cánh cửa gỗ lim của quan ải Lộc Châu. Trên núi, ở tuyến phòng thủ đầu tiên, Lương Bành và Lê Đĩnh cùng phát lệnh xạ kích. Những mũi tên lao xéo từ hai bên sườn núi bắn xuống hạ gục tại chỗ một phần ba đám lính phá cửa, bọn còn lại tháo chạy tán loạn.

Quân Nguyên tổ chức đợt công phá khác, lần này chúng bổ sung thêm đội hình khiêng những chiếc mộc to như tấm phản che chắn đằng trước và hai bên sườn đám lính phá cổng. Những mũi tên cột bùi nhùi lửa bắn xuống tới tấp vào các mộc gỗ, chẳng mấy chốc lửa bén sang gỗ khiến bạn khiêng mộc hoảng loạn, quẳng lại tất tật mà chạy thoát thân. Lũ phá cổng không còn được che chắn, vội vàng tháo lui.

Tương kế tựu kế, giặc ào ạt bắn tên lửa vào cửa ải, thiêu rụi cái cổng gỗ cứng cáp trong chốc lát. Chờ tàn lửa tắt hẳn, bọn kị binh thúc ngựa xông tới, tốp đi đầu lao thẳng xuống cái hố được ngụy trang kín đáo, năm lính kị cùng ngựa ngã đè lên nhau, trở thành miếng mồi ngon cho cung nỏ bắn xuống. Bọn kị binh lùi lại, nhường đường cho lũ bộ binh ào ạt tiến công, chúng dùng khiên nhỏ đỡ tên và bắn trả dữ dội. Nhiều chiến sĩ ta gục chết trên sườn núi, máu loang đỏ vách đá. Những mô đá cao cản bước kị binh giặc nhưng lại trở thành chỗ ẩn nấp của bọn bộ binh, chúng tập kết quân sau các đống đá rồi bất ngờ đánh lên sườn núi. Chờ cho bọn giặc lên đến vị trí trống trải, các thủ lĩnh hạ lệnh dội đá. Như một trận lở núi, hàng trăm tảng đá ào ào lăn xuống xô ngã nhào lũ giặc đang ở thế chênh vênh giữa lưng chừng vách, thằng trước đổ cuốn theo thằng sau, đứa chết, đứa bị thương nằm lăn lóc dưới chân núi.

Giặc thù không nản chí, hết đợt này đến đợt khác tiếp tục đánh lên. Quân ta rơi vào tình thế bất lợi, khi không còn đá để ném xuống, các tướng hò hét chiến binh dùng đao kiếm đánh địch. Trận chiến một mất một còn trên cả hai sườn núi, kẻ địch ở dưới đánh lên bất lợi hơn ta, nhưng chúng quá đông nên nhanh chóng chiếm được ưu thế. Hơn hai chục tráng sĩ còn lại của Lương Bình bị giặc bao vây vẫn nỗ lực bám trụ trên mấy mỏm đá cuối cùng. Tình hình bên phía Lê Đĩnh nguy cấp hơn, mười mấy chiến sĩ còn sống bị dồn vào một hốc núi không có đường thoát ra. Song tinh thần quyết tử của chiến binh Đại Việt không hề giảm sút, những thanh mã tấu sắc bén vẫn đầy uy lực hạ gục bất cứ tên giặc nào liều lĩnh lao tới.

Khi trên núi đánh nhau kịch liệt, bọn giặc bên dưới nhanh chóng dọn đá và khuân ván bắc cầu trên miệng hố cho quân băng qua. Lần này chúng cẩn thận hơn, đám kị binh không phi như bay mà dóng hàng năm đi nước kiệu, còn lũ bộ binh lăm lăm giáo dài gươm bén phạt sạch bụi cây bờ cỏ ven đường. Thấy dưới chân toàn rơm cỏ và que củi, Nghê Nhuận sinh nghi, ra lệnh dừng binh. Song tất cả đã muộn, hai bên sườn núi vang dậy tiếng hô “Sát Thát” cùng với những chiếc và sành từ trên cao dội xuống, vỡ tung tóe trên đầu thù và dưới mặt đường một thứ chất lỏng nhầy nhụa, rồi các mũi tên quấn bùi nhùi lửa đồng loạt bắn tới, tạo thành một dòng sông lừa dài dặc. Trong cơn hoảng loạn và tuyệt vọng, tiếng kêu la thảm thiết của người và ngựa bị hỏa thiêu vang nhức nhối cả một góc trời. Những kẻ nhanh chân khiến ngựa quay đầu chạy lại bị quân của Hà Trận Đốc và Lô Viên Tả dùng cung nỏ hạ gục vô số. Vạn hộ Nghê Nhuận thoát chết, hoảng hốt tháo lui khỏi hẻm Khâu Cấp Lĩnh, để lại hàng trăm xác chết, trong đó có hơn năm chục tử thi cháy đen.?

Thấy đồng đội bị thất trận dưới đường, lại nghe tiếng hò reo của quân ta vọng tới, bọn ở trên núi nhụt ý chí, sợ bị tập hậu, đành chấp nhận bỏ cuộc, rút lui xuống núi. Lương Bành và Lê Đĩnh cũng nhanh chóng rút quân về tuyến sau, tăng cường cho trận địa của Hà Trận Đốc và Lô Viên Tả.

Hoàng hôn đã buông xuống núi rừng, giữa một vùng khói lửa mù mịt, bầu trời tối sớm hơn mọi ngày.

Được Nghê Nhuận thông báo tình hình chiến sự, A Lý Hải Nha vô cùng tức tối, từ bản doanh còn đang ở trên đất Nguyên, y xăm xăm lên ngựa, dẫn theo vài chục viên tướng đi thị sát chiến trường. Trong bóng chiều tà, nhìn địa thế hẻm Khâu Cấp Lĩnh, viên Bình chương hỏi thuộc cấp:

– Có tìm ra lối nào khác để tập kích bọn An Nam từ phía sau?

Nghê Nhuận đáp:

– Đã cho quân đi thám sát, xung quanh toàn núi dựng đứng, không thấy có đường mòn vắt sang sườn núi bên này.

A Lý Hải Nha trừng mắt quát:

– Ngươi làm tướng nhưng chỉ biết dùng sức mà không biết dùng mưu. Đi lùng bắt bọn dân trong vùng, dùng ngân lượng mua chuộc, sẽ có đứa bày đường cho ta.

Nghê Nhuận vội vã lui ra, khẩn cấp thực thi mệnh lệnh của chủ tướng. Sát Tháp Nhi Đài hiến kế:

– Ta có cự thạch pháo, nên đem vài khẩu tới công phá hai sườn núi, địch quân ắt thiệt hại đáng kể, bấy giờ cho bộ binh xông lên diệt nốt.

A Lý Hải Nha hỏi:

– Cự thạch pháo hiện đang ở đâu?

Lý Hằng đáp:

– Ở hậu quân, cách bốn chục dặm.

A Lý Hải Nha truyền lệnh:

– Điều ngay hai khẩu lên tuyến đầu. Nhường đường cho pháo qua, bằng mọi giá sáng mai phải có mặt tại đây.

Kịp lúc quân hiệu cấp báo lệnh của Trấn Nam Vương “Hạn trong ngày mai phải thông đường. Dùng binh mạnh tiêu diệt bằng hết bọn An Nam cố thủ, bắt giết không tha mạng”.

Đến giờ dần ngày mồng ba, vẫn không thấy giặc tiến vào Khâu Cấp Lĩnh, các thủ lĩnh phán đoán chúng đang mưu tính một cách đánh khác, có thể trận chiến sắp tới sẽ vô cùng dữ dội. Tuyến phòng thủ thứ hai đã đánh trận hỏa công xuất sắc mà không bị thiệt quân, ngoài số quân từ tuyến một kéo về, các vị chỉ huy quyết định điều động một trăm quân từ tuyến sau lên. Bằng mọi giá phải giữ được trận địa đến tối, bấy giờ nếu ai còn sống sẽ rút về tuyến ba, bổ sung lực lượng cho trận chiến cuối cùng.

Bất chợt có tiếng ù ù ở trên đầu, mọi người chưa kịp nhận biết là gì thì những tảng đá to cỡ một người ôm tới tấp rót xuống trận địa của họ. Vách núi rung chuyển như động đất, thanh chấn ầm vang liên hồi tựa sấm rền, đất đá đổ vỡ rào rào chẳng khác gì cảnh tượng lở núi. Tiếng rên la yếu ớt của các chiến binh hấp hối bị chìm lim trong chuỗi âm vực hỗn mang, đinh tai nhức óc. Vốn biết được thông tin về vũ khí của giặc, Lương Bành hò hét khản giọng:

– Địch dùng cự thạch pháo bắn đá, mọi người tìm các hốc núi mà ẩn nấp.

Gần trăm chiến sĩ Đại Việt tử nạn trong trận công phá bằng phương tiện chiến tranh lợi hại của Nguyên Mông. Lực lượng bên ta suy yếu hẳn, nhưng người còn sống vẫn bám trụ đến cùng, nhất quyết không rời trận địa. Giặc ngưng bắn, biết chúng sắp tràn vào, các chiến binh và dân binh nhanh chóng thu lượm vũ khí của người chết, trở về vị trí của mình, sẵn sàng nghênh đón kẻ thù.

Bọn kị binh xuất hiện đầu tiên, chúng phóng qua bãi chiến trường đen ngòm xác cháy, vừa phi nước đại vừa giương cung xạ kích. Lũ bộ binh ở phía sau ồ ạt công núi, bị quân ta đánh chặn bằng cung nỏ, song thế địch quá mạnh, những mũi tên sắc nhọn của chiến binh Đại Việt không cản nổi bầy giặc dữ đông hơn gấp bội. Bọn vong nô Ô Tư Biệt Khắc và Nữ Chân thiện chiến sơn cước, miệng ngậm đoản kiếm, lưng cài mã đao, thoăn thoắt bám vào các mỏm đá leo lên giáp chiến với quân ta.

Ở cuối tuyến phòng thủ thứ hai, chỗ đoạn đường thắt lại, đợi bọn kị binh đến đúng tầm, Hà Trận Đốc cho quân lăn đá xuống, người ngựa giặc ngã nhào, quằn quại trên mặt đất. Đá ngổn ngang khúc đường hẹp, lũ ngựa không thể vượt qua, bọn kị binh rời ngựa, nấp vào vách núi tìm chỗ trèo lên phản công. Quân ta dùng nỏ bắn xuống, Hà Trận Đốc hét to “Ba mũi tên hạ một đứa. Phải bắn cho chết hẳn để thằng chết cản đường thẳng sống”. Binh sĩ theo lệnh chủ tướng, nhắm bắn đứa nào là đi đời đứa ấy. Chúng ỷ đông quân, vẫn tiếp tục xông lên đánh giáp mặt, hai bên giành giật nhau từng mỏm đá, đao kiếm hỗn loạn, thịt xương tung tóe. Quân ta tử thương quá nhiều, khó bề giữ được trận địa. Kịp lúc toán tăng viện theo đường mòn từ tuyến sau ập đến, trong ngoài hò nhau đánh bật bọn kị binh xuống chân núi. Quan sát sứ Hà Trận Đốc bị thương nặng, một nhát đao của giặc chặt đứt cánh tay phải rồi cứa ngang lườn người chiến tướng sơn cước can trường, trước lúc trút hơi thở cuối cùng, ông còn kịp dặn dò binh sĩ “Gắng giữ nốt ngày mai”.

Ở đầu tuyến, quân của Lô Viên Tả rơi vào tình thế bất lợi, tên đã hết, cung nỏ thành vô dụng, một mã tấu của tráng sĩ nước Nam khó địch nổi ba, bốn đao kiếm của Mông Thát. Giặc chiếm từng mỏm đá, chém nát cả các chiến binh ta, đề phòng họ giả chết bật dậy kháng cự. Trong tình thế nguy cấp, trại chủ họ Lộ vụt đúng dậy, miệng hét vang “Tụi bay xuống âm phủ với ta”, hai tay nâng vò dầu lạc, lao vào tên gần nhất, đập và lên đầu nó để dầu văng tung tóe khắp nơi, rồi ôm cứng thằng giặc cùng ngã nhào xuống núi, kéo năm đứa ngã theo. Các chiến binh noi gương hành động trí dũng của trại chủ, đập vỡ các vò dầu, để dầu chảy lênh láng làm vách đá trơn trượt. Lũ giặc bị tuột tay, thằng trước thằng sau ngã nhào cả xuống núi. Người anh hùng của núi rừng Lạng Giang bị mấy xác giặc đè lên, trước lúc lìa đời, tâm trí ông còn hiện về hình ảnh cậu con trai Lô Viên Dụng cưỡi ngựa hiên ngang trong đoàn quân ra trận...

Lương Bành và toàn quân của ông chém giặc rã tay, họ thiện chiến hơn dân binh nhưng một chọi bốn nên sức lực cạn dần, quân số bị thương vong quá nửa. Hành động tưới dầu làm trơn vách đá đã cứu nguy trận địa phòng thủ. Khi thấy các chiến sĩ định đập nốt hai vò dầu cuối cùng, Lương Bành ngăn lại và nói “Không cần thiết nữa, mấy thằng kia sắp tuột rồi”. Trong đầu ông vừa lóe lên ý nghĩ dùng số dầu còn lại vào một kế hoạch mạo hiểm.

Bên phía Lê Đĩnh, do vách đá dựng đứng nên đạn của giặc ít hiệu quả, bọn Nguyên cũng không có chỗ bấu víu để trèo lên. Chúng dồn lực đánh lên lối mòn duy nhất từ mặt đường chạy chênh chếch ngang sườn núi. Đoán được ý đồ của giặc, ông đã cắt cử nhiều toán quân chốt chặn con đường mòn hiểm yếu. Khi giặc xông tới, các chiến binh nấp sau mỏm đá, bụi cây, dùng cung nỏ cản bước lũ Mông Thát. Quân ở trên cao xạ kích vào sườn đội hình địch, khiến chúng thương tổn không ít. Song kẻ thù đông như kiến, các chốt lần lượt bị chúng chiếm lĩnh, quân ta rơi vào hoàn cảnh nguy khốn. Bất chợt ở sườn núi bên kia, lũ giặc thi nhau ngã nhào từ trên cao xuống, tiếng la hét thê thảm dội sang làm bạn bên này hoang mang chùn bước. Lợi dụng thời cơ, Lê Đĩnh xốc lại đội ngũ, dẫn bảy mươi chiến sĩ theo đường mòn đánh thắc xuống. Tráng chí Việt lăn xả vào kẻ thù cướp nước mà chém giết tơi bời, khiến bọn Mông Thát phải tháo chạy xuống núi.

Trên toàn tuyến phòng thủ, quân Nguyên buộc phải rời trận địa, rút về một khoảng cách an toàn. Quá trưa, không thấy giặc rục rịch tiến vào, lại thấy chúng đốt đuốc giữa ban ngày, Lương Bình hiểu ngay mục đích của bọn Thát. Ông hạ lệnh cho binh sĩ rời xa các vách đá, bụi cây ướt dầu. Quả nhiên, một toán giặc phóng ngựa tới, quăng đuốc lên vách, lửa lan rộng thiêu cháy cây cỏ, đất đá và xác người nằm rải rác. Khói lửa mù mịt vách núi, các chiến sĩ đổ nước vào áo rồi quấn lên mặt để không bị ngạt. Tuy một số bị lửa táp vào người làm bỏng rộp da thịt, nhưng tất cả đều toàn mạng. Chúng đốt trận địa của ta, dầu cháy hết không còn trơn trượt, song làm đá nóng bỏng. Bành đoán, địch đã ngừng tiến công.

Xế chiều, giặc hò nhau kéo cự thạch pháo vào tuyến phòng thủ thứ nhất mà quân ta đã rút đi. Ngày mai chúng sẽ dùng hai con quái vật khổng lồ này để bắn phá trận địa của ta một lần nữa, Lương Bành quyết chặn đứng mưu đồ của giặc. Chờ tối hẳn, ông dùng lửa báo hiệu cho đồng đội ở sườn núi bên kia. Lê Đĩnh được tin, bèn dẫn theo hai người âm thầm xuống núi, vọt qua đường sang gặp Lương Bành.

Họ thông báo cho nhau tình hình tổn thất, cùng ngậm ngùi trước cái chết của hàng trăm tráng sĩ và hai vị thủ lĩnh trung liệt.

Lương Bành bàn với Lê Đĩnh:

– Giặc kéo cự thạch pháo vào sâu trong hẻm núi, phải diệt nó thì mới giữ được trận địa thêm một ngày. Đêm nay chúng tôi sẽ đột nhập đốt phá, xin ngài thu gom tên nỏ rồi dẫn theo vài chục thiện xạ bí mật tiếp cận mục tiêu ở khoảng cách một tầm bắn. Khi pháo của giặc bị đốt, tất chúng sẽ xúm vào dập lửa, bấy giờ các ngài phải hạ gục bọn chữa cháy, đừng lo bắn nhầm người của ta. Xong việc ngài cho rút quân về tuyến ba, cách bố trí phòng thủ do ngài tự quyết.

Họ lặng lẽ chia tay nhau mà không một lời cảm thán. Xã tắc nguy biến, hai phần ba huynh đệ đã nằm lại trên rẻo núi biên cương, nói gì cũng bằng thừa, chỉ cần ý chí xả thân để giữ vững trận địa thêm một ngày nữa, bấy giờ dù có ngã gục bên xác đồng đội, họ sẽ thanh thản bước vào cõi thiên thu.

Chờ tới canh năm, khi sương mù phủ dày hẻm núi, cũng là lúc bọn lính canh gác và tuần tiễu thường chểnh mảng nhiệm vụ, Lương Bành cùng ba chiến sĩ cảm tử mang hai vò dầu trườn vào bóng đêm, men theo vách núi mà bò về phía hai cỗ máy giết người khổng lồ. Lê Đĩnh dẫn hai mươi tráng sĩ theo đường núi đến mai phục ở vách đá đối diện với cự thạch pháo.

Máy bắn đá của quân Nguyên được làm bằng gỗ, có bánh xe đẩy và giá đỡ cao lênh khênh, cần dài tới sáu trường và xảo đựng đá to bằng cái sàng thóc. Mỗi máy phải sử dụng hàng trăm người kéo dây, nên bọn pháo thủ thường ăn ngủ tại chỗ để trông coi và bảo quản vũ khí. Giặc bố trí hai vòng bảo vệ; vòng ngoài là một trăm lính bộ binh án ngữ ở khoảng cách hai trăm thước luân phiên canh gác, mỗi canh đổi ca một lần; vòng trong là nhiệm vụ của bạn pháo thủ, mỗi khẩu pháo có bốn lính canh ở hai đầu, trên tay đứa nào cũng cầm đuốc lửa.

Trên đường núi xác chết nằm ngổn ngang, người sống trà trộn với người chết khiến bọn tuần canh khó phát hiện. Họ quyết định không triệt bọn lính canh vòng ngoài để tránh kinh động giặc, mà cố vượt qua chúng bằng thủ pháp hướng dị cấp động, hướng tâm bất độngnhìn đi thì động, nhìn thẳng thì im. Càng gần sáng sương càng dày đặc, cách dăm trượng không nhìn rõ hình thù, gió bắc lùa qua khe núi lạnh thấu da thấu thịt, toán lính canh đúng co ro không hề hay biết có mấy “xác chết” đang chuyển động.

Vượt qua đám lính canh vòng ngoài, Lương Bình làm hiệu cho huynh đệ khẩn trương động thủ một chọi hai, các tráng sĩ như quỷ thần từ dưới đất chui ra, vọt đến sát bọn lính canh rồi lia mã tấu ngọt xớt, hạ gục tại chỗ mấy thằng giặc chưa kịp nắm chuôi đao. Các vò dầu được rưới khắp hai khẩu pháo, đuốc của giặc thành mồi lửa thiêu cháy vũ khí giặc. Pháo của giặc được làm bằng thiết mộc, không dễ bén lửa, buộc họ phải đốt nhiều chỗ và chấp nhận ở lại bảo vệ chiến quả của mình.

Rồi ngọn lửa cũng bám vào gỗ và bắt đầu lan ra, bốn cảm tử quân quyết không rời vị trí, tay lăm lăm binh khí chờ bọn chữa cháy kéo đến. Quả nhiên, bọn giặc từ các ngả ào tới dập lửa nhưng vấp phải sự quyết tử của các chiến binh can trường. Lương Bình và đồng đội biết mình sẽ chết, song họ cố cản địch để lửa cháy sâu hơn vào thớ gỗ. Cảnh tượng hỗn loạn trong ánh lửa sáng rõ, vũ khí sắc lạnh xả vào da thịt nhau, máu tuôn thành vũng quanh mấy chiến cụ đang cháy rực. Mấy tên kị binh liều lĩnh lao vào dùng giáo dài đâm cảm tử quân, Lương Bình túm được một ngọn giáo, dồn sức bình sinh kéo ngã nhào tên giặc, đoạt ngựa vung giáo đâm trả bọn Thát.?️

Ở trên cao, Lê Đĩnh ra lệnh xạ kích. Không thể phân biệt địch ta, các chiến sĩ cứ nhằm vào đám đông bên dưới mà nhả dây cung, bật lẫy nỏ. Viên chỉ huy quan ải nhắm nghiền đôi mắt ướt lệ mà bắn tên xuống, ông biết cảm tử quân khó bề sống sót, nhưng vẫn ước ao mũi tên của mình không cắm vào thân xác đồng đội. Lương Bành, người tiểu tướng trung dũng của Hưng Đạo Vương cùng với ba huynh đệ quả cảm đã bước vào cõi bất tử trong một trận đánh hiển hách trên tuyến đấu chống giặc phương Bắc.

Bị tổn thất nặng nề, giặc Mông Thát lồng lộn tức tối, chúng nhất quyết diệt sạch đối phương cố thủ trên núi để thông đường cho đại quân thiên triều tiến vào lãnh thổ của bọn người An Nam tầm thường nhỏ bé, không biết phân biệt cao thấp. A Lý Hải Nha điều chiến tướng Sát Tháp Nhi Đài đến trực tiếp chỉ huy trận đánh.

Lê Đĩnh dồn quân về tuyến phòng thủ thứ ba án ngữ tại khúc cong của dải núi. Quân số chỉ còn hai trăm ba mươi tư người, được chia làm hai cánh tả hữu; cánh hữu án ngữ địa thế hiểm trở, ông cắt cử một trăm quân dưới quyền chỉ huy của một chiến sĩ Vạn Kiếp dày dạn trận mạc; cánh tả gồm quân còn lại do ông đứng đầu cố thủ sườn núi thoai thoải, nơi giặc dễ đánh chiếm hơn. Trước lúc vào trận, vị tướng giữ ải của giang sơn Đại Việt tỏ bày lần cuối với anh em binh sĩ:

– Tất cả chúng ta, những người có mặt ở đây, dù là chiến binh hay dân binh đều đã xác định trước kết cục của mình. Tuy thuộc bốn lực lượng nhưng anh em đã đồng lòng chung sức chiến đấu và đổ máu mấy ngày qua, hôm nay lại sát cánh bên nhau trong trận chiến cuối cùng. Một số người đã bị thương và kiệt sức nhưng vẫn bám trụ không rời. Nhiều người chưa phải đánh giặc nên còn sung sức. Người khỏe hãy hỗ trợ người yếu, quyết không cho lũ Mông Thát vượt qua Khâu Cấp Lĩnh trước sáng ngày mai.

Hơn hai trăm tráng sĩ trừng trừng nhìn về phía giặc thù mà cùng thề giữ vững trận địa, dẫu thịt nát xương tan, bỏ thân xác giữa đá núi hoang lạnh. Họ chia sớt cho nhau vũ khí và lương thực rồi tản ra chiếm lĩnh các vị trí cố thủ.

Không còn cự thạch pháo để bắn phá dọn đường, Sát Tháp Nhi Đài tung bộ binh đánh sườn núi hiểm trở bên phải, dùng kị binh đánh lên dốc núi thoai thoải bên trái, đồng loạt tiến công bằng sức mạnh áp đảo với số quân đông hơn đối phương gấp mười lần.

Bọn bộ binh sử dụng tám trăm quân vừa cung vừa mộc, kẻ bắn người che, trút mưa tên lên trận địa của ta nhằm yểm trợ cho ba trăm thằng quăng dây có móc sắt vào các mỏm đá để leo lên giáp trận. Ngay từ loạt tên đầu, nhiều chiến sĩ bị thương vong, những người kịp ẩn náu không thể nhổm dậy bắn trả. Quân ta tương kế tựu kế, chờ cho bọn tiên phong leo đến lưng chừng núi, họ đồng loạt quăng dây ra, mỗi dây một cảm tử quân tuột nhanh xuống, tới ngang tầm đầu dây của giặc là vung mã tấu chặt sợi dây có vài ba thằng đang bám vào; giặc rụng như sung, thân đập vào đá, không tắt thở liền cũng ngắc ngoải chết. Mấy tráng sĩ của ta bị trúng tên vẫn dồn hết sức lực cuối cùng chặt đứt dây của địch rồi mới chịu buông tay, gửi thân xác về đất mẹ. Ta và địch thi nhau đáp xuống chân núi, khiến bọn giặc đứng dưới bị ngã đè lên, không ít thằng què tay gãy chân, coi như loại khỏi cuộc chiến. Về phía ta, hai mươi mốt tráng sĩ quyết tử đã bỏ mình trong trận chiến bằng dây trên vách đá Khâu Cấp Lĩnh. Bộ binh Thát tạm thời lui quân.

Trên sườn núi bên phải, hàng trăm chiến mã Mông Cổ lao vút như tên bắn lên triền dốc, mười mấy thằng đi đầu ngã bổ nhào xuống những rãnh sâu được quân ta mai phục dưới chân núi. Sát Tháp Nhi Đài hò hét bắc ván để vượt qua. Hơn năm chục kị binh giặc vọt tới lưng chừng núi, vừa đến tầm tên bắn, Lê Đĩnh phát lệnh xạ kích, người ngựa trúng tên, phía trước ngã kéo phía sau ngã theo, chúng đành chấp nhận lui quân, bỏ lại hơn hai chục xác chết nằm vương vãi trên triền dốc. Giặc tổ chức đợt tấn công mới, lần này bọn kị binh dùng mộc che chắn, quân ta bắn ngựa, chiến mã địch ngã nhào, hất chủ của nó lăn xuống đất, đội hình rối loạn, khiến chúng phải rút xuống núi.

Sau giờ ngọ, Sát Tháp Nhi Đài tổng lực tấn công. Bên vách đá dựng đứng, giặc Thát dùng thang để trèo lên, quân ta tung móc sắt giật đổ thang. Nhiều chiến binh bị tử nạn vì trúng tên khi phơi mình ra khỏi chỗ ẩn nấp để điều khiển dây móc trúng thang giặc. Bên dốc núi, địch đánh lên lần thứ ba, sức bắn chặn của ta yếu hơn hẳn, chúng biết đối phương đã cạn tên, bèn liều lĩnh xông tới. Nếu bọn kị binh áp sát, ta khó giữ nổi trận địa, nhưng trí dũng của dân Nam khiến chúng phải trả giá nặng nề. Khi toán đi đầu vào đến tầm động thổ, Lê Đĩnh hô to “Dùng sào nhọn đâm ngựa”, hàng loạt chiếc sào tre vót nhọn chĩa ra tua tủa đâm thẳng vào bụng ngựa khiến chúng đổ gục tại chỗ, bọn cưỡi ngựa ngã lăn lóc vào vách đá lởm chởm, chiếc mộc trở thành vô dụng, thân hình đồ sộ của chúng lĩnh đủ loạt tên cuối cùng của chiến binh Đại Việt. Người ngựa phía sau hoảng loạn, giặc nháo nhào quay về vị trí xuất phát. Trong đêm hôm trước, Lê Đĩnh đã sai người vượt núi vào rừng chặt tre già, vót nhọn làm vũ khí chống cận chiến.

Thừa cơ hai bên đánh nhau hỗn loạn trên núi, tướng giặc sai vài trăm kị mã phi qua chiến địa, tiên phong mở đường. Đoàn kị binh Mông Thát phóng như bay rồi bất ngờ chững lại khi đến khúc đường quanh, ở phía trước có một lũy đá đồ sộ chắn ngang độc đạo. Lúc chúng còn loay hoay tìm cách vượt qua thì từ trên núi những tảng đá to như cối giã gạo thi nhau rớt xuống. Bọn đi đầu không có chỗ tháo lui, người ngựa tan tành, máu nhuộm lênh láng mặt đường. Trước đây, mười lăm chiến binh được lệnh âm thầm mai phục, chỉ ra tay lúc thời cơ đến. Một viên tưởng nhỏ nước Nam cũng có thừa mưu trí đánh giặc, quả là thời đại hiển hách.

Xế chiều, giặc tổ chức một đợt phản công khác, nhưng lần này chúng đánh đấm không nhiệt tình, nặng phần khiêu khích hơn là chiếm lĩnh cứ điểm. Ở bên dốc núi, một toán giặc phi ngựa lên, giương cung bắn rồi quay xuống nhường đường cho toán khác. Cứ thế, chúng ra sức quấy nhiễu trận địa của ta với một mục đích khó đoán định. Ở bên vách núi dựng đứng, giặc chỉ bắn tên rào rào mà không sử dụng bất cứ phương tiện nào khác để công phá.

Rồi tiếng hò la từ trời cao dội xuống, ngước nhìn lên đã thấy giặc ở ngay trên đầu, Lê Đĩnh và các chiến hữu biết giặc tập kích phía sau, vội quay lưng đánh trả. Bọn kị binh ở dưới chớp thời cơ ạt nóng lên. Trên đe dưới búa, hơn sáu mươi tráng sĩ còn sức chiến đấu không thể đánh bại cả ngàn tên giặc Thát, vòng vây càng lúc càng xiết chặt, từng chiến binh bị giặc thù đâm nát bởi hàng chục mũi gươm giáo.

Biết nhiệm vụ đã hoàn thành, hy sinh thêm cũng vô ích. Lê Đĩnh xé mảnh áo trước ngực, lấy máu viết hai chữ "Hồi binhRút quân", quấn vào mũi tên bắn sang vách núi bên kia, rồi vung đao bổ vào hai tên giặc xáp tới, trước khi bị bọn Thát chém xả tơi bời. Người anh hùng giữ ải họ Lê gục chết bên đồng đội của ông tại ngọn Khâu Cấp linh thiêng trên địa đầu Tổ quốc.

Một chiến binh phát hiện được mũi tên có quấn vải từ bên kia bắn tới, lúc tháo vải ra thì biết ngay là của Lê Đĩnh, bèn truyền tin cho đồng đội. Chấp hành mệnh lệnh của chỉ huy, ba mươi hai tráng sĩ sống sót âm thầm rời vị trí. Họ nuốt lệ vào trong mà vĩnh biệt hơn bảy trăm huynh đệ đã mãi mãi nằm lại giữa núi đồi biên cương hoang sơ, rồi lầm lũi cất bước trong bóng chiều hấp hối.

Nguyên do giặc Thát có thể tập hậu quân ta bắt nguồn từ xảo kế của A Lý Hải Nha. Theo lệnh chủ tướng, hòng đoái công chuộc tội thất trận, Vạn hộ Nghê Nhuận cho quân lùng sục quanh vùng tìm người chỉ điểm. Có kẻ hám lợi chấp nhận bán rẻ đồng bào, dẫn đường cho ba trăm quân của Nghê Nhuận vượt qua hai dãy núi, bất ngờ đánh úp phía sau trận địa phòng thủ của Lê Đĩnh.

Phải mất nhiều canh giờ dọn dẹp chướng ngại vật, tới sáng hôm sau, đại quân Mông Thát mới qua được phâu Cấp Lĩnh, rầm rộ kéo đến ải Khả Ly. Nghe báo thiệt hơn một ngàn quân tại cái hẻm núi con con, Thoát Hoan giận dữ mắng nhiếc thuộc cấp rồi quyết định điều các chiến tướng giỏi nhất chỉ huy quân tiên phong cánh đông, tránh tình trạng chưa vào tới nhà đã bị đánh bầm dập từ ngoài cổng. Lại biết tin hai khẩu cự thạch pháo bị đốt cháy tan tành, y càng điên tiết, nhưng cũng đủ tỉnh táo để ra lệnh “An Nam nhiều núi mà đường thì hẹp, bọn Nam man dễ lập trận đốt phá. Mười khẩu cự thạch pháo còn lại chỉ chuyển đến sát biên giới, khi cần thiết sẽ kéo sang sau”.

Nhận lệnh của Hưng Đạo Vương, Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Khoái khẩn cấp dẫn quân từ Sơn Động lên Khả Ly và Động Bản. Đội hình hành quân ngày đêm, sáng mồng bốn tháng chạp đến vị trí tập kết rồi chia quân đóng giữ hai ải liên thông với nhau trên một đoạn đường dài không đầy bảy chục dặm. Phạm Ngũ Lão trấn Khả Ly, Nguyễn Khoái thủ Động Bản, sau trước cả thảy vạn mốt quân.

Khả Ly cách Khâu Cấp Lĩnh khoảng một ngày bộ hành, qua khỏi Khả Ly đi thêm nửa ngày là tới Động Bản, tuy chúng có địa thế không hiểm trở nhưng giữ vai trò cực kỳ quan trọng trên con đường huyết mạch nối biên cương với Nội Bàng, nơi Hưng Đạo Vương đóng bản doanh trong kế hoạch phòng thủ đông bắc.

Bố trí xong trận địa, Phạm Ngũ Lão dẫn theo vài chục quân đi ngược lên phía bắc để quan sát địa bàn. Bắt gặp trên đường nhiều người dắt díu nhau chạy giặc, Phạm Ngũ Lão kêu lại hỏi han tình hình. Một ông cụ kể lể:

– Chúng tôi là người một bản ở dưới đỉnh Khâu Cấp. Mấy bữa nay trong núi đánh nhau dữ dội, lửa khói nghi ngút, tiếng động long trời lở đất. Càng ngày âm thanh càng rõ hơn, biết giặc sắp tràn qua hẻm núi, nên cả bản kéo nhau đi lánh nạn.

Phạm Ngũ Lão có lời khuyên:

– Bà con cứ chạy lên các ngọn núi cao mà lẩn tránh, càng xa đường càng tốt. Mọi người đi bộ một ngày, bọn Thát cưỡi ngựa chỉ vài canh giờ, để chúng bắt gặp thì nguy lắm.

Những người dân sơn cước hiền lành chất phác lần đầu tiên lâm vào cảnh ngộ ly hương, bỏ lại nhà cửa, ruộng nương mà phiêu dạt nhưng chẳng biết nên đi đâu, về đâu? Trong tâm trạng hoang mang lo sợ, nhiều người nghe theo lời khuyên bỏ đường mà chạy lên núi. Một số ít tin rằng đã có quân ta cản giặc, nên vẫn muốn theo đường đi tiếp để đến tá túc nhà họ hàng ở cách đây hai ngày cuốc bộ. Ngũ Lão chẳng thể giúp được gì hơn, cũng không thể nói rõ với bà con về chủ trương không cố thủ lâu dài, đành thầm cầu mong cho mọi người vô sự, nhanh chân thoát khỏi vòng nguy hiểm, sớm đến được nơi an toàn. Theo lệnh của Tiết chế, quân của ông và Nguyễn Khoái chỉ cần giữ ải một ngày, hạn chế tổn thất lực lượng.

Tham tri Lý Hằng và bọn Sát Tháp Nhi Đài, Lý Bang Hiến thống lĩnh hai vạn quân vượt qua Khâu Cấp Lĩnh, ào ạt kéo đến Khả Ly. Hằng điều ba ngàn kị mã tiên phong của Bang Hiến xông thẳng tới chiến ải nằm giữa hai ngọn đồi bát úp. Đợi cho giặc hùng hổ tiến sâu vào trận địa, tướng quân Ngũ Lão phất cờ lệnh tấn công, hàng trăm cung thủ từ trên đồi đồng loạt xạ kích, hạ gục tại chỗ nhiều tên. Hiến chia đội hình đánh thốc lên hai quả đồi, tạo thế cánh cung ép quân ta vào giữa. Lính câu liêm xung trận, dùng móc sắt giật vó ngựa giặc, khiến nhiều đứa ngã lăn xuống chân đồi. Ngũ Lão cho kị binh xuất kích, hai đoàn chiến mã Đại Việt từ đầu ải như hai cơn lốc ngược chiều nhau cắt ngang đội hình giặc. Họ vung đao chém như thể tiện tay mà không nhất thiết kìm ngựa đánh cố, khiến giặc hoàn toàn bất ngờ, chưa kịp đối phó thì kị binh của ta đã rút hết.

Sát Tháp Nhi Đài cùng năm ngàn quân ập đến, Ngũ Lão cho quân rút lui vào rừng, bọn kị mã thừa cơ truy kích, đến bìa rừng thì lọt vào ổ mai phục của ta, tên nỏ Đại Việt tiễn hơn trăm người ngựa Mông Thát về địa ngục. Thấy tình thế bất lợi, Sát Tháp Nhi Đài và Lý Bang Hiến thu binh, đem quân tiến về Động Bản.

Giặc vừa đi khỏi, quân ta quay lại Khả Ly lập trận địa mới. Bọn Lý Hằng ỷ thế có đội hình của Sát Tháp Nhi Đài và Lý Bang Hiến đi trước dọn đường nên có phần chủ quan, cứ nghênh ngang qua ải như vào chỗ không người. Khi hàng trăm mũi tên từ trên đồi lao vun vút xuống khiến lũ giặc hỗn loạn, Lý Hằng giật mình kinh sợ vội chỉnh đốn đội hình, dàn quân đánh thốc lên hai quả đồi. Quân ta rút vào rừng, giặc không dám đuổi theo.

Vừa qua khỏi ải đã thấy kị binh An Nam ngáng đường phía trước, Lý Hằng cậy đông quân, sấn sổ phi ngựa tới. Chiến mã hai bên đối diện nhau ở khoảng vài chục trượng.?️

Hằng cao giọng nhiếc móc:

– Ta là Vinh lộc đại phu Tham tri chính sự, Tả thừa Lý Hằng, phụng mệnh hoàng đế Đại Nguyên dẫn vài vạn quân tiên phong mở đường sang Chiêm Thành, các ngươi là bọn giặc cỏ phương nào, dám ra đây cản đường quấy nhiễu?

Phạm Ngũ Lão trợn mắt mắng trả:

– Ta là Phạm Ngũ Lão tướng Đông A chỉ huy hữu vệ Thánh Dực, chẳng cần biết các ngươi là ma quỷ xứ nào, nay đang ở trên đất ta thì sớm mà xéo về, Đại Việt không có đường sang Chiêm Thành, muốn kiếm đường thì xuống âm phủ mà kiếm.

Lý Hằng điên tiết quát lớn:

– Thằng nhãi ranh hỗn xược, có giỏi thì đánh với ta mấy hiệp.

Ngũ Lão đáp:

– Ta há sợ ngươi sao.

Hai chiến tướng hùng hổ lao vào nhau, Hằng giương xà mâu đâm thẳng, Lão vung mã đao phạt ngang, kẻ thọc người né, bên chém bên đỡ, công thủ xứng tầm, khiến ngựa đồng hạng, xem ra ngang tài ngang sức. Đánh nhau chừng năm hiệp, Ngũ Lão lựa thế vọt ngựa ra xa, rồi nói:

– Đánh thế đủ rồi, chờ dịp khác ta và ngươi đánh tiếp.

Ông vẫy tay làm hiệu, hơn ngàn chiến mã theo chủ tướng phi như bay vào rừng.

Sợ bị lọt bẫy mai phục, Lý Hằng không xua quân truy đuổi. Trận thử sức vừa rồi đủ cho hắn thấy tương đối phương không phải hạng tầm thường. Bài học ở Tà Pạc Nấm luôn nhắc nhở Hằng chớ có xem nhẹ sự trí dũng của người An Nam.

Viên Giám mã Dương Tự Quán nằm trong số hai vạn binh dưới quyền Lý Hằng hành quân ra trận. Thuộc bộ phận hậu cần, y thường ở chót đội hình và chẳng phải lo đánh đấm, nên tâm trạng lúc đầu cũng khá ổn định. Nhưng khi qua Khâu Cấp Lĩnh, nhìn cảnh tượng chiến địa ngập máu và xác chết, hồn vía của y tiêu tán cả, người ngợm run bần bật, bụng dạ thì tê cóng còn da thịt lại sốt sình sịch.

Rồi nghe tin Trấn Nam Vương cắt cử Lý Hằng làm đầu lĩnh tiên phong của cánh quân ba mươi vạn, có Sát Tháp Nhi Đài và Lý Bang Hiến làm phó tướng tả hữu trợ thủ đánh dẹp mở đường, bấy giờ Tự Quán ốm càng nặng. Mới đi qua bãi chiến trường đã rụng rời tim óc, nay phải rong ruổi tiên phong trên đất thù thì có khác nào đến hạn tận số. Y rủa trời, rủa người, rủa mình, rủa luôn cả triều đình lẫn bầy đàn tướng sĩ giả giới đánh chiếm lân bang. Rủa thầm cho bõ tức thế thôi, cái chức Chánh quản giám mã bé cỏn con của y chẳng thể làm gì cho hả giận. Riêng có một đứa, chẳng những Quán rủa xả tối ngày mà còn mặc sức đày ải.

Nông Trí Nãi là kẻ hốn khổ nhất trong đám lính nuôi ngựa dưới quyền Dương Tự Quán, việc gì nặng nhất, bẩn nhất và nhiều rủi ro nhất thì lúc nào hắn cũng được Chánh quản “ưu tiên” hàng đầu. Trên đường hành quân, cả đội quản lý năm chục xe cỏ và bầy ngựa dự bị, bọn áp tải cứ thong dong cưỡi ngựa hoặc ngồi xe, riêng hắn được giao quẩy cặp bồ đầy ắp đồ nghề chăm sóc đàn ngựa chiến. Đã gánh oằn vai, lâu lâu còn bị tạt tai đá đít, Nãi bấm bụng cam chịu, nhưng cái cảnh máu me chết chóc làm hắn hoảng loạn thật sự, đêm nào cùng nằm mê bị người chết níu tay lôi xuống một cái lỗ sâu hoắm. “Đi với ma mặc áo giấy”, Nãi đã vỡ lẽ ra nguyên do mình bị đày vào bể khổ. Huyện quan thành gã chăn ngựa, còn y thành đứa hót phân, muôn sự đều từ “chiến công” tố giác thám báo mà ra cả.

Lại nói về Sát Tháp Nhi Đài và Lý Bang Hiến. Sau khi bỏ lại cái ải Khả Ly ôn dịch cho bầy đoàn phía sau giải quyết, hai viên chiến tướng Mông Cổ dẫn quân tiến về Động Bản. Đi được nửa đường thì trời tối mịt, chúng buộc phải dừng lại nghỉ qua đêm. Cách đấy vài chục dặm, tướng Nguyễn Khoái trấn giữ Động Bản đã cho bài binh bố trận đón lõng giặc thù.

Có địa hình tương tự Khả Ly, đây là ải lũy tự nhiên cuối cùng trên con đường dẫn về Nội Bàng, nơi Trần Hưng Đạo tập kết năm vạn quân sẵn sàng nghênh chiến với giặc.

Sáng hôm sau, khi toán quân Mông Thát nhập ải quá nửa thì bất thần từ trên sườn đồi có hàng trăm quả cầu lửa bay vùn vụt như mưa sao, chạm vật cản liền vỡ bung ra, lửa văng tứ phía vào người ngựa, khiến bọn kị binh và chiến mã của chúng hoảng sợ, quẫy đạp loạn xạ để thoát thân.

Mượn ý tưởng từ trò chơi ném còn của đồng bào vùng cao, Nguyễn Khoái cho làm những quả cầu rơm tẩm dầu bó bằng lạt, được nối với một sợi dây dài để tạo lực đẩy, khi cầu bén lửa, người lính cầm đầu dây quay một vòng rồi định hướng mà vung tay nhả cầu bay về phía quân địch.

Cảnh tượng bấy giờ vô cùng hỗn loạn, giặc muốn tháo lui nhưng ở đầu ải tắc nghẽn, buộc chúng phải bỏ ngựa mà chạy dạt ra như ong vỡ tổ. Nhiều đứa bị lửa bám vào áo quần, kêu la giãy giụa váng động trời đất. Lý Bang Hiến gào thét chấn chỉnh đội ngũ rồi xua quân liều lĩnh xông lên, liền bị quân ta bắn cung nỏ chặn lại. Sát Tháp Nhi Đài còn ở ngoài ải, bèn chia quân đánh tạt sườn. Thấy tình thế bất lợi, Nguyễn Khoái phất cờ hiệu lui quân, lập đội hình chặn địch ở đầu ải.

Cho rằng quân An Nam hèn kém phải bỏ trận địa tháo chạy, Sát Tháp Nhi Đài vênh vang tự đắc, khiến quân vượt Động Bản. Chưa qua khỏi ải, đã thấy đối phương dàn quân bên ngoài, Sát Tháp Nhi Đài thúc quân giao chiến. Toán đi đầu vướng dây chằng ngang, người ngựa ngã bò lê bò càng, tức thời cung thủ của ta thẳng tay buông tiễn.

Trước đấy Nguyễn Khoái đã cho một toán cảm tử ém sẵn lối ra và chăng dây thừng sát mặt đất, khi giặc đến ngang tầm thì hai đầu dây đồng loạt nhấc lên cao, với lực giữ của ba tráng sĩ ở mỗi đầu dây đủ gạt phăng hàng chục kị mã Mông Cổ đang phi tới. Sáu chiến binh cảm tử bị giặc giết; đổi lại, họ đã góp phần hóa kiếp vài chục tên Mông Thát.

Ỷ thế đông hơn, Sát Tháp Nhi Đài đóng quân hàng mười xông thẳng vào đội hình của Nguyễn Khoái. Quân ta dạt sang hai bên rồi thắt khúc giữa, chặt hàng ngũ của quân Nguyên ra làm đôi. Do bị thua thiệt nặng, Lý Bang Hiến chuyển sang đoạn hậu, thấy đồng bọn rơi vào thế bí, bèn dẫn quân ào đến giải cứu. Quân ta khó lòng đối định, Nguyễn Khoái muốn lui binh, chợt bọn Nguyên phía sau hỗn loạn, nhìn ra thì biết Phạm Ngũ Lão dẫn quân tập hậu. Giặc đang thắng thế lại thành thất thế, phải chống đỡ trong tình trạng đầu cuối cùng thọ địch. Kịp lúc Lý Hằng dẫn hơn một vạn quân kéo đến giải vây.

Hai tướng chỉ huy Thánh Dực biết không thể kìm chân giặc thêm nữa, bèn quyết định rút quân. Kiểm đếm đội hình, ngoài số binh sĩ bị thương, quân ta có hơn năm trăm người tử trận. Trong đêm đông giá lạnh, đoàn chiến binh băng rừng vượt núi tìm đường trở về Nội Bàng, hy vọng có mặt kịp thời bên cạnh Tiết chế Đại Vương trong trận chiến sắp tới.

Bị thua thiệt đáng kể tại Khả Ly và Động Bản, bọn Lý Hằng, Sát Tháp Nhi Đài lồng lộn tức tối mà càng trở nên hung bạo. Dọc đường tiến quân, hễ gặp dân chạy loạn hay bản làng nào trong tầm mắt là lũ giặc thẳng tay áp chế. Đốt phá nhà cửa, chặt cây trồng, cướp vật nuôi, trói già đánh trẻ vô cớ, lùng bắt đàn bà con gái làm thú tiêu khiển, không việc gì chúng không làm, hễ ai phản ứng liền bị bọn ác nhân giết tại chỗ.?️

Vạn hộ Bột La Hợp Đáp Nhĩ và phó tướng là Chiêu thảo A Thâm chỉ huy cánh tay với một vạn rưỡi quân tiến đánh Khâu Ôn. Là một phần trong kế sách gọng kìm của Trấn Nam Vương, chúng có nhiệm vụ càn quét từ biên giới đến Lục Đầu Giang để nhổ sạch các cứ điểm của ta và phá thế ỷ giốc trên bàn cờ của Trần Hưng Đạo, sau đó tạo thành một mũi đột kích từ hướng tây bắc tham gia công phá địa bàn trọng yếu hàng đầu của lực lượng quân sự nhà Trần ở Vạn Kiếp.

Kế hoạch là thế, song mọi sự chẳng như ý muốn. Tại Khâu Ôn, bọn Bột La Hợp Đáp Nhĩ đã vấp phải sức kháng cự ra trò của quân dân Đại Việt. Quan trấn thủ Lạng Giang là Lương Uất, một vị hào trưởng người Tày rất được triều đình tín nhiệm, trực tiếp chỉ huy hai ngàn rưỡi lộ quân bày trận giữ ải. Ban đầu Uất dự định tử thủ Khâu Ôn, sau được lệnh của Hưng Đạo do Tuấn Thọ chuyển lời, ông thay đổi chủ ý, bàn với tiểu tướng của vương mưu kế quấy nhiễu địch.

Ải Khâu Ôn nằm sát biên giới, núi thì thấp, đường thì rộng, khó lập trận địa mai phục. Tuấn Thọ đề nghị:

– Ngài có hai ngàn rưỡi bộ binh, tôi có năm trăm chiến mã. Khi giặc đến, ngài ém quân ở sau ải, tôi sẽ dẫn quân ra khiêu chiến rồi vờ tháo chạy, chúng tất sẽ cho kị binh truy kích, đợi bọn lính bộ qua ải, bấy giờ ngài cho quân đùng cung nỏ mà diệt địch.

Lương Uất nhất trí với kế hoạch của Thọ. Vừa kịp bài binh bố trận thì quân Thát rầm rộ ập đến. Thọ dẫn năm trăm quân chặn trước ải, dõng dạc hỏi lũ phạm cõi:

– Đây không phải là đất vô chủ, các người đi đâu mà hùng hùng hổ hổ kéo qua?

Bột La Hợp Đáp Nhĩ cười nhạo:

– Tụi bay là cỏ rác mà dám ngáng đường căn vặn ta sao? Chuyến này bọn ta đến Long thành xích cổ chúa của ngươi đem về Đại Nguyên cho làm đứa hầu rượu.

Tuấn Thọ quát lớn:

– Cẩu tặc Thát Đát chớ có hỗn xược, ta mà bắt được người thì xẻo lưỡi cho chó ăn.

Bột La Hợp Đáp Nhĩ gầm ghè tức tối, sai A Thâm dẫn quân kị tiếp chiến. Viên Chiếu thảo hò kị mã ào ạt xông tới. Tuấn Thọ cho quân quay đầu tháo lui. Hơn một ngàn kị binh Mông Cổ rầm rập đuổi theo năm trăm kị sĩ Đại Việt, giặc vừa phi ngựa vừa giương cung xạ tiễn, quân ta ngồi trên mình ngựa vẫn ngoái lại dùng nó bắn trả, mỗi bên tổn thất vài chục nhân mạng. Cuộc rượt đuổi bằng ngựa vượt qua ải Khâu Ôn, Lương Uất vẫn án binh bất động.

Chủ tướng giặc thấy quân kị qua ải mà không bị phục kích, bèn giục quân tiếp bước. Chờ cho quá nửa bộ binh giặc vượt ải, bấy giờ Lương Uất mới phát lệnh tấn công. Từ các mô đất, bụi cây trên sườn đồi bật ra vô vàn tráng sĩ kiêu hùng giương cung, nỏ nhắm vào đội hình địch mà xạ kích. Bị công kích bất ngờ, Bột La Hợp Đáp Nhĩ thúc bộ binh ào lên đánh chiếm trận địa của đối phương. Quân Nguyên đông gấp mấy lần, nhưng ta ở trên cao, giặc ở dưới thấp, phần thua thiệt chúng lĩnh đủ. Sườn đồi không quá dốc, có thể khiến ngựa tấn công lên, song kị binh Nguyên còn mải mê đuổi theo kị binh Đại Việt, trong tay viên chủ tướng chỉ còn dăm chục người ngựa, nên y không dám liều lĩnh đánh bừa, cứ đứng dưới chân đồi mà ngoạc mồm hò hét.

Bọn A Thâm đuổi theo quân của Tuấn Thọ đến cánh rừng rậm rạp, chúng đang lưỡng lự nên tiến vào hay bỏ cuộc, thì nghe tiếng kêu la từ Khâu Ôn vọng tới. Sợ đồng bọn bị rơi vào ổ phục kích, A Thâm vội dẫn quân về tiếp cứu. Chớp thời cơ, Tuấn Thọ cho quân quay đầu đuổi đánh, nhiều tên giặc chậm chân bị đao mác và tên nỏ của binh sĩ nước Nam hóa kiếp.

Vị hào kiệt trấn thủ Lạng Châu thấy kị binh giặc đang kéo tới bèn cho rút quân sang sườn núi khác. Tuấn Thọ cũng dừng cuộc rượt đuổi, thu quân về chờ dịp mới. Trong trận chiến Khâu Ôn, ta chỉ mất một trăm bảy mươi binh sĩ, còn quân Nguyên thiệt hại gấp ba lần.

Lương Uất và Tuấn Thọ không để giặc được một ngày yên ổn, họ liên tục quấy rối kẻ thù, có khi tập hậu, có khi tạt sườn, đánh chớp nhoáng rồi rút nhanh chóng, khiến bọn Bột La Hợp Đáp Nhĩ thất điên bát đảo, đuổi theo không được mà đi tiếp cũng chẳng xong, cho nên khoảng cách từ Khâu Ôn đến Chi Lăng chỉ mất hơn một ngày đường mà chúng phải đi tới bốn ngày.

Lại nói về Phạm Thái và Lô Viên Dụng.

Nhận lệnh của Hưng Đạo Vương, hai chàng trai trẻ rong ruổi trên yên ngựa vừa đi vừa hỏi đường đến ngã ba Hạc thuộc trấn Tuyên Quang. Họ đi ba ngày mới tới nơi, tìm đến bản doanh của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật thì ngài lại đang lập phòng tuyến trên sông Thao gần biên giới. Huynh đệ Phạm Thái men theo bờ sông phi ngược lên vùng cao thêm hai ngày rưỡi mới gặp được vị đầu lĩnh trấn thủ Đà Giang của miền tây bắc nước Nam. Xem xong thư của Tiết chế, Chiêu Văn hứng khởi nói với các tùy tướng:

– Hưng Đạo quả là người nhìn xa trông rộng, không cần lên thực địa cũng đoán được mưu đồ của giặc. Ý của vương cũng trùng với ý của ta, bọn Thát sẽ hành binh dọc bờ sông để tiến về xuôi, việc bày trận nơi đây quả là hợp lý.

Rồi ngài quay ra nói với hai gã trai giao thư:

– Chủ của các ngươi có dặn, nếu tình hình khẩn cấp thì cho các người ở lại tham gia chinh chiến, khi nào thuận lợi sẽ trở về sau. Ý của các ngươi thế nào?

Phạm Thái đáp:

– Bẩm Đại vương, chúng tôi gắn bó một đời với các huynh đệ Vạn Kiếp, trong hoàn cảnh giặc giã sinh tử khôn lường lại không ở bên họ thì day dứt lắm.

Nhật Duật nói:

– Khá khen cho lòng trung nghĩa của các ngươi. Bây giờ trời đã tối, các ngươi hãy nghỉ lại trong trại rồi mai lên đường sớm. Lúc quay về đến Nội Bàng có lẽ cuộc chiến đã bùng nổ, việc tìm được đội ngũ hay không còn tùy thuộc vào tình hình chiến sự và duyên may của các ngươi.

Nhưng ý định trở về đội ngũ của Phạm Thái và Lô Viên Dũng đã không thực hiện được trong những ngày khói lửa nhiễu nhương của tháng chạp năm ấy. Tờ mờ sáng hôm sau, toàn quân được lệnh báo động, trinh thám cấp tập đưa tin về “Chiều hôm qua, Nạp Tốc Lạt Đinh dẫn gần hai vạn quân đã vượt qua biên giới tại Bảo Thắng quan”. Phòng tuyến của Chiêu Văn Vương cách Bảo Thắng một ngày đường, nếu giặc hành quân cả đêm thì chỉ vài canh giờ nữa chúng sẽ ở ngay trước mặt.

Thái bàn với Dụng:

– Giặc đến mà anh em ta lại bỏ đi thì hèn quá. Theo huynh, ta nên ở lại đầu quân Chiêu Văn Vương, đệ thấy sao?

Dụng đáp:

– Ở đâu cũng đánh giặc cả, chúng đã đến rồi thì phải đánh thôi. Ý của Đại Vương cũng muốn vậy mà.

Phạm Thái và Lô Viên Dụng quyết định gia nhập đội kị binh của Trần Nhật Duật. Kể từ đấy, cuộc trường chinh vệ quốc đã đưa đẩy hai chiến binh của Trần Hưng Đạo tụ nghĩa dưới cờ của Chiêu Văn Vương mà miệt mài đánh giặc khắp các chiến trường từ bắc chí ở trên ngực Thái, chiếc bùa hộ mệnh có vết đao chém chỉ còn là một dấu tích đã hóa sẹo từ bao giờ về những tháng ngày khắc khoải dấu yêu và tột cùng uất hận. nam.

Bình chương chính sự Nạp Tốc Lạt Đinh là một chiến tướng Mông Cổ lão luyện từng tham gia chiến trận ở Vân Nam và Miến Điện, tuy cấp bậc tương đương với A Lý Hải Nha nhưng không được lòng Thoát Hoan nên quyền lực bị hạn chế.

Mọi chuyện bắt nguồn từ kế sách Nam chinh của các đầu lĩnh quân sự dưới trướng Trấn Nam Vương. Một năm trước, khi họp bàn với thuộc cấp về phương án động binh, Thoát Hoan chủ trương:

– Tập trung binh lực ở các châu Tấn, Khâm, Hoành, Ung tiến đánh đông bắc An Nam, đây là hướng tấn công chính giúp giải quyết chiến cuộc trong vài tháng. Để tạo áp lực lên đối phương, cử một đạo quân nhỏ đánh vào vùng tây bắc của địch, điều quân Toa Đô, Đường Ngột Đãi từ Chiêm Thành đánh ngược lên lãnh thổ phía nam của chúng.

Các tướng đều nhất chí với kế hoạch của chủ soái, riêng Nạp Tốc Lạt Đinh có ý kiến khác, y biện giải:

– Nên dồn binh lực đến Vân Nam để xâm nhập tây bắc địch quốc. Lực lượng phòng thủ của chúng ở vùng này rất yếu, chỉ cần vượt qua vài quả núi lớn rồi men theo sông Thao tiến thẳng một lèo xuống thâu tóm khu vực hợp lưu của các con sông mà chúng gọi là ngã ba Hạc thì coi như Long thành đã ở trong tầm tay. Năm xưa, Ngột Lượng Hợp Thai đại nhân cũng tiến quân theo hướng này, chỉ mấy ngày sau đã chiếm kinh đô An Nam.

A Lý Hải Nha lên tiếng phản bác:

– Vân Nam hiểm trở, điều động mấy chục vạn quân và lương thảo lên đấy là việc rất tốn kém, có thể kéo dài nhiều năm. Trước kia tướng quân Ngột Lương Hợp Thai thống lĩnh vài vạn quân nên dễ cơ động, nay quân ta đông gấp mười lăm lần, chỉ riêng số lượng nuôi quân trong vài tháng liệu Vân Nam có lo nổi không?

Nạp Tốc Lạt Đinh bẻ lại:

– Muốn đánh nhanh thì theo đường Vân Nam là thượng sách, bấy giờ đâu cần nhiều lương. Khi ta đã sớm làm chủ man quốc thì bọn man dân phải cung phụng cái ăn cho ta. Còn đánh vào vùng đông bắc của chúng, nếu dềnh dang không xong thì có đem theo bao nhiêu lương cũng thiếu.

Là tướng lĩnh ngang cấp trong lực lượng chinh phạt, hai gã Bình chương không tránh khỏi kèn cựa đấu đá nhau, cách lý giải của chúng đều ẩn chứa chủ ý sâu xa. Nạp Tốc Lạt Đinh thông thuộc Vân Nam, nếu Thoát Hoan dùng địa bàn này làm hướng tấn công chủ yếu thì tất phải trọng dụng y, bấy giờ A Lý Hải Nha sẽ bị gạt ra rìa, chỉ còn là kẻ ngồi làm cảnh trong soái phủ. A Lý Hải Nha cũng có tâm lý tương tự nhưng ở hướng ngược lại, y từng đánh Tống khắp mấy chục châu quận miền đông nam Trung Hoa nên hiểu địa bàn như chỉ lòng tay, việc tập trung quân tại vùng này ắt phải trông cậy vào hắn, khi ấy Nạp Tốc Lạt Đinh chỉ còn là đứa rỗi việc được đi theo cho vui.

Thoát Hoan cũng chủ trương giống A Lý Hải Nha, lúc nghe Nạp Tốc Lạt Định nói xa gần về sự bất thành khi đánh vào vùng đồng bắc An Nam khiến y không hài lòng, cho đây là điềm gở miệng, nên bực dọc nói:

– Không bàn cãi nữa, ý ta đã quyết, cứ thế mà làm. Nạp Tốc Lạt Đinh muốn theo đường Vân Nam thì ta giao cho ngươi ba ngàn quân, lên đấy nếu có điều kiện thì tuyển thêm binh rồi tự mà xoay xở lấy việc của mình.

Với ba ngàn kị binh Mông Cổ làm vốn, mất gần một năm thu nhặt và tuyển dụng được vạn rưỡi lính thuộc đủ các sắc tộc ở Vân Nam, thành thử cái đạo quân gần hai vạn của Nạp Tốc Lạt Đinh tương đối ô hợp nên không phát huy được kế sách tiến nhanh đánh gon như y mong muốn. Do chẳng lập được công tích gì, lại bị thua thiệt đáng kể trong cuộc chinh phạt Đại Việt, sử sách nước Nguyên ít nhắc đến tên Nạp Tốc Lạt Đinh, còn cố tình hạ bớt vai trò của y cho đỡ ô nhục.

Theo tin tức của thám báo, Nạp Tốc Lạt Đinh tiến quân bên bờ tả ngạn sông Thao, Trần Nhật Duật đã đoán được ý đồ của chúng nên cho lập hai phòng tuyến cách nhau năm mươi dặm tại các cánh rừng và bãi đá ven sông. Lực lượng của vương có một vạn hai gồm vệ quân, lộ quân và dân binh các loại. Phòng tuyến thứ nhất với bảy ngàn quân do Chiêu Văn Vương trực tiếp chỉ huy, có các tướng trợ thủ là anh em Nguyễn Khả Lạp và Nguyễn Truyền, hai vị đầu lĩnh lộ quân vùng tây bắc. Phòng tuyến thứ hai gồm năm ngàn quân Củng Thần do Tiền điện chỉ huy sứ Trần Thông Bảo chỉ huy, có Hữu bộc Trần Thế Di giám quản.

Sáng mồng năm tháng chạp, ba ngàn quân tiên phong của Nạp Tốc Lạt Đinh do Vạn hộ Tôn Hựu chỉ huy hùng hổ kéo vào trận địa của ta. Chiêu Văn Vương phát lệnh khai chiến, từ các mỏm đá gốc cây, đội cung thủ đồng loạt xạ kích hạ gục tại chỗ nhiều tên địch. Bị đánh bất ngờ, giặc co cụm lại ở bãi đất ven sông để chỉnh đón đội ngũ. Tôn Hựu sai tiểu tướng Kỷ Bàn cầm đầu một ngàn bộ binh dùng khiên chắn tên dàn hàng ngang xông vào cận chiến, lại sai tiểu tướng Tào Vĩnh Sơn dẫn một ngàn quân bị đánh bọc sườn quân ta. Nguyễn Khả Lạp cho quân dùng câu liêm móc vó ngựa, khi giặc ngã thì lăn xả vào mà đánh. Bọn kị binh Mông Cổ khiển ngựa điêu luyện nên câu liêm của ta ít hiệu quả, các chiến binh còn bị chúng từ trên mình ngựa phạt đao tơi bời. Nguyễn Truyền đốc quân giáp trận với bộ binh giặc, quần thảo nhau dữ dội, máu thịt lênh láng cả triền sông.

Quan sát trận địa từ trên đồi cao, Trần Nhật Duật quyết định tung kị binh cứu viện. Hơn bảy trăm quân kị do Hứa Tông Đạo dẫn đầu ào đến như một cơn lốc cắt ngang đội hình địch giải vây cho Nguyễn Khả Lạp. Bọn Nguyên nhìn thấy trong đoàn kị binh An Nam nhiều người mặc y phục Tống nên có phần kinh hãi mà rơi vào thế bị động buộc chúng phải quay đầu tháo