← Quay lại trang sách

Chương 2 Mất Vạn Kiếp, Hưng Đạo giấu quân lên ngược
Đến Bình Than, Nhân Tông dụ giặc về xuôi

Khi nhận được tin cấp báo Chi Lăng thất thủ, Hưng Đạo Vương hỏi ngay:

– Quân ta tổn thất mấy phần?

Lính truyền tin đáp:

– Không kể số bị thương, quân ta mất ba phần, bảy phần còn lại rút chạy về Nội Bàng.

Hưng Đạo lẩm bẩm trong miệng “Như vậy là ba ngàn mạng người đấy”, rồi ngài sai truyền thuộc cấp:

– Điều quân hiệu thông báo gấp cho các ải Vĩnh Châu và Thiết Lược đừng cố giữ trận địa, nếu thế giặc hung hãn quá thì rút lui, tránh tổn thất lực lượng.

Không thấy Đại Vương hỏi han chuyện sống chết của người con trai út là tướng giữ ải Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện, các tướng không ngạc nhiên vì họ hiểu phẩm chất lãnh đạo của chủ soái. Hưng Trí có bảy ngàn quân, được tăng cường thêm ba ngàn quân của Lương Uất và Tuấn Thọ, nay bị giết một phần ba, sự mất mát này khiến Vương đau xót. Đối với nhà cầm quân thao lược, ngần ấy sinh mạng binh sĩ đáng giá hơn một khúc ruột thịt.

Nguyên do, được giao trọng trách trấn giữ ải Chi Lăng, Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện đầu lĩnh bảy ngàn quân chốt chặn đầu hẻm núi ở hướng bắc, sai binh sĩ khiêng đá đắp đất thành hai lớp chiến lũy chắn ngang con đường độc đạo. Nghe tin Lương Uất và Tuấn Thọ dẫn ba ngàn quân từ Khâu Ôn kéo đến tăng viện, Hưng Trí Vương mời các tướng đến quân doanh tham nghị. Mọi người sôi nổi bàn kế chống giặc, kịp lúc liên lạc đến trình mật thư của Hưng Đạo Vương, trong thư có chỉ dụ “Cản bước Mông Thát nhằm tiêu hao sinh lực địch. Không dốc sức đối đầu hoặc cố thủ tử chiến, khi tình thế bất lợi thì nhanh chóng rút lui để bảo toàn lực lượng”. Đọc xong thư, Quốc Hiện nói với các tướng:

– Phụ vương cẩn trọng quá. Không quyết liệt chặn giặc ở tuyến đầu thì khi chúng tiến sâu vào đất ta, bấy giờ sẽ khó bề đánh đuổi.

Lương Uất nói:

– Quốc công Tiết chế đã có chỉ thị, hẳn nhiên được cân nhắc kỹ lưỡng. Tại hạ cũng nhận được một lệnh của Đại Vương nên quyết không tử thủ Khâu Ôn, chỉ tìm cơ hội quấy nhiễu giặc, ngày giết ba chục tên, đêm diệt năm chục đứa, tuy lẻ tẻ nhưng gộp lại cũng làm chúng tổn thất đáng kể. Vậy ta cứ thực hiện theo kế sách của Tiết chế, vừa bảo tồn được lực lượng lại khiến giặc mất ăn mất ngủ.

Tuấn Thọ là tì tướng của Hưng Đạo Vương, vai vế nhỏ nhoi, nên chẳng dám bàn lui mà lựa lời nhũn nhặn, tránh làm phật ý Hưng Trí Vương:

– Theo tiểu nhân, lựa sức giặc không quá mạnh thì ta sẽ đánh một trận ra trò. Nhưng cũng nên lường trước kế thoái lui, đề phòng lúc nguy cấp.

Chợt thám mã cấp báo:

– Bột La Hợp Đáp Nhĩ chỉ huy một vạn năm ngàn quân, dừng binh cách Chi Lăng năm dặm.

Quốc Hiện cả cười, bảo với Lương Uất và Tuấn Thọ:

– Chúng biết không áp đảo được ta nên lưỡng lự, chưa quyết đánh. Lực lượng hai bên không quá chênh lệch, ta há sợ chúng sao? Vậy ta sẽ dàn quân cản địch ngang hẻm núi, hai người chiếm lĩnh vị trí trên cao, dùng cung nỏ khống chế đường tiến quân của giặc, khi cần thì hỗ trợ quân của ta vượt núi rút lui.

Quan Tổng trấn Lạng Giang Lương Uất và tì tướng Tuấn Thọ đành phụng mệnh thi hành tuy trong lòng mỗi người còn vương vất đôi chút băn khoăn. Theo lệnh chủ tướng, bảy ngàn binh sĩ dàn trận sau hai lớp lũy ải, chừa một khoảng cộng tám thước là của mở để đội hình kị binh xuất kích phản công. Lương Uất và Tuấn Thọ dẫn quân lên lưng chừng núi, bày trận cung nỏ đón đợi giặc thù.

Khi tiến quân đến gần Chi Lăng, A Thâm bàn với chủ tướng:

– Theo kinh nghiệm trận Khâu Ôn, thể nào bọn Nam man cũng phục binh trên núi. Ta nên tung thám báo điều nghiên địa hình, bấy giờ sẽ có cách đối phó.

Bột La Hợp Đáp Nhĩ cho là phải, bèn hạ lệnh dừng binh, đồng thời cử hai tốp thám báo bí mật luồn lách vào rừng dò la địch tình và tìm đường hướng tiến quân. Hai canh giờ sau, bọn thám mã lần lượt quay về hồi đáp. Nhóm thứ nhất cung cấp thông tin:

– Quân An Nam chừng một vạn, tập trung phần lớn sau hai ải lũy chắn ngang thung lũng. Một bộ phận nhỏ chiếm lĩnh sườn núi, mượn lợi thế trên cao nhằm bắn chặn đường tiến binh của ta.

Nhóm thứ hai trình báo:

– Địa hình Chi Lăng không quá hiểm trở. Phát hiện được lối mòn vắt qua hai ngọn núi thấp có thể dẫn quân bộ bất ngờ đánh tạt sườn bọn địch.

Vạn hộ Bột La Hợp Đáp Nhĩ mừng lắm, cho rằng trận này dễ đánh, bèn sai A Thâm tuyển lựa ba ngàn chiến binh Nữ Chân giỏi sơn chiến âm thầm luồn rừng vượt núi bí mật áp sát trận địa đối phương, hẹn một canh giờ sau khởi sự.

Giữa giờ thân, khi bóng chiều nhạt nhòa trên vùng cao u tịch, bỗng nhức nhối tiếng hò la của đoàn chiến binh Mộng Thát. Quân Nguyên tiến như vũ bão qua ải Chi Lăng, bất chấp phía trước có tường lũy sừng sững chắn lối. Đợi cho giặc vào tầm tên bắn, Hưng Trí Vương phát lệnh xạ kích. Hàng ngàn mũi tên từ trên cao dội xuống, từ mặt đất bay ngang, xé gió phóng thẳng vào đội hình quân địch. Giặc đồng loạt giương mộc đỡ tên, tay khiến tay giáo, hùng hổ lao lên chiếm lũy. Quân của Quốc Hiện ra sức kháng cự, dùng mã tấu đối chọi với giáo dài, quyết liệt cận chiến.

Hưng Trí Vương dẫn đầu đoàn kị binh, vượt qua cửa mở, xông thẳng vào đội ngũ quân Nguyên để cản bước tiến của chúng. Thấy bọn bộ binh bị đánh dạt khỏi chiến lũy, Bột La Hợp Đáp Nhĩ chỉ huy kị binh Mộng Thát ồ ạt vào trận. Hai bên kịch chiến dữ dội trong một khoảng không chật hẹp của lũng núi, xác người ngựa chồng chất lên nhau, máu thịt đỏ lòm làm ngập ngụa mặt đất. Trong cơn say chém giết lại gặp đối thủ ngang tài ngang sức, Hưng Trí Vương lẫn Bột La Hợp Đáp Nhĩ chẳng hề có ý định lui binh.

Chợt trên sườn núi dội vang tiếng gào thét, ngước nhìn lên thấy quân của Lương Uất và Tuấn Thọ đang kịch chiến với bọn Mông Thái, biết giặc bất ngờ tập kích, khiến thế trận của ta khó bề chống đỡ, Quốc Hiện xuống lệnh rút quân về tuyến sau. Giặc chiếm lũy đầu rồi ào lên đánh lũy kế tiếp.

Lương Uất và Tuấn Thọ chỉ huy đội ngũ sơn cước từ trên cao dùng cung nỏ diệt quân Nguyên, trợ chiến cho binh lực của Quốc Hiện đang quần thảo sinh tử với giặc. Vị thủ lĩnh Lạng Giang chỉ thị binh sĩ “Nhắm thẳng từng đứa, chắc ăn mới bắn. Tránh bắn nhầm quân ta”. Những mũi tên tẩm độc của chiến binh miền núi hóa kiếp vô số kẻ địch đang hăng máu đánh chém. Khi lũ đột kích do A Thâm chỉ huy bất ngờ xuất hiện, Lương Uất và Tuấn Thọ vô cùng kinh hoàng, vội hò quân buông cung nỏ, dùng đao kiếm kháng cự. Bọn người Nữ Chân thiện chiến lại có ưu thế ở trên cao, đánh bật quân ta khỏi trận địa. Bị dồn ép xuống núi, các tướng quyết định lui binh, nhập vào đội ngũ của Quốc Hiện bấy giờ đã rút về tuyến sau.

Thấy tình thế bất ổn, biết khó bề giữ được ải lũy thứ hai, lợi dụng trời nhá nhem, Hưng Trí Vương dẫn quân tháo chạy khỏi Chi Lăng. Bột La Hợp Đáp Nhĩ thừa cơ đuổi đánh, quân ta bị tổn thất thêm nhiều sinh mạng. Trong trận chiến đẫm máu ấy, hơn ba ngàn chiến binh Đại Việt đã bỏ mình vì nước.?

Khi tiến sâu vào nội địa nước ta, vấn đề lương thực trở thành ưu tiên hàng đầu đối với bộ máy chiến tranh Mông Thát. Hàng vạn phu kết hợp với ngựa và thuyền vận chuyển ròng rã cả tháng trời cũng chỉ đưa ra mặt trận được hai phần ba trên tổng số mười lăm vạn thạch. Thông thường các đạo quân đánh tới đâu thì lập kho lương đấy, tùy theo quan nhiều ít mà làm kho lớn nhỏ. Mười ngày một lần nhà kho cấp lương cho các đơn vị, từ đơn vị lớn lại rót xuống đơn vị nhỏ. Hiểu rõ tầm quan trọng của việc đảm bảo cái ăn cho hơn ba chục vạn khẩu, Thoát Hoan thường xuyên nhắc nhở thuộc hạ canh gác cẩn mật các đoàn xe và kho lương. Để bổ sung thêm lương thực dự trữ, quân Thát tăng cường vơ vét của dân chúng mà không từ bất cứ một cái gì có thể ăn được. Song chủ trương “vườn không nhà trống” của triều đình đã hạn chế tối đa tác hại cướp bóc của giặc.

Mục tiêu của Mông Thát bấy giờ là Nội Bàng. Trấn Nam Vương cùng các tướng lĩnh quyết định chia quân làm sáu mũi bao vây tiêu diệt lực lượng của Trần Hưng Đạo phòng thủ ở đấy. Nếu đánh tan đạo quân của Tiết chế nước Nam, chúng sẽ dồn Đại Việt vào tình thế bất khả kháng mà sớm buông giáo quy hàng, chậm nhất vào giữa tháng giêng năm Ất Dậu. Để chuẩn bị cho cuộc đại công kích, giặc tập kết một vạn rưỡi thạch lương áp sát chiến trường, đảm bảo cái ăn cho ba mươi mấy vạn quân trong mười ngày trước mắt. Ban đầu Thoát Hoan dự kiến mở màn trận đánh vào ngày hai mươi hai tháng chạp, song kế hoạch của y bị đảo lộn hoàn toàn chỉ vì một tai họa xảy ra bất ngờ, mà cho đến tận sau này người ta vẫn không biết đích xác nguyên do từ đâu?

Trước ngày tổng tấn công, Thoát Hoan đang họp bàn với tướng lĩnh trong bản doanh ở Biến Trú, vốn là một làng của người Việt mà dân chúng đã đi lánh nạn hết, thì nghe cấp báo kho lương bị hỏa thiêu. Y nổi cơn thịnh nộ, sai điệu bọn quản kho đến để hạch tội. Ba tên chánh, phó kho vận bị lôi xềnh xệch đến quân doanh, quỳ mọc dưới sảnh mà kể lể đầu đuôi:

– Kho thiết lập ở chỗ quang đãng nên gian tế khó đột nhập, số lương được cất trong mười lều, mỗi lều cách nhau ba trượng để tránh hỏa hoạn. Bọn tiểu nhân cho canh phòng rất nghiêm cẩn, ngày đêm đều có ba đội bảo vệ, ngoài cùng là hai trăm kị mã luân phiên tuần tiễu, lớp giữa có ba trăm quân lập rào chắn kiểm soát bốn hướng, trong cùng là một trăm lính dưới quyền luôn túc trực trước kho. Vậy mà lúc trời sẩm tối tự nhiên cả mười lều bốc cháy dữ dội.

Thoát Hoan hỏi:

– Có cứu được phần nào không?

Chúng thưa:

– Chỉ cứu được chừng hơn ngàn thạch.

Thoát Hoan lại hỏi:

– Có phát hiện được kẻ gian không?

Chúng đáp:

– Không bắt được kẻ nghi vấn nào. Đến con chim bay qua cũng khó lọt nên chắc không phải do người của đối phương đốt.

Thoát Hoan tốc tối gầm lên:

– Vì bất cứ lý do gì mà để kho cháy sạch thì các ngươi cũng đáng tội chết. Chiếu theo quan pháp phải xử trảm. Đạo phủ đâu, đem chúng đi chặt đầu làm gương cho kẻ khác.

Ba đứa trông kho bị lôi ra ngoài hành quyết. Thoát Hoan hỏi thuộc cấp:

– Các cánh quân còn lương ăn mấy ngày?

A Lý Hải Nha nói:

– Lương ăn chỉ còn hai ngày. Ngày mốt là tới hạn cấp phát mới.

Thoát Hoan lại hỏi:

– Bọn vận lương bao giờ đến nơi?

Khoan Triệt trả lời:

– Nhanh thì bốn ngày, muộn thì phải năm ngày mới có lương bổ sung.

Thoát Hoan ngẫm nghĩ một lúc rồi ra lệnh:

– Tạm dừng tấn công, chờ xe lương đến sẽ quyết sau. Đốc thúc bọn vận lương nhanh chân lên. Số lượng còn lại ưu tiên trung quân. Bị đói ba ngày thì binh sĩ sẽ bạc nhược mà sinh biến, vậy các tướng hãy tự xoay xở cái ăn cho quân của mình, phải điều người lùng sục vào các bản làng thu gom lương thực, nơi nào có người ở là có cái ăn, nếu chúng không giao nộp thì đốt nhà và giết bỏ dăm đứa ắt sẽ lòi ra chỗ cất giấu.

Lý Hằng đề nghị:

– Nếu Quốc Tuấn biết ta thiếu lương sẽ thừa cơ tiến đánh. Chi bằng đại vương cử người đem thư cho hắn tỏ ý không muốn giết chóc mà chỉ muốn mượn đường sang Chiêm. Bấy giờ Quốc Tuấn sẽ không chút mảy may nghi ngờ tình trạng cạn lương của ta.

Thoát Hoan mừng ra mặt:

– Kế này hay đấy. Sáng mai cho tiến hành gấp.

Ai là người đốt kho lương của quân Thát? Chẳng có bất cứ thông tin nào về chuyện này, duy có lời đồn râm ran trong đám quân Hán tộc nhưng không thể kiểm chứng về một tên lính tuần kho bị trọng thương trong trận Nội Bàng vốn có cha bị quân Thát giết hại, trước khi lìa đời đã trăn trối với thằng bạn cùng quê “Thù trả rồi, chẳng tiếc nuối gì nữa. Khi gặp mẹ tao, bảo với bà rằng tao đã đốt...”. Nói đến đây thì tên lính tắt thở.

Các cánh quân đã kéo về tăng cường phòng thủ Nội Bàng, quân số của Hưng Đạo Vương từ năm vạn tăng lên tám vạn, song phía trước là hơn ba mươi vạn quân Mông Thát hung hăng và sung sức. Vương họp bàn với các tướng lĩnh, ngài cho rằng:

– Cố thủ Nội Bàng là hạ sách, nhưng chưa đánh đã rút cũng không phải thượng sách, bấy giờ sĩ khí quân ta sẽ sút kém, còn giặc lại ỷ thế mà hung tợn hơn. Song nhất quyết không đánh đến chết, phải lấy đoản binh chế trường trận, quấy rối giặc khắp mọi hướng, một cú mổ của chim cắt không thể giết chết mãnh hổ, nhiều cú mổ của bầy chim cắt cũng khiến chúa sơn lâm trầy da tróc thịt, tinh thần hao tổn, sức lực giảm sút.

Thám báo truyền tin về cho biết giặc dừng quân ở Biến Trú mà chưa có động tĩnh gì thêm. Hưng Đạo có vẻ ngạc nhiên, không biết địch đang mưu mô gì đây? Sức giặc như chẻ tre, lực lượng của ta yếu hơn hẳn nên buộc phải rời bỏ các cứ điểm phòng thủ để bảo toàn lực lượng, thế trận liên hoàn đã vỡ, tại sao giặc không thừa thắng đánh tới mà lại dùng quân đột ngột? Ngài đang suy đoán ý đồ của đối phương thì quân hầu bẩm báo có người bên Nguyên đem thư sang. Hưng Đạo tiếp thu, đọc xong rồi sai đuổi người liên lạc của giặc về mà không thèm phúc đáp. Quốc Nghiễn hỏi:

– Thư viết gì vậy cha?

Hưng Đạo đứa thứ cho con trai, bảo đọc to cho mọi người cùng nghe. Trong thư có đoạn viết “nay quân của ta và vương đã đánh nhau nhiều ngày khiến hai bên cùng thiệt hại. Điều ấy khiến ta không cam lòng nên muốn tìm một cách giải quyết cho êm đẹp để tránh nạn đầu rơi máu chảy, sinh linh đồ thán. Nếu vương đồng ý giãn binh, ta cam kết chỉ tiến quân dọc bờ biển để tới Chiêm Thành, dứt khoát không đem quân đánh chiếm Long thành của bản quốc. Nhằm bày tỏ thiện chí, ta quyết định dùng binh ít ngày đợi phản hồi của vương”.

Các tướng đều tỏ thái độ giận dữ, cho rằng Thoát Hoan bày trò lừa phỉnh để dàn dựng mưu kế gì đó. Việc không trả lời thư là đúng, vừa khiến hắn ngầm hiểu ta không chấp nhận giãn binh, vừa buộc chúng phải đoán mò ý đồ của ta.

Nguyễn Khoái đề nghị:

– Nhân cơ hội quân Thát co cụm nằm chờ, ta nên đánh úp vào trại của giặc.

Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng can ngăn:

– Không nên. Đây chính là mưu mô của Thoát Hoan dụ ta đánh lén, tất chúng đã ém quân mai phục.

Hưng Trí Vương Quốc Hiện lên tiếng:

– Con xin một vạn quân đến Biến Trú khiêu chiến để xem phản ứng của giặc thế nào?

Hưng Đạo không chấp nhận:

– Ngươi đừng nôn nóng lập công để sửa cái lỗi thiệt quân ở Chi Lăng. Cánh quân ở Biến Trú có hơn mười vạn, người khiêu khích được sao?

Phạm Ngũ Lão nêu ý kiến:

– Thưa nhạc phụ, theo con ta cũng tạm thời án binh bất động, tranh thủ sửa sang hào lũy và chỉnh trang vũ khí.

Hưng Đạo nói:

– Đúng vậy. Không nên mắc mưu giặc mà tổ chức đánh lén. Ta cũng có thêm thời gian đợi quân của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dự từ Vân Đồn kéo về.

Thám báo của ta hoạt động chủ yếu tại tiền phương của địch nên không nắm được thông tin về trận hỏa hoạn thiêu cháy phần lớn kho lương của chúng. Hưng Đạo Vương đã bỏ lỡ một thời điểm quý giá có thể làm tiêu hao đáng kể sinh lực địch khi nhân cơ hội phản công đạo quân đang thiếu đói.

Lại nói về Trần Khánh Dư. Từ lúc chiến tranh bùng nổ, ông chưa đánh trận nào nên trong lòng bứt rứt lắm. Nhận trách nhiệm trấn thủ Vân Đồn, Khánh Dư hiểu rõ tầm quan trọng của cửa ngõ đông bắc án ngữ đường biển thông thương với thế giới bên ngoài, song đội thuyền chiến Mông Thát đã không qua địa bàn của ngài để thâm nhập vào lãnh thổ Đại Việt.

Tiếp thư của Hưng Đạo, Khánh Dư rất phấn chấn, bèn cắt cử phó tướng Lâm Tuệ chỉ huy một ngàn rưỡi quân bảo vệ Vân Đồn, còn ông dẫn hơn năm ngàn quân kéo về Nội Bàng tiếp ứng.

Tiết chế ra ngoài quân doanh đón Khánh Dư, hai vương chỉ kịp chào hỏi xã giao vài câu chiếu lệ rồi vội vã kéo vào đại sảnh họp bàn quân cơ.?️

Hưng Đạo nói:

– Nhân Huệ ở xa về chưa nắm được tình hình, ta sơ lược qua để vương rõ, thám báo vừa truyền tin, quân Nguyên chia làm sáu đội hình dự kiến công phá Nội Bàng sớm mai. Binh lực của chúng gấp bốn lần ta, sức giặc rất mạnh nên không thể khinh suất, tránh dàn trận đối đầu quyết tử mà chỉ cần quấy nhiễu tiền quân, thọc sườn trung quân, chặt đuôi hậu quân của địch, nếu tình thế bất lợi là rút liền, khi cấp thiết ta chấp nhận bỏ Nội Bàng đem quân về Vạn Kiếp.

Chí khí đang hăng, Khánh Dư có ý kiến khác:

– Sức giặc mạnh thì ta chớ chia quân đội đầu cả sáu đội hình tấn công, Tiết chế Đại vương nên tập trung quân tiêu diệt vài mũi tiến quân của địch, như vậy sẽ hiệu quả hơn.

Hưng Đạo đáp:

– Ta cũng từng nghĩ đến phương án này, song dù có tập trung quân đánh vào vài đội hình của giặc thì quân của chúng vẫn đông hơn ta, chưa kể các cánh quân Mông Thát khác được rảnh tay sẽ luồn sâu tập hậu, gặp tình cảnh trên đe dưới búa, quân ta tất thảm bại.

Bấy giờ Khánh Dư mới thông suốt chủ ý của Hưng Đạo, bèn hỏi:

– Vậy Tiết chế định cắt cử Dư mỗ nghênh chiến với bọn nào?

Hưng Đạo trình bày:

– Ở hướng đông bắc, Minh Hiến Vương Uất chặn bọn Sát Tháp Nhi Đài, Hưng Nhượng Vương Tảng đối phó với bọn Lý Hằng. Ở hướng bắc, Nhân Huệ hãy nhận lãnh trách nhiệm đón đầu bọn Khoan Triệt, ta cùng với Nguyễn Khoái và Phạm Ngũ Lão chặn bọn Thoát Hoan. Ở hướng tây bắc Hưng Vũ Vương Nghiễn tiếp chiến bọn A Lý Hải Nha, Hưng Trí Vương Hiện đối đầu với bọn Bột La Hợp Đáp Nhĩ. Vương chỉ có nửa ngày để điều quân áp sát trận địa, ta tăng cường thêm cho bốn ngàn quân của vệ tả Thiên Chương do Phó tướng Đặng Trứ và Tả bộc Lưu Văn Các chỉ huy, hy vọng ngài bảo trọng.

Không một chén rượu tiễn, họ nắm chặt tay nhau như truyền thêm ý chiến đấu cho người đồng đội vong niên. Trên đường trở về đội ngũ, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư thật sự tin rằng oán cừu năm xưa giữa hai nhà đã hoàn toàn xóa sạch.

Rạng ngày hai mươi sáu tháng chạp, một dãy núi rừng đông bắc rung chuyển bởi gót sắt Nguyên Mông. Chiến tuyến hình móng ngựa dài hơn bảy mươi dặm vang dội tiếng hò la của đủ loại ngôn ngữ thuộc nhiều dân tộc trên thế giới. Kị binh mở đường, bộ binh tiếp bước, sáu mũi nhọn tiến công cùng hướng đến Nội Bàng hòng bóp chết chủ lực của Đại Việt và bắt sống bộ sậu của Hưng Đạo Vương trong ngày một ngày hai.

Đạo quân của Sát Tháp Nhi Đài tiến vào trận địa của Minh Hiến Vương Uất mà không gặp súc kháng cự nào. Viên chiến tướng Mông Cổ dẫn đầu đội kị binh ồ ạt dốc thẳng đến Nội Bàng. Khi bọn cưỡi ngựa quá tầm mắt, Trần Uất phát lệnh tấn công, quân ta từ các sườn đồi dùng cung nỏ xạ kích vào giữa đội hình bộ binh của chúng. Quân Nguyên tổ chức phản công lên đồi, Uất tung kị binh đánh chặn, hất lũ giặc xuống chân đồi. Thấy quân hiệu từ trên cao phất cờ báo động, biết Sát Tháp Nhi Đài đem kị binh quay về giải cứu đồng bọn, Minh Hiến cho rút quân. Kị binh ta mất hút sau cánh rừng rậm rì, còn quân ở trên cao cũng vượt đồi tránh đòn phản công của giặc. Sát Tháp Nhi Đài hận lắm, nửa ngày trời không tiến được năm dặm, y quyết định tung ba ngàn kị binh càn quét xung quanh nhằm loại trừ nguy cơ bị tập kích bất ngờ.

Cánh quân tiên phong của Lý Hằng do Lý Bang Hiến đầu lĩnh đụng độ với vài trăm quân của Trần Quốc Tảng trên khúc sông Lục Nam cách Bãi Tân chừng mười dặm. Quân bộ của Tảng tháo chạy xuống bờ sông được mấy chục chiếc thuyền đợi sẵn chở ra giữa dòng. Tảng và hơn chục kị sĩ quất ngựa phi dọc bờ sông về hướng hạ lưu. Hiến xua quân đuổi theo, hí hửng phen này tóm sống con trai của Trần Hưng Đạo.?️

Đuổi đến bãi lau sậy ngút ngàn, vì hăng máu lập công nên bọn kị binh Mông Cổ lao thẳng vào ổ phục kích của quân ta. Gần hai ngàn chiến binh cung nỏ xuất kỳ bất ý trỗi lên từ cây cỏ đồng loạt triệt hạ đám kiêu binh Thát Đát. Ba trăm kị binh Đại Việt cùng ngựa bật dậy theo chủ tướng Hưng Nhượng Vương truy sát địch. Lý Bang Hiến bị tên bắn xuyên chỏm mũ, vội dẫn quân quay đầu tháo chạy. Bấy giờ đoàn thuyền đã cập bờ nhả quân, các chiến binh dùng câu liêm giật vó ngựa giặc khiến chúng tổn thất nặng nề. Chợt nghe tiếng rầm rập từ xa vọng lại, đoán bọn Lý Hằng kéo đến tiếp ứng, Trần Quốc Tảng cho lui binh.

Lý Hằng không dám tung quân đuổi theo, còn trách Lý Bang Hiến chủ quan khinh địch, y nói:

– An Nam lắm sông ngòi, chớ có lai vãng gần sông, kẻo nguy khốn với chúng.

Y cho quân rời xa dòng Lục Nam, nhằm hướng đồi núi mà tiến. Lý Hằng không thể ngờ cách đầy mười mấy dặm có hàng trăm chiến thuyền của Đại Việt đậu san sát ven bờ đợi chuyển quân khi tình thế bất lợi.

Trên hướng do Trần Khánh Dư chốt chặn, hơn tám ngàn quân của ta phải đương đầu với ba vạn quân của Khoan Triệt. Nắm rõ chủ trương của Quốc Tuấn, Nhân Huệ Vương không tung quân tác chiến trực diện mà ra đòn tập kích vào hậu quân của giặc. Dẫn năm trăm kị binh chặn đường khiêu chiến địch, vương cưỡi ngựa ô, khoác chiến bào tía, tay cầm long đao đứng trước hàng quân, dõng dạc quát hỏi:

– Ta là Phiêu kị tướng quân Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, muốn biết kẻ cầm đầu đám lính nửa người nửa ngợm kia là ai, mau mau xưng tên kẻo bị giết chết cũng vô danh như bọn tiểu tốt.

Khoan Triệt phi ngựa tới, dừng lại cách Khánh Dư nửa tầm tên, đáp trả:

– Chiến tướng Khoan Triệt lừng danh Mông Cổ là ta. Bầy ruồi nhặng chớ có vo ve, kẻo chết không kịp ngáp.

Khánh Dư khích bác:

– Nhìn tướng mạo của ngươi còm nhom, nghe nói võ nghệ cũng tầm thường, chắc không dám đơn đả độc đấu mà thích dùng chiêu ở đông hiếp yếu, lấy thịt đè người để che mắt thiên hạ.

Khoan Triệt lông lên, phi ngựa xông tới:

– Thằng An Nam hỗn xược, hãy nếm thử ngọn kích của ta.

Khánh Dư xách đao thúc ngựa lao vào tiếp chiêu. Hai người quần thảo được mười mấy hiệp, đao kích đụng độ tóe lửa mà xem ra khó phân thắng bại. Chợt nghe thấy tiếng hò reo vọng tới, đoán hậu quân bị đối phương tập kích, Khoan Triệt phóng ra xa, kìm ngựa rồi nói:

– Ngươi đang bày trận nghi binh. Ta tạm ngưng cuộc đấu ở đây.

Khánh Dư cười vang, kiêu hãnh đáp:

– Ha, ha, ha... Rừng nào cọp nấy, ngươi hãy nhớ kỹ điều này.

Đoàn kị binh Mông Cổ quay đầu trợ chiến tuyến sau. Khánh Dư cũng dẫn quân băng rừng tiếp ứng cho các đơn vị đang quấy rối hậu quân địch.

Cánh trung tâm của Thoát Hoan có tới mười vạn quân. Cậy binh đông tướng mạnh, lũ Nguyên Mông tràn vào Nội Bàng như một trận cuồng phong hung bạo. Quân của Hưng Đạo chưa đầy ba vạn, không thể đương đầu với địch, Vương quyết định rút khỏi cứ địa, chia quân làm ba cánh nhằm chỗ yếu của địch mà công kích. Phạm Ngũ Lão dẫn quân cắt ngang đội hình giặc, sau một trận giáp chiến tơi bời liền cho quân rút nhanh vào rừng. Nguyễn Khoái dùng binh tập kích hậu quân địch, thiêu rụi mười mấy xe lương, giết vài trăm tên quân vụ rồi lại mất hút sau dãy núi mù sương.

Trần Hưng Đạo cho gia tướng Tuấn Thọ và Nguyễn Hòa dẫn kị binh ra khiêu khích, Thoát Hoan sai Mãng Cổ Thái đem quân nghênh chiến. Hai bên loạn đả dữ dội. Quân Đại Việt yếu thế phải tháo chạy, Mãng Cổ Thái hò quân truy sát. Đuổi đến một khe suối hẹp, đội kị binh của Tuấn Thọ và Nguyễn Hòa vượt khe vọt thẳng vào rừng. Quân kị Mông Thát ào ào thúc ngựa tràn qua. Thời cơ đến, hàng trăm chiến binh của Nguyễn Địa Lô từ sau các gốc cây giương nỏ diệt bọn kị mã đang loay hoay vượt suối. Mãng Cổ Thái vội vã thu binh, bỏ lại hơn năm chục xác lính kị thiện chiến.

A Lý Hải Nha dẫn năm vạn tinh binh từ hướng tây bắc tiến vào trận địa phòng thủ của Hưng Vũ Vương Nghiễn chỉ với quân số hơn một vạn người. Lực lượng của ta quá chênh lệnh so với địch, buộc Quốc Nghiễn phải dựng chiến lũy để cản bước quân thù. Những lũy đất đá được dựng chi chít trên đường tiến quân của chúng, đằng sau mỗi mô đất là hàng trăm cung thủ ẩn mì chờ địch. A Lý Hải Nha dùng bộ binh công lũy và tung kị binh đánh bọc sườn trận địa của ta. Hàng vạn quân Thát ào lên tấn công bị cung nỏ của ta bắn chặn, chúng dùng khiên mộc đỡ tên lại bị quân ta bắn bùi nhùi lửa, buộc giặc phải tháo lui. Bọn kị binh men theo sườn núi tập kích liền bị quân mai phục trên núi lăn đá cản đường. Song sức thù quá mạnh, chúng lần lượt chiếm từng chiến lũy, quân ta không cận chiến mà rút lui về chiến lũy sau. Cho đến chiều ngày hai mươi sáu, bọn A Lý Hải Nha vẫn còn phải đánh dẹp năm lũy phía trước mới có thể tiến vào Nội Bàng ở cách đây chỉ mười hai dặm. Trời mùa đông tối sớm, hai bên đành ngưng chiến, giữ vững vị trí và chuẩn bị cho trận đánh ngày mai.

Sáng hai mươi bảy tháng chạp, giặc Nguyên ào ạt tấn công đánh chiếm mấy ải lũy cuối. Song đối phương đã bỏ ngỏ trận địa, họ rút đi trong đêm mà chúng không hay biết. A Lý Hải Nha tiến vào Nội Bàng như một cuộc dạo chơi. Thoát Hoan đã chiếm Nội Bàng từ đêm qua, bọn Khoan Triệt, Lý Hằng và Sát Tháp Nhi Đài cũng đã ở đấy. Viên Bình chương có phần hổ thẹn, nhưng vẫn cố bào chữa cho sự chậm trễ của mình:

– Bẩm đại vương, cánh quân của tại hạ đánh một trận dữ dội với bọn An Nam. Chúng cố thủ trong các chiến lũy chống trả quyết liệt, buộc tại hạ phải ra đòn sấm sét diệt sạch tám ngàn địch quân, trong khi ta chỉ mất hơn bảy trăm binh sĩ.

Thoát Hoan nói:

– Khá khen cho Bình chương, tổn thất chua bằng một phần mười đối phương là lập đại công rồi đó.

A Lý Hải Nha có vẻ đắc chí, chẳng những không bị chê trách còn nhận được lời khen ngợi của chủ soái. Khoan Triệt nói nhỏ với Lý Hằng “Hải Nha phô trương quá đáng. Quân An Nam đâu dễ ngồi yên để cho y ra tay tàn sát”.

Sau khi rút về Vạn Kiếp, Hưng Vũ Vương cho kiểm đếm quân số. Thuộc hạ báo cáo “Quân ta thương vong bốn trăm ba mươi người”.

Hưng Trí Vương Hiện đem quân chặn đường bọn Bột La Hợp Đáp Nhĩ cách Nội Bàng tám mươi dặm. Rút kinh nghiệm trận thất thủ Chi Lăng, Hiện tung các toán du binh vài ba trăm người, bất ngờ đột kích vào đội hình giặc, không nhất thiết tiêu diệt địch, chủ yếu quấy rối làm cản bước chúng tiến về đích. Hết toán này đến toàn khác, xuất hiện bất kỳ, bắn vài trăm mũi tên, giật ngã vài chục vó ngựa rồi lại rút nhanh vào rừng núi. Đoàn quân của Bột La Hợp Đáp Nhĩ bị xoay như chong chóng, hết đỡ chỗ này lại và chỗ kia, thành thử sang ngày hai mươi chín tháng chạp chúng mới đến được Nội Bàng. Bấy giờ cứ địa chẳng còn một mống quân Nguyên, đại binh của Thoát Hoan đã tiến đánh Vạn Kiếp từ ngày hôm trước.?

Lại nói khi Thoát Hoan kéo vào Nội Bàng, thu được một đồn trại trống rỗng. Y cho quân sục sạo khắp nơi bắt được một người đàn ông trạc ngoài năm mươi tuổi. Bị tra khảo, người này xưng tên là Đoàn Thai, chức tước nhỏ nhoi, tuổi cao sức yếu, do ốm nặng nên không thể rút chạy cùng mọi người. Thoát Hoan mừng lắm, bèn sai đóng cũi áp giải sang Nguyên như một bằng chứng về chiến thắng lẫy lùng đập tan sào huyệt của đầu lĩnh quân đội An Nam là Trần Quốc Tuấn. Hắn không quên viết biểu gửi triều đình làm cứ liệu cho quốc sử Đại Nguyên ghi nhận công trạng. Lúc bị giải đi, Đoàn Thai cười lớn, mà rằng “Bủa lưới trùng trùng chỉ bắt được một con cá nhỏ ốm tong teo mà đã coi là đại công. Nước Việt lắm kình ngư, bắt không nổi có ngày còn bị bục lưới”.

Từ trên núi cao quan sát tình hình chiến địa, nhận thấy việc giằng co với địch ở Nội Bàng không đem lại hiệu quả thiết thực, Hưng Đạo Vương quyết định di tản toàn bộ lực lượng về Vạn Kiếp. Quân hiệu tỏa đi các hướng, thông báo cho các tướng lĩnh ngoài mặt trận khẩn trương hành quân trong đêm, tránh kinh động giặc.

Tại cánh quân trung tâm, gần ba vạn quân của Quốc Tuấn chia làm hai ngả rút lui. Số đông vượt núi băng rừng nhằm hướng tây nam mà đi, hơn vạn quân rút theo đường thủy bằng hàng trăm chiến thuyền từ Bãi Tân xuôi dòng Lục Nam.

Ban đầu Vương dự định đi đường bộ, Dã Tượng bèn can gián:

– Theo đường núi phải mất ba ngày, theo đường thủy chưa đầy một ngày là Đại Vương đã đến Vạn Kiếp. Đi đường bộ thì giặc có thể dùng ngựa truy kích, đi đường thủy thì giặc không có thuyền để đuổi theo.

Hưng Đạo nói:

– Ta sợ rằng ra đến Bãi Tân thuyền đã rút hết, bấy giờ biết tính sao?

Dã Tượng đáp:

– Yết Kiêu chưa thấy Đại Vương tất chưa rời thuyền đi chỗ khác.

Hưng Đạo hào hứng nói:

– Vậy còn chần chừ gì nữa. Ta đi thôi.

Vương và gần chục gia binh phóng ngựa đến Bãi Tân. Quả nhiên thuyền của Yết Kiêu vẫn đậu tại bến nước trống trải chờ đợi chủ soái của mình. Vương hỏi:

– Binh thuyền của ta đi lâu chưa?

Yết Kiêu đáp:

– Chiếc cuối cùng rời bến một canh giờ trước.

Vương lại hỏi:

– Có chở hết quân không?

Yết Kiêu đáp:

– Không bỏ sót một người nào.

Khi thuyền của Yết Kiêu ra đến giữa dòng thì một toán kị binh Mông Thát ập tới. Chúng đứng trên bờ bắn dăm chục mũi tên, tất cả đều rơi tõm xuống nước. Đám gia binh trên thuyền cười ầm lên, bảo rằng “Giặc bắn tên tiễn biệt Đại Vương đấy”.

Phần lớn quân đã hội về Vạn Kiếp, duy Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện chưa thấy trình diện, Hưng Đạo cử thám báo đi dò la tình hình. Ngày hôm sau, trinh sát cấp báo “Cánh quân của Hưng Trí vẫn bảo toàn lực lượng, do quấy phá liên tục đội hình của Bột La Hợp Đáp Nhĩ nên việc rút quân bị chậm trễ, hiện đang trên đường trở về”, vương mỉm cười hài lòng với kết quả cầm chân giặc của đội quân do người con trai út chỉ huy.

Lúc bấy giờ, ngoài lực lượng quân sự, Vạn Kiếp không còn dân thường. Người dân chôn giấu tài sản, vận chuyển lương thực vào rừng sâu ẩn náu, gia quyến của các vương hầu chạy lên núi, trốn trong các hang động cách xa đường tiến quân của giặc. Thiên Thành và các thị nữ sống tại mấy căn chòi lá ở một địa điểm bí mật trên núi Chí Linh, Hưng Đạo Vương gửi thư cho bà, trong thư có đoạn viết “mấy cha con vẫn bình yên vô sự. Thế giặc đang mạnh, chúng sẽ đánh Vạn Kiếp trong nay mai. Phu nhân hãy an lòng mà ở tại chỗ, chớ có quay về vì bất cứ lý do gì. Không lâu đâu, giặc sẽ tan, bấy giờ tôi sẽ vào tận núi đón bà tái hồi thái ấp..”. Phu nhân đọc xong thư của chồng, mỉm cười lẩm bẩm “Ta cũng vui lây vì tinh thần lạc quan của vương đấy”.

Ba ngày liên tiếp, quân từ các xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà Hương, Yên Sinh, Long Nhãn nườm nượp đổ về Vạn Kiếp. Trong lực lượng bổ sung có nhiều tân binh mới nhập ngũ. Người dân không cam chịu cảnh nước mất nhà tan, khắp một vùng đông bắc, từ làng trên xóm dưới những đinh điền có thể cầm vũ khí đều lên đường tòng chinh. Hưng Đạo cả mừng, trong tay ngài đã có non hai mươi vạn binh sĩ. Vương chia quân đóng giữ từ Vạn Kiếp đến Phả Lại tạo thế giớc tương hỗ lẫn nhau.

Thám báo truyền tin về, bọn Ô Mã Nhi đã kéo vào cửa Thái Bình ngược lên Lục Đầu Giang. Trên đường hành binh, suốt một dải ven biển từ miền trung ra bắc, chúng tịch thu thuyền bè và quẳng ngư dân xuống nước, bất kể là phụ nữ hay trẻ con. Từ tám chục chiến thuyền, hiện đội thủy quân của Ô Mã Nhi có hơn ba trăm chiếc.

Hưng Đạo Vương nghe tin mà giận sôi người, ngài bảo với tả hữu “Tên này quá tàn ác. Nếu gặp hắn dứt khoát phải đòi nợ máu, quyết không tha”. Ngay trong đêm, vương triệu tập hội nghị quân sự, bàn kế đối phó với giặc.

Hưng Đạo thông báo tình hình với các tướng lĩnh:

– Binh lực của Thoát Hoan đã tập trung quanh Vạn Kiếp tới ba mươi vạn và hơn hai vạn kị binh, chúng còn được tăng cường gần hai vạn quân của Ô Mã Nhi cùng với ba trăm chiến thuyền. Giặc đang rất sung sức, nếu quyết chiến với chúng sẽ bất lợi cho ta, vậy các tướng có chủ ý gì hãy trình bày để cùng bàn bạc.

Trần Khánh Dư lên tiếng:

– Thuyền chiến tại Vạn Kiếp có hai trăm bảy chục chiếc, như vậy thủy binh ta không thua sút giặc là mấy. Dư mỗ quen sông nước, có thể đảm trách phòng thủ tuyến đường sông từ Phả Lại đến Vạn Kiếp, đề nghị Tiết chế Đại vương chuẩn thuận.

Hưng Đạo hỏi:

– Nếu chiến cuộc bất lợi, Nhân Huệ đã tính đường rút chưa?

Khánh Dư đáp:

– Nếu đánh không lại chúng, mỗ sẽ đưa đội thuyền ngược dòng Lục Nam lên thượng nguồn ẩn náu chờ thời cơ.

Hưng Đạo cười vang, mà rằng:

– Cách tính của Nhân Huệ hợp với chủ ý của ta. Vậy ngài có lực lượng thuyền chiến và hơn một vạn bộ binh tương hỗ thủy bộ, ngoài ra ta bổ sung cho ngài năm mươi thủy binh Kình Ngư của Yết Kiêu, họ sẽ giúp ngài triệt hạ thuyền chiến của giặc mà không tốn quá nhiều binh lực.

Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn đề nghị:

– Xin phụ vương cho con đem quân trấn giữ Lưu Thôn, nơi này địa hình hiểm trở có thể bố trận mai phục đánh địch từ xa.

Hưng Đạo chấp thuận, ngài nói:

– Ta tăng cường cho con hai ngàn gia binh thiện chiến do Tuấn Thọ, Nguyễn Hòa chỉ huy. Quốc Hiện lập phòng tuyến cách Lưu Thôn hai mươi dặm, hỗ trợ cho Quốc Nghiễn rút quân an toàn. Nguyễn Khoái và Phạm Ngũ Lão chặn địch ở hướng tây bắc, Quốc Tảng lập phòng tuyến phía sau, lúc cần giải nguy cho phía trước. Minh Hiến Vương Uất cản giặc ở hướng bắc, phía sau có ta trợ chiến. Các cánh quân phải lưu ý không đánh lớn để hạn chế thương vong. Cầm cự trong vài ngày rồi rút quân theo hướng đông bắc đến vùng núi Đông Triều.

Minh Hiến Vương Uất hỏi:

– Tại sao ta không rút quân về phía nam để bảo vệ các vùng chưa bị giặc chiếm mà lại kéo quân lên ngược?

Hưng Đạo giải thích:

– Sức giặc đang mạnh, ta rút về phía nam thì chúng lại đuổi đánh dài dài. Giấu quân lên ngược là ở sau lưng đại quân của chúng. Đây là điều giặc không ngờ tới nên ta có thể bảo toàn lực lượng. Nhược bằng chúng có phát hiện ra cũng không thể rời bỏ mục tiêu chiếm kinh đô Đại Việt để quay ngược về vị trí xuất phát mà truy đuổi quân ta trên vùng núi cao. Bấy giờ từ hậu phương của giặc ta sẽ thừa cơ đánh úp, đánh lén khiến chúng thất điên bát đảo. Khi giặc bỏ vùng đông bắc để kéo về xuôi là lúc ta xuất quân thu hồi Vạn Kiếp.

Các tướng lĩnh vô cùng thán phục sách lược chống giặc của Đại Vương, Nguyễn Khoái nói với Phạm Ngũ Lão “Làm tướng dưới quyền Đại Vương quả là hạnh ngộ lớn lao của chúng ta. Nhưng huynh vẫn may mắn hơn tôi vì được làm con rể của ngài”. Ngũ Lão tuy không nói gì mà trong lòng vẫn đầy ứ cảm xúc hãnh diện.

Ngay trong đêm, Hưng Đạo Vương viết thư cấp báo cho Trần Quang Khải, thư viết “Chưa phải lúc đánh lớn để giành lại lãnh thổ. Để né đòn giặc, tôi sẽ đưa đại quân lên ngược. Huynh bàn bạc với Quan gia chủ động kéo giặc về xuôi, bấy giờ tôi lại đem quân về thu hồi đông bắc, chờ thời cơ chín muồi sẽ tổng phản công quét sạch giặc thù ra khỏi bờ cõi”.

Ngày mồng sáu tháng giêng năm Ất Dậu (1285), quân Nguyên khởi binh đánh Vạn Kiếp. Ô Mã Nhi dùng kị binh tiến đánh Phả Lại và cho đoàn thuyền chiến công phá đội hình thủy quân của ta. Ở trên bộ, Trần Khánh Dư chia quân làm hai cánh; một cánh do Phó tướng Đặng Trứ chỉ huy dựa vào núi dùng cung tên và đá tảng cản bước giặc; một cánh do Tả bộc Lưu Văn Các đầu lĩnh ẩn nấp sau những bãi lau sậy và cây rừng ven sông, đợi thuyền giặc qua thì dùng nổ diệt thủy quân. Sông không rộng, thuyền giặc đi hàng bốn, hàng năm nên những chiếc chạy ven bờ đều bị tổn thất binh lực. Ở dưới nước, Khánh Dư cho thuyền nhỏ ra khiêu chiến, thuyền giặc đuổi diệt, thuyền ta tấp vào bãi, thuyền giặc lớn hơn nên bị sa lầy chỗ nước cạn. Phiêu kị tướng quân dẫn đầu đoàn chiến binh nhảy sang thuyền giặc giáp chiến với chúng. Quân của ông giết sạch bọn lính thủy và đốt cháy ba chiến thuyền của Mông Thát.?️

Đến chiều tối, giặc chiếm được Phả Lại, quân của Lưu Văn Các và Đặng Trứ rút vào núi đợi lệnh chủ tướng. Chiến trường dưới sông chưa ngã ngũ, giặc và ta vẫn ở thế giằng co. Nửa đêm, Yết Kiêu dẫn đội Kình Ngư xuất trận. Trời tối như hũ nút, mưa rơi nhòe mặt sông, giá rét căm căm khiến bọn giặc chủ quan, chểnh mảng phòng bị. Các chiến binh mình đồng da sắt, bất chấp cái lạnh của nước, nhẹ ngàng tuồn xuống sông, ngậm ống thở tiếp cận thuyền giặc. Để tăng hiệu quả diệt thuyền, Yết Kiêu chia đội làm năm toán, mỗi toán mười người, nhằm thuyền lớn mà diệt. Bọn giặc bị đánh thức bởi những tiếng động mạnh từ đáy thuyền dội lên, chúng còn đang lơ mơ chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì nước đã tràn vào khoang, chốc lát cả năm chiến thuyền chìm lỉm đem theo hàng trăm lính giặc xuống chậu hà bá. Toàn đội của Yết Kiêu trở về bình an.

Bị mất thuyền thiệt quân, Ô Mã Nhi lồng lộn tức tối, quyết ăn miếng trả miếng tức thời. Cuối canh tư, y dẫn hai ngàn tinh binh bất ngờ càn quét dọc bờ sông, phát hiện ba thuyền nhỏ của ta náu trong đám lau sậy. Giặc ào xuống đánh chiếm, các chiến binh Kình Ngư không kịp chèo thuyền ra giữa dòng, buộc phải nhảy xuống nước thoát thân. Mười hai chiến sĩ bị giết, ba người bị bắt sống.

Lôi tù binh về đến trại, bấy giờ trời đã sáng rõ, thấy trên cánh tay mỗi người đều thích chữ “Sát Thát”, Ô Mã Nhi điên tiết, không cần tra hỏi, cho trói ba chiến binh vào cọc tre trên bờ Lục Nam rồi sai lính lấy dao lọc thịt cánh tay của họ để chảy máu đến chết. Không một lời rên rỉ, những tráng sĩ Đại Việt vô danh mắt mở lớn như muốn thu trọn hồn sông nước khi bước vào cõi bất tử, khiến bọn lính Mộng Thát rùng mình kinh sợ.

Yết Kiêu và những người thoát chết trở về trình diện Nhân Huệ Vương. Phán đoán tình thế chiến trường, Khánh Dư quyết định cho rút quân tức khắc. Bộ binh và kị binh vượt rừng lên núi Chí Linh, đoàn chiến thuyền ngược dòng Lục Nam lên thượng nguồn. Kể từ đấy, Yết Kiêu, người gia nô trung tín của Hưng Đạo Vương, bôn ba đánh giặc cùng đội ngũ của Phiêu kị tướng quân, cho đến giữa tháng ba, ông mới có dịp trở về dưới trướng chủ cũ.

Tại mặt trận Lưu Thôn, Quốc Nghiễn cho quân mai phục trên sườn núi và cánh rừng rậm rạp, lại sai Tuấn Thọ – Nguyễn Hòa dẫn quân ra khiêu chiến cốt như giặc vào cạm bẫy. Vạn hộ Nghê Nhuận dẫn quân tiên phong đuổi đánh hai tiểu tướng của ta. Quân ta vờ thua chạy, Tuấn Thọ dẫn một nửa quân chạy vào núi, Nguyễn Hòa dẫn số quân còn lại chạy vào rừng. Nghê Nhuận cũng chia quân làm hai hướng truy kích. Y dẫn quân đuổi đánh Tuấn Thọ, phó tướng Thiên hộ Quách Khái bám theo Nguyễn Hòa.

Chạy đến rừng thì lũy trúc mở ra, đoàn quân lao vào bên trong, Nguyễn Hòa đi sau rốt, chờ cho các huynh đệ qua hết bấy giờ ông sẽ phóng ngựa vào. Một mũi tên của giặc đâm xuyên lưng người chiến tướng trung dũng khiến ông ngã nhào xuống đất. Thấy Nguyễn Hòa lâm nguy, Hưng Vũ Vương dẫn quân xông ra giải cứu. Ta và địch cận chiến dữ dội, Quốc Nghiễn tay cầm trường kiếm lăn xả vào đám loạn quân, quyết giành giật bằng được viên tiểu tướng bị trọng nặng. Khi Nguyễn Hòa được đồng đội cứu thoát thì quân ta cũng rút hết vào lũy trúc. Những bó trúc to lấp kín cổng, giặc không thể đột phá. Suốt một cánh rừng ken dày tre trúc nên quân Thát không dám liều mình lách qua. Từ bên trong, sào tre vát đầu và tên nhọn bắn ra như mưa, khiến giặc thương vong vô số.

Bọn Thát tháo chạy ra xa, Quách Khái sai lính đánh đá mồi lửa đốt rừng trúc. Đoán biết được ý đồ của giặc, Quốc Nghiễn cho rút quân vào sâu trong rừng. Khi rừng trúc cháy trơ gốc, quân Nguyên xông vào nhưng chẳng tìm thấy một cái xác.

Nghê Nhuận dẫn quân đuổi theo Tuấn Thọ. Viên tiểu tướng cùng các chiến hữu phóng vào khe núi, bọn Thát bám riết phía sau ở một cự li không đầy mười trượng. Bất ngờ từ sườn núi, hàng loạt mũi tên bay ra hạ gục toán kị binh đi đầu, bọn giặc kìm ngựa định tháo lui thì bị đá tảng lăn xuống cản đường. Tuấn Thọ và đồng đội quay đầu phản công, hai bên giáp trận nảy lửa. Nghê Nhuận mở đường máu thoát ra ngoài, bị Tuấn Thọ rượt theo đâm mũi giáo xuyên bụng, chết tốt.?️

Trên hướng bắc và tây bắc, bọn Thoát Hoan, A Lý Hải Nha và Lý Hằng tiến quân thuận lợi. Quân ta chủ động lui binh trước thế giặc mạnh như thác lũ. Hưng Đạo Vương tổ chức rút quân theo cách cuốn chiếu, đội hình sau hỗ trợ cho đội hình trước rút đi, cứ thế lần lượt rời khỏi các vị trí của họ, bỏ ngỏ trận địa trống không cho giặc.

Khi đã chiếm được Vạn Kiếp và Phả Lại, Thoát Hoan triệu tập tướng soái bàn kế hoạch tiến quân. Ý truy vấn thuộc cấp:

– Các ngươi quân đông tướng mạnh, sao để bọn Quốc Tuấn chạy thoát, nay biết chúng ở đâu mà đuổi đánh?

Lý Hằng nói:

– Địch lợi dụng đêm tối để rút quân, hiện chưa xác định được hướng đi của chúng.

Thoát Hoan gắt ầm lên:

– Chúng rút đến chục vạn quân, chẳng lẽ không để lại dấu vết?

Khoan Triệt nói:

– Quốc Tuấn kéo quân lên núi, nhưng núi ở đây trùng điệp nên khó bể phán đoán. Theo tại hạ, bọn họ vượt núi về phía nam để bảo vệ các vùng đất còn lại.

A Lý Hải Nha nói:

– Thám báo truyền tin cho biết, thế tử An Nam tập trung hàng chục vạn quân ở một khúc sông gọi là Bình Than, có lẽ Quốc Tuấn kéo về đấy hội quân với chúa của y để hợp lực chống đại quân thiên triều.

Thoát Hoan hỏi:

– Từ đây đến Bình Than cách bao xa?

A Lý Hải Nha đáp:

– Theo đường bộ mất hai ngày hành binh. Theo đường thủy chỉ khoảng tám mươi dặm.

Thoát Hoan hỏi chư tướng:

– Ai muốn lãnh quân thủy bộ đi tiên phong công phá Bình Than?

Mã Nhi từ hàng cuối bước ra giữa sảnh, nói lớn:

– Thuộc tướng xin dẫn binh thuyền diệt Bình Than, bắt sống chúa An Nam dâng lên đại vương.

Thoát Hoan mừng rỡ nói:

– Vậy Ô Mã Nhi chỉ huy đội thuyền, cử Nạp Hải làm phó tướng dẫn hai vạn quân hợp lực công phá. Hai người khẩn cấp tiến quân, nếu bắt được cha con thế tử Trần gia thì coi như lập đại công đó.

Hai viên tướng phụng mệnh lui ra ngoài thi hành công vụ. Thoát Hoan truyền lệnh cho các tướng soái:

– Bọn thế tử bị thua trận tất bỏ thuyền lên ngựa chạy về xuôi, A Lý Hải Nha kéo quân chốt chặn các ngả đường diệt tàn quân của địch, bắt cho được quốc vương của chúng. Khoan Triệt đốc quân trợ chiến Ô Mã Nhi và Nạp Hải, kết hợp việc lùng sục tận thu nguồn lương thực, thực phẩm. Phải vét cho sạch, không mang đi được thì tiêu hủy. Lý Hằng dẫn quân chiếm các vùng đông nam, phòng đối phương tháo chạy ra biển. Đích đến là Long thành, ta sẽ hội quân ở đấy.

Lại nói về Thượng hoàng và Quan gia. Sau khi hội quân với Chiêu Minh Vương và các vương hầu khác ở Nam Sách, lực lượng của hai vua bấy giờ có tới mười vạn binh cùng với hàng trăm thuyền chiến. Vua tôi bàn tỉnh đem quân tới Bình Than đón đầu giặc.

Ngày hôm sau, Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải nhận được thư của Hưng Đạo Vương, ngài bàn với nhị hoàng:

– Tiết chế đề nghị ta chủ động dụ giặc về xuôi, kéo chúng tới các đầm bãi, rừng gò dọc sông Nhị Hà, không tổ chức đánh lớn, chỉ dùng lực lượng nhỏ quấy phá, chọc sườn, tập hậu địch quân. Giặc tất dồn binh lực đuổi theo nhị hoàng, Hưng Đạo sẽ rảnh tay triệt phá hậu phương của địch.

Thượng hoàng Thánh Tông hỏi:

– So sánh lực lượng thế nào?

Thái sư đáp:

– Thủy bộ ta có mười vạn. Chưa chắc giặc đã dốc binh đánh Bình Than, có thể chúng chỉ dùng một bộ phận vừa đủ công phá trận địa của ta, lực lượng còn lại chúng sẽ phân chia tiến đánh các ngả, mở rộng địa bàn chiếm đóng tới tận Thăng Long, chặn đường ta rút về xuôi.

Vua Nhân Tông hỏi:

– Chiêu Minh đã vạch sẵn kế sách rút quân chưa, ta sẽ đi đường nào, về đâu?

Thái sư trình bày:

– Theo thần thấy, thủy quân Mông Thát yếu hơn hẳn bọn kị binh và bộ binh. Nhị hoàng rút quân bằng đường thủy an toàn hơn. Ta sẽ từ Lục Đầu vào Đông Ngàn' rồi qua Nhị Hà. Tại đây, thần đã huy động người đóng cọc gỗ dọc bờ sông, thủy bộ của ta tập kết ở Đông Bộ Đầu, kìm chân giặc trước cửa ngõ Thăng Long.

Nhận định của Thái sư Trần Quang Khải về ý đồ của giặc quả không sai. Nhưng “nước cờ” rút bằng đường thủy của Chiêu Minh Vương cao tay hơn kế sách chặn đường vây bắt của Thoát Hoan. Lực lượng của ta vẫn bảo toàn, các vua Trần bình an, chiến trường chính dịch chuyển khỏi vùng đông bắc.

Bọn Ô Mã Nhi và Nạp Hải khởi chiến từ ngày mồng chín tháng giêng rồi đuổi theo đội thuyền của ta tới Nhị Hà thì không dám tiến thêm. Phía trước là Đông Bộ Đầu, dưới bến có gần ngàn chiến thuyền, trên bờ có hơn chục vạn quân Đại Việt, ba vạn quân Thát đành bó tay đợi viện binh.

Nhân Tông bàn với các quan tướng:

– Giặc đã dừng binh, như vậy là chúng đang đợi quân tăng viện. Trẫm muốn cử người sang trại giặc giả dạng cầu hòa để dò la địch tình, ai vì trẫm đi một chuyến?

Văn thần võ tướng nín thinh, chẳng ai to gan liệu mạng chui đầu vào hang cọp. Một viên quan nhỏ giữ chức Chi hậu cục thủ là Đỗ Khắc Chung xin lãnh trọng trách:

– Thần vốn bất tài song muốn nhận việc này.

Nhân Tông mừng lắm, nhưng vẫn có ý trách đám quan tướng nhát gan:

– Thế mới biết không thể nhìn người qua cái miệng rộng ở chỗ vô sự, đến khi gặp việc mạo hiểm thì ngoảnh mặt làm ngơ. Cũng may trong đám ngựa xe kéo, xe muối lại có ngựa kỳ, ngựa ký.