← Quay lại trang sách

Chương 8 Kiên cường bám đất, dân binh hạ đồn
Lặn lội sang Nguyên, phản nghịch tận số

Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến được Trấn Nam Vương giao trọng trách thiết lập hệ thống đồn trại để bảo vệ tuyến đường vận chuyển lương thực từ biên giới đến nơi trú đóng của đại quân. Theo lệnh chủ tướng, ban đầu chúng lập hàng loạt binh trạm từ Lộc Châu đến ngã ba sông Luộc, rồi từ đấy lập thêm năm đồn binh trên sông để bảo vệ tuyến đường thủy chuyển lương đến Thiên Trường. Khi Thoát Hoan kéo quân về Thăng Long thì tuyến đường thủy này là huyết mạch cung cấp lương thực cho bọn Giảo Kỳ ở Thiên Trường và hai cánh quân tả hữu của Bột La Hợp Đáp Nhĩ và Sát Tháp Nhi Đài.

Với một vạn binh sĩ dưới quyền, bọn Thế Anh và Bang Hiến phải rải quân khắp tuyến giao thông thủy bộ dài sáu, bảy trăm dặm, buộc chúng phải chia mỗi đồn trại tối đa chỉ hai, ba trăm quân, hai viên Vạn hộ và hơn bốn ngàn quân còn lại đóng bản doanh tại A Lỗ có chức phận ứng cứu, giải vây các binh trạm hai đầu bắc nam bị đối phương tiến đánh.

Nắm được điểm yếu của giặc phải dàn mỏng lực lượng để trông coi cái thực quản dài thoòng tiếp tế đồ ăn cho chiếc dạ dày không lồ của đạo quân xâm lược, Hưng Đạo phát động cuộc chiến diệt đồn cướp lương, kêu gọi các thủ lĩnh miền núi, các hào trưởng miền xuôi tổ chức dân binh đánh phá tuyến hậu cần của chúng.

Tại ải Chi Lăng, Lưu Thế Anh thiết lập một trại binh án ngữ con đường độc đạo vận lương từ Khâu Ôn xuôi về Thăng Long. Đường ải vốn chật hẹp, nhiều chỗ mưa lũ làm lở đất khiến ngựa xe qua lại chẳng hề dễ dàng, còn bị vướng hai chiến lũy do tướng An Nam là Trần Quốc Hiện thiết lập từ hồi khởi chiến, Thế Anh sai quân phá lũy, phạt cây cỏ, hốt đất đá mở đường, mấy trăm con người làm quần quật từ sáng chí tối. Đám lính chiến phải làm như bọn phu nên tỏ ra bất mãn, khiến công việc dây dưa tới nửa tháng vẫn không xong.

Viên đầu lĩnh giận lắm, bèn tìm cớ trừng trị một vài thằng làm gương. Nghe được mấy tên lính đứng chống cuốc pha trò với nhau, một đứa nói “Đường rộng thế này, lúc nguy cấp bôn tẩu cũng tiện”, một tên khác bỡn cợt “Ở đấy mà đòi chạy trước. Các tướng và lũ kị binh quất ngựa một lèo, mi quýnh quáng chạy sau thế nào cũng dẫm phải đống phân ngựa”. Cả bọn thích chí cười sằng sặc. Lưu Thế Anh bảo tả hữu lôi đầu hai tên lính ra đánh mỗi đứa ba chục roi vì cái tội biếng nhác và nói lời sàm bậy làm giảm nhuệ khí binh sĩ. Y sai trói quân phạm vào cọc rồi chỉ mặt chúng mà rằng:

– Các ngươi nghe đây, đứa nào lười biếng hoặc nói năng gở miệng thì sẽ bị trừng phạt như chúng nó.

Bọn lính biết thân phận, đứa nào đứa nấy làm hùng hục.

Về sau, trên đường tháo chạy khỏi nước Nam, viên bại tướng Lưu Thế Anh chẳng hề đoái hoài đến các binh sĩ bị rơi rớt lại. Lúc chạy qua ải Chi Lăng, y chợt nhớ đến câu nói đùa của tên lính “Đường rộng thế này, lúc nguy cấp bôn tẩu cũng tiện”.

Giữa tháng ba, nhị vị tộc trưởng Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn Lĩnh liên kết với tì tướng Nguyễn Địa Lô đánh đồn Chi Lăng, giết hơn hai trăm quân Nguyên, cướp được gần một trăm con ngựa. Sau chiến thắng, Địa Lô bàn với các đầu lĩnh địa phương:

– Ải này như cái yết hầu của giặc, tất chúng sẽ kéo quân quay lại. Ta nên rút đi, chờ chúng lập đồn trại mới, ta lại đánh cướp.

Nguyễn Thế Lộc nói:

– Bám lấy đất của cha ông mà đánh, giặc chịu không thấu sẽ phải bỏ đi.

Nguyễn Lĩnh nói:

– Nên đốt lán trại, chúng muốn đóng giữ phải bỏ công sức ra làm.

Quân dân đốt sạch trại giặc rồi rút về cứ địa. Nghe tin mất đồn Chi Lăng, Lý Bang Hiến kéo quân đến thiết lập binh trạm mới. Y đóng lại năm ngày để chờ nghênh chiến với quân ta, nhưng không có một bóng dáng khả nghi nào xuất hiện. Tiện có đoàn vận lương đi qua, Bang Hiến quyết định hộ tống về xuôi, trước khi rời đi, hắn bấm bụng để lại ba trăm quân trông giữ cái yết hầu trọng yếu.

Bọn Bang Hiến rút buổi sáng thì buổi chiều Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn Địa Lô lại kéo đến đánh binh trạm. Giặc cố thủ trong làn trại, dùng cung tên bắn ra. Dân binh lấy ván che đỡ, tiến sát đến vách lán thì buông mộc, lăn xả vào huyết chiến. Hơn trăm tên bị giết, số còn lại quỳ gối xin hàng.

Bọn hàng binh trở thành một vấn đề nan giải đối với các thủ lĩnh sơn cước. Quân kháng chiến không đủ lực để canh giữ và nuôi ăn đám tù nhân đông gần hai trăm tên, còn giết chúng thì tàn ác quá. Bàn đi tính lại, cuối cùng Nguyễn Địa Lô đề nghị phương cách giải quyết:

– Ở đây gần biên giới, hay ta dẫn chúng tới đó rồi đuổi về bên Nguyên?

Nguyễn Lĩnh nói:

– Nếu chúng lại tìm đường quay sang tham gia đạo quân chinh phạt Đại Việt thì có khác nào ta tự làm khó ta.

Nguyễn Thế Lộc nói:

– Họ đều là người Hán, vì miễn cưỡng phải làm lính Mộng Thát, nếu được thả về chắc không dám mò sang đâu.

Mấy vị đầu lĩnh đến gặp bọn hàng binh, Nguyễn Thế Lộc hỏi chúng:

– Nước các người bị bọn Mông Thát diệt vong, tại sao con theo chúng sang cướp nước ta?

Một tên lính lớn tuổi nhất thay mặt cả bọn giãi bày:

– Chúng tôi bị họ bắt đi lính, nếu chống đối thì bản thân bị giam cầm, gia đình cũng không được yên ổn.

Nguyễn Thế Lộc lại hỏi:

– Giả sử ta không giết mà cho về nước thì có kẻ nào còn muốn theo Mông Thát sang đây không?

Hơn trăm con người nghe nói vậy liền đồng loạt khấu đầu sát đất cùng lên tiếng “Chúng tôi không dám”.

Nguyễn Địa Lô dẫn một trăm quân áp giải đám hàng binh lên phía bắc, đến tận biên cương, rồi phát cho mỗi đứa một bọc cơm to gói lá chuối. Ông chỉ ngọn núi phía trước mà nói với chúng:

– Bên kia là đất Nguyên. Hãy tự tìm đường về quê quán, đừng nghĩ tới chuyện quay sang đây kẻo bị giết uổng mạng.

Bọn hàng binh cúi đầu cảm tạ rồi lũ lượt kéo qua đất Bắc. Chờ đám lính khuất dần sau rặng núi lân bang, Nguyễn Địa Lô mới dẫn quân về trại.

Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến không dám đưa quân quay lại lập đồn ở Chi Lăng mà thay bằng chiêu thức dẫn quân trực tiếp hộ tống đoàn vận lương vượt qua cái ải đầy chết chóc của xứ Lạng Giang. Khi được Thoát Hoan tăng cường thêm binh lực của Mãng Cổ Thái, bọn họ cũng không màng đến chuyện chia quân đóng chốt tại đấy.

Sau thời gian ứng nghĩa cùng Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đánh giặc trên sông Thao, hai vị thủ lĩnh vùng tây bắc là Nguyễn Khả Lạp và Nguyễn Truyền ở lại địa phương nhưng mấy tháng trời không đụng đến binh khí nên tâm trạng bứt rứt lắm. Nguyễn Khả Lạp bảo với người em rằng:

– Giặc Thát đang tràn ngập bờ cõi mà chúng ta thì ngồi ru rú một chỗ, xem ra hèn quá.

Nguyễn Truyền đáp:

– Trước chúng đến đây thì ta phải đánh, nay chúng đi nơi khác thì ta nên tìm chúng mà đánh. Nếu huynh đã quyết ra trận thì đệ cho tập hợp đội ngũ.

Khả Lạp nói:

– Phải tuyển thêm quân, rèn thêm đao mác và tung người đi thám thính để xác định mục tiêu tiến công.

Qua mấy ngày hô hào, có bảy trăm tráng niên từ khắp các bản làng kéo về tụ nghĩa, lực lượng tăng lên hơn ba ngàn quân, các thủ lĩnh mừng lắm, chỉ còn chờ nắm được thông tin về giặc là cho xuất quân.

Trinh thám trở về báo tin bọn Thoát Hoan đã kéo đại quân về Thăng Long, các vùng lân cận kinh thành được chúng thiết lập nhiều đồn trại cách nhau ba, bốn chục dặm, mỗi trại có từ ba đến năm trăm quân. Hằng ngày giặc từ các trại lùng sục vào các làng mạc xung quanh cướp bóc lương thực, hà hiếp dân lành.

Trại chủ Khả Lạp nhận định:

– Với lực lượng hiện thời ta có thể diệt đồn giặc, nhưng không đủ sức vươn xa, trước mắt nên tập trung đánh vào vùng hữu ngạn sông Hồng, quấy phá chúng tại các xứ Quốc Oai, Thượng Phúc và Từ Liêm.

Giữa tháng ba, anh em Nguyễn Khả Lạp tiến đánh đồn Thanh Oai. Nguyễn Truyền cho quân mai phục bên ngoài, Khả Lạp ém quân sát đồn, chờ thời cơ khởi chiến. Đầu giờ thìn, hơn trăm lính giặc rời trại, kéo nhau đi ăn cướp. Chờ cho chúng đi chăng nữa dặm, Khả Lạp phát lệnh tấn công, năm trăm dân binh ào vào trại vung dao mác đánh giết bạn đồn trú. Bị tập kích bất ngờ, lại thua kém về quân số, ban đầu bọn giặc chống cự yếu ớt nên thương vong quá nửa, về sau chúng co cụm lại rồi đánh trả quyết liệt. Quân ta vây chặt năm mươi tên còn sống sót trong dãy nhà ngang, Khả Lạp bắc loa kêu gọi chúng đầu hàng, viên chỉ huy là Tổng bạ họ Doãn cự tuyệt, sai lính bắn tên sát hại bốn chiến binh của ta. Không còn cách nào khác, thủ lĩnh dân binh buộc phải dùng hỏa tiễn thiêu rụi trại giặc, một số tên chạy thoát khỏi đám cháy đều bị dân quân dùng cung nỏ kết liễu.

Đám giặc đang hành binh càn quét thì nghe thấy tiếng náo loạn từ phía đồn vọng tới, biết trại bị đánh úp, chúng vội quay về ứng cứu nhưng lại rơi vào ổ phục kích của Nguyễn Truyền. Phó trại chủ cho quân dùng tên tẩm thuốc độc hạ sát tại chỗ hàng chục lính giặc rồi khiến quân chặn đường chúng rút về đồn. Bị ba trăm chiến sĩ Đại Việt ào ra vây đánh ráo riết, buộc giặc phải mở đường máu chạy về hướng Chương Dương. Chỉ có không đầy năm mươi tên thoát nạn.

Một lần Hưng Đạo Vương sai Tuấn Thọ dẫn năm trăm quân đi đánh đồn Tiên Du, ba ngày sau Thọ trở về phàn nàn với chủ soái:

– Mất công quá, tùy tướng đến nơi đã thấy trại giặc chỉ còn là một đống tro than.

Hưng Đạo hỏi:

– Có nắm được tin tức gì không?

Thọ đáp:

– Tiểu nhân hỏi han người dân, họ kể rằng ngày hôm trước có một đội quân do hai viên tướng trẻ chỉ huy ào đến đánh cướp trại giặc rồi lại rút đi ngay.

Vương cả mừng mà rằng:

– Như vậy là ngoài lực lượng do ta kiểm soát, còn có các đội quân khác vẫn kiên cường đánh giặc. Ta chưa biết họ là ai, đông hay ít, nhưng đây là tín hiệu đáng mừng. Liên kết được với nhau thì quân dân ta càng thêm mạnh, càng sớm đuổi được giặc thù khỏi bờ cõi.

Qua ngày hôm sau lại thấy Dã Tượng dẫn quân trở về trại, mặt nhăn nhó như ăn phải ớt. Đại Vương hỏi nguyên do, Dã Tượng kể lể:

– Theo lệnh ngài, gia nô dẫn ba trăm tráng sĩ đi đốt thuyền lương của giặc. Ai dè chúng bị một đội quân khác đánh phá cướp sạch lương trên khúc sông Thiên Mạc cách của Luộc chừng vài chục dặm. Họ phục kích phía thượng nguồn nên ra tay trước, tiểu nhân phục kích phía hạ nguồn nên chỉ bắt được hai chiếc thuyền nhỏ chở quân phục.

Hưng Đạo hỏi:

– Có biết quân của ai không?

Dã Tượng đáp:

– Gia nô tra xét mấy tên tù binh, chúng kể rằng bị hai mươi chiếc thuyền vây cướp, tướng chỉ huy là hai người trẻ tuổi nhưng đánh hăng lắm. Thuyền của chúng nhỏ và nhẹ nên chạy thoát, ba thuyền chở lương nặng quá đành thất thủ.

Vương nghe vậy bèn cười vang rồi nói:

– Thế là tốt rồi, phải mừng cho họ chứ. Dù chưa biết người ta là ai nhưng hẳn nhiên cũng là quân ta cả. Cách đánh của ngươi là đốt sạch, còn họ lại cướp sạch, như vậy sẽ có thêm lương nuôi quân.

Dã Tượng vẫn còn ấm ức:

– Nhưng bọn tiểu nhân chẳng làm được công cán gì nên thấy khó chịu trong người.

Vương khích lệ:

– Các ngươi cướp được hai thuyền quân trang, cũng là công đấy.

Dã Tượng đáp:

– Toàn trang phục mùa hè của lính Nguyên. Quân ta chẳng dùng được nên tiểu nhân cho đốt hết.

Vương tặc lưỡi tiếc rẻ:

– Lỡ đốt rồi thì thôi. Nếu giữ lại cũng có thể dùng vào việc khác.

Trong lòng vương đã đoán biết hai viên tướng trẻ là ai, nhưng chưa hoàn toàn chắc chắn nên không nói ra, duy tinh thần quật cường của họ khiến ngài rất khâm phục. Cả nước là chiến trường, quân dân khắp nơi hưởng ứng hiệu triệu của Quan gia mà tụ tập nhau đánh giặc, phải chi liên kết được với họ thì trận tuyến diệt thù giăng mắc mọi nẻo sơn hà, bấy giờ bọn Mông Thát muốn thoát thân về nước cũng khó kiếm được lối an toàn. Chợt nhớ đến một người có khả năng giúp vương tìm kiếm tung tích mấy viên tướng trẻ, Hưng Đạo bèn cho triệu tập Nguyễn Hòa đến đại sảnh.

Trong trận Lưu Thôn, Nguyễn Hòa bị trúng tên trọng thương, được đồng đội liều mình giải cứu, lúc đưa về trại không ai nghĩ ông qua khỏi. Sau hai tuần thập tử nhất sinh, Hòa dần dần thoát cơn hiểm nghèo nhưng sức khỏe thì chẳng bao giờ trở lại. Ông đã cố luyện tập để tìm kiếm cơ hội tham gia trận mạc với anh em Vạn Kiếp, vậy mà vết thương vẫn không chịu buông tha, hành ông ngã vật ngay giữa thao trường. Kể từ đấy người chiến binh trung kiên một thuở sống lặng câm giữa đội ngũ náo nhiệt. Huynh đệ nhộn nhịp xuất quân thì ông ngồi bất động một góc mà rầu rĩ nhìn theo. Nghe xướng lệnh đi làm công vụ thì ông lủi thủi bỏ ra ngoài, vì biết chắc không có tên mình trong đấy. Có đôi lần Đại Vương ghé qua thăm, nhưng ngài chỉ hỏi về bệnh tật mà không hề nhắc đến công việc. Ông tin mình là phế nhân.

Khi nghe quân hiệu báo tin Hưng Đạo Vương triệu đến gấp, Nguyễn Hòa sửng sốt, cứ hỏi đi hỏi lại:

– Thật không, để có nhầm không, hay vương gọi Hòa khác?

Quân Vạn Kiếp có năm người tên Hòa, ông không chắc người Đại Vương cần đến là mình. Quân hiệu nói:

– Đại Vương sai kêu đội trưởng Nguyễn Hòa, nếu không phải huynh thì còn ai vào đây.

Hòa hỏi gặng:

– Ngài có nói về việc gì không?

Quân hiệu đáp:

– Cái đấy thì đệ chịu, chỉ biết gọi huynh đến để giao công việc quan trọng.

Viên tùy tướng lặng đi vì xúc động. Thì ra Đại Vương không quên ông, vẫn cho ông cơ hội đứng trong hàng ngũ chiến binh phù vua cứu nước. Không thể đoán biết công việc được giao, nhưng ông vẫn đinh ninh trong lòng dù chủ soái giao bất cứ việc gì, phải hoàn thành bằng mọi giá. Hớt hải đi thay áo xống, Hòa thấy mình có phần khỏe lại.

Nguyễn Hòa bước vào sảnh, Hưng Đạo hỏi ngay:

– Sức khỏe của ngươi dạo này thế nào?

Hòa đáp chắc nịch:

– Bẩm Đại Vương, tiểu nhân khỏe hơn trước nhiều, cũng hồi phục được tám, chín phần rồi ạ.

Vương cười, bảo:

– Được vậy ta cũng yên tâm. Nay có việc muốn giao ngươi đảm trách, không phải đánh trận nhưng cũng khá vất vả, liệu có làm được không?

Hòa thưa:

– Bất cứ việc gì Đại Vương giao, tiểu nhân không nề hà, quyết làm tròn phận sự.

Hưng Đạo rất vui, ngài chỉ thị cho thuộc hạ:

– Ngươi lựa chọn hai mươi huynh đệ, những người có khả năng thu thập tin tức, biết phán đoán và thông thuộc vùng Bắc Giang, Hồng Châu, Khoái Châu, chia nhau ra tìm kiếm tung tích của hai vị tướng trẻ mấy hôm trước đã diệt đồn Tiên Du và cướp thuyền lượng giặc trên sông Thiên Mạc. Nếu tìm được thì thay ta mời họ đến Vạn Kiếp bàn kế đánh giặc.

Hòa hỏi:

– Ngài có gợi ý gì về họ không?

Hưng Đạo nói:

– Hai vị này có thể là vương hầu Đông A, cũng có thể là hào kiệt dân dã hoặc thủ lĩnh địa phương, các ngươi phải sử dụng năng lực phán đoán của mình vào việc tìm kiếm. Người quen mặt hầu hết vương hầu, thử cân nhắc ai là người có tinh thần và khả năng tụ tập dân binh chống giặc, rồi tìm manh mối từ thái ấp và địa bàn quen thuộc của họ. Còn nếu là hào trưởng hay thủ lĩnh địa phương thì lục kiếm các mối quan hệ cũ, móc nối lại mà dò xét từng trường hợp.

Nguyễn Hòa mừng lắm, đáp rằng:

– Tiểu nhân đã hiểu ý của ngài, dứt khoát sẽ tìm ra manh mối. Thuộc hạ xin cáo lui để lo liệu công việc.

Sở dĩ Hưng Đạo Vương không gợi ý cụ thể về danh tính hai người tướng trẻ mà ngài phỏng đoán vì cho rằng đây chỉ là nhận định chủ quan, nên muốn cho Nguyễn Hòa tìm kiếm thông qua sự nhận diện thực tế.

Buổi sáng đầu tháng tư, Hưng Đạo Vương đang đàm luận với các môn khách về thế cờ giữa ta và địch, nghe nói có liên lạc từ mặt trận trở về bẩm báo tình hình chiến sự, ngài lập tức cho gọi vào, Liên lạc truyền đạt thông tin của các vương:

– Minh Hiền Vương Uất đã diệt đồn Tê Giang, Hưng Vũ Vương Nghiễn kéo quân sang hữu ngạn sông Hồng liên kết với các thủ lĩnh Nguyễn Khả Lạp và Nguyễn Truyền đánh quân Sát Tháp Nhi Đài ở Phù Lưu, hai bên kịch chiến, tuy không toàn thắng nhưng buộc chúng phải rút về Chương Dương. Hưng Nhượng Vương Tảng tiến đánh A Lỗ nhưng thấy giặc tăng viện ồ ạt nên tạm thời dừng binh, chờ chủ ý của Đại Vương.

Hưng Đạo hỏi:

– Tình hình cụ thể ở A Lỗ thế nào, bọn tăng viện là ai?

Truyền tin đáp:

– Bọn Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến hiện có bốn ngàn quân, Lý Bang Hiến thường dẫn một ngàn quân đi tuần tiễu các đồn trại. Bảy ngày trước Mãng Cổ Thái kéo đến một vạn quân, ba hôm trước Bột La Hợp Đáp Nhĩ đổ quân đến đông vô kể, số lượng chưa tính được.

Hưng Đạo nói:

– Như vậy là Quốc Tảng không đủ sức rồi. Chúng tập trung bình lực tại A Lỗ hòng ngăn chặn quân ta từ ngoài biển theo đường sông tiến đánh Thăng Long.

Trần Thị Kiến nói:

– A Lỗ là điểm trung tuyến liên thông giữa Thăng Long và Thiên Trường, chúng đóng chốt tại đây nhằm kiểm soát tuyến đường tiếp lương cho bọn giặc ở Thiên Trường đồng thời bảo trợ cho các đồn trại của chúng dọc hai bờ sông Hồng.

Ngô Sĩ Thường nói:

– Nếu diệt được A Lỗ tức là ta cắt đứt nguồn lương thực nuôi sống quân Nguyên ở Thiên Trường. Bọn Thiên Trường thiếu đói tất sẽ tháo chạy.

Phạm Lãm đề nghị:

– Nên đánh trận này. Mất A Lỗ giặc ắt rúng động. Ta có thể phát động tổng phản công.

Hưng Đạo phấn khởi lắm, mà rằng:

– Như thế là ta và các huynh đệ cùng chung ý tưởng. Dứt khoát phải đánh A Lỗ. Thời cơ phản công chính là lúc này đây. Vậy Thì Kiến thay ta đi Tây Quan điều động Phạm Ngũ Lão, Sĩ Thường ra Bàng Hà điều động Hưng Trí Vương Hiện. Còn ta trực tiếp xuất quân từ đây. Hạ tuần tháng tư hội binh trên bờ sông Luộc cách trại giặc hai mươi dặm.

Phạm Lãm thắc mắc:

– Các huynh đệ đều có việc, còn tôi thì ngài quên sao?

Hưng Đạo cười vang, nói:

– Quên sao được. Ông sẽ theo ta. Chuyến này chúng ta cùng ra trận.

Trước khi rút quân về Thăng Long, Thoát Hoan mời bọn Trần Kiện, Trần Lộng và Trần Tú Hoãn đến quân doanh. Y cho soạn tiệc rượu, thiết đãi đám hàng binh ân cần lắm. Đã nhiều ngày kham khổ, nay được bữa ăn ngon nên bè đảng bán nước xem ra chẳng hề khách sáo, đánh chén rất nhiệt tình. Chờ cho cả đám thỏa thê rượu thịt, bấy giờ viên chủ soái Mông Thát mới huych toẹt về chủ ý của mình:

– Bữa tiệc này coi như buổi chia tay mọi người trước khi lên đường sang Nguyên. Vì thành ý quy phục thiên tử nên hoàng đế có ban hồng ân cho các vị được đến cửa khuyết quỳ lạy long nhan để còn nhận bổng lộc chức tước. Ta cử tướng Minh Lý Tích Ban dẫn theo một ngàn quân tháp tùng, đường sá xa xôi mong mọi người bảo trọng.

Đám phản quốc há hốc mồm kinh sợ, trong thâm tâm nhiều đứa biết chuyến đi là họa chứ không phải phúc. Chúng líu lưỡi mà không dám thưa thốt gì, riêng Trần Kiện ỷ có chút công lao dẫn đường đánh quân Trần nên mạnh mồm lên tiếng:

– Ty chức vẫn hằng mơ ước trong đời được một lần diện kiến bộ rồng, đại vương cho đi chuyến này là diễm phúc lớn lắm. Nhưng quả tình từ đây sang Nguyên xa xôi quá, bọn Quốc Tuấn lại rình rập khắc nơi. Xin ngài lượng xét cho chúng tôi được theo đại quân, dù có phải lên rừng hay xuống biển cũng cam lòng.

Thoát Hoan nói:

– Các người chớ lo. Đồn trại của ta từ đây đến biên giới nhiều lắm, họ sẽ bảo vệ mọi người sang đất Nguyên an toàn.

Trần Tú Hoãn đánh liều kêu nài:

– Bầu đoàn chúng tôi có cả phụ nữ, người già và trẻ nhỏ, hành trình từ đây đến quan ải xa tới bảy trăm dặm, e rằng họ không chịu nổi. Mong đại vương chiếu cố cho chúng tôi và gia quyến được nương bóng dưới uy vũ hiển hách của ngài.

Thoát Hoan chau mày khó chịu, rồi xẵng giọng nói:

– Ta đã chuẩn bị mười mấy chiếc xe dành cho vợ con quý vị. Ở đây không thể bảo đảm được tính mạng các người, sang Đại Đô mà hưởng phúc có hơn không. Ta đã nói hết lời, không bàn cãi nữa, cứ như vậy mà làm.

Xong việc, Hoan xô ghế đứng dậy bỏ vào hậu sảnh. Bọn hàng binh ngồi trở khác, mặt mày xám ngoét khi nghĩ tới những cạm bẫy chết người trên đường bôn tẩu. Chúng xầm xì bàn tán về các tin đồn nơi này nơi kia dân binh nổi dậy đốt trại cướp lương khiến quân tướng Nguyên Mông chống đỡ tứ tung mà không lại. Trần Kiện lòng run như cầy sấy nhưng vẫn cố lên giọng “Đi thì đi, sợ gì. Sống chết có số cả”. Lê Tắc nghe chủ nói vậy, tự nhiên trong lòng thấy hãi hùng, y mường tượng viễn cảnh đoàn người bỏ nước theo Nguyên bị các toán quân mai phục dọc đường xông ra đánh giết, kẻ chết chìm dưới sông làm âm binh của hà bá, kẻ toi mạng trên rừng thành ma xó rẻo cao.

Trong toan tính của Trấn Nam Vương, y không đưa Trần Ích Tắc vào danh sách đám hàng binh sang Nguyên, mà dự định khi quay lại Thăng Long sẽ tìm cơ hội lập Tắc làm An Nam quốc vương, với hy vọng dân chúng sẽ chấp nhận vị vua thân thiện với người Nguyên mà từ đấy không nổi dậy chống đối, bấy giờ đại quân của y mới cứu vãn được tình thế thất trận đang hiện hữu trước mắt. Nhưng mối lo về bản chất tráo trở của bọn người phản phúc buộc Thoát Hoan phải tính tới việc giữ con tin, coi như cầm dao đằng chuôi kẻo rồi đứt tay không kịp hối. Nghĩ sao làm vậy, Hoan cho mời Tắc đến quân doanh trò chuyện.

Ích Tắc phong thanh về việc chủ soái Mông Thát thết tiệc quan tướng ra hàng để tiễn họ sang Nguyên, khiến y nửa mừng nửa lo. Tắc mừng vì không được mời, tức là không phải lận đận trên những nẻo rừng đầy rẫy dân binh nấp sau bụi cây bờ cỏ lăm lăm tên nó rình bắn người như bắn thú, tức là còn được ở lại dưới sự bảo trợ của đạo quân mấy chục vạn, dù chẳng no ấm gì nhưng ít ra cũng an toàn hơn. Tức lo vì không biết bụng dạ của Thoát Hoan ra sao, có trọng đại như đã hứa, hay chỉ xem y như vật lạ, nửa chuột nửa dơi, không bỏ mặc nhưng cũng ít quan tâm, thỉnh thoảng ngó qua cho vui?

Được báo Trấn Nam Vương mời gặp, Ích Tắc bước thấp bước cao qua quân doanh đầu lĩnh đại binh mà tim đập thì thùng như gõ trong trận. Thoát Hoan để Tắc ngồi ngang hàng, còn sai lính rót trà dâng bánh mời mọc, xem ra rất trân trọng vai vế của khách. Rồi y vào chuyện:

– Theo chỉ dụ của Đại Hãn, ngày mai các quan tướng quy phụ sẽ lên đường sang Nguyên triều kiến thiên tử. Ngài không phải đi chuyến này vì sắp tới sẽ cùng ta về Thăng Long để chuẩn bị cho chu đáo lễ tấn phong An Nam quốc vương.

Ích Tắc hớn hở ra mặt, chắp tay về hướng bắc mà bày tỏ tâm ý tôi đòi:

– Bản chức từ phương nam xa xôi cách trở gửi lòng tới Đại Đô cảm tạ thiên ân của đức thánh thượng chúa tể gầm trời, ơn nghĩa này Tắc ghi nhớ suốt đời mà nguyện trung thành với đại nghiệp của thiên tử.

Rồi Tắc quay sang phía Hoan:

– Được đại vương hết lòng nâng đỡ và tiến cử, Tắc vô cùng cảm kích, xin vài ngài ba vái.

Hoan vội cản lại, mà rằng:

– Ngài chớ làm vậy, nay ta và ngài ngang hàng, mai mốt ngài đăng quang vua nước Nam, thì ta lại thấp hơn một bậc.

Tắc nhấp nhổm hỏi dò:

– Theo dự kiến của đại vương, bản chức có thể lên ngôi vào dịp nào?

Hoan cười nửa miệng, nói:

– Chờ chiếu chỉ của thiên tử chuyển sang là tiến hành ngay. Ta có gửi theo đoàn nội phụ tấu sớ xin hoàng thượng ban chiếu phong ngài làm quốc vương An Nam. Nhưng để bày tỏ tấm chân tình với bệ rồng đại đế, quốc vương tương lai nên cử một cậu ấm thay cha sang quỳ lạy trước cửa khuyết.

Tắc chột dạ, tìm cớ thoái thác:

– Mấy tiểu tử của bản chức còn nhỏ dại, lễ nghĩa kém cỏi, ở chốn cửu trùng lỡ gây điều thất thố thì tội lỗi lắm. Hay bản chúc cử người thân tín trong họ đi thay?

Hoan từ chối thẳng:

– Không được, như vậy là không đủ thành ý. Trong mấy người con của ngài, ta thấy Nghĩa Quốc Hầu có tướng mạo khôi ngô, thông minh lanh lợi, cử hắn đi thì mọi chuyện sẽ ổn cả. Việc này không thể khác được, ngài chớ ngần ngại kẻo làm hỏng vương nghiệp.

Biết thân phận của mình, Tắc nuốt đắng vào lòng mà gật đầu chấp thuận. Thôi đành, đường sang phương bắc phác họa khôn ường, nếu bình yên thì Quốc tránh được nạn binh đao giết chóc ở đất này, lại sớm được hưởng phúc lộc nơi xứ sở vàng son rực rỡ, nhược bằng tận số thì cũng coi như sự dâng hiến mạng sống vì cơ nghiệp của cha.

Đoàn quy phụ thiên triều khởi hành ngày hai mươi chín tháng ba năm Ất Dậu. Minh Lý Tích Ban dẫn theo một ngàn quân, gồm ba trăm kị mã và bảy trăm bộ binh. Đám thân thuộc hơn tám trăm người, kẻ có tước vị và quan tướng thì được cưỡi ngựa, phụ nữ, người già và trẻ nít thì ngồi xe, thuộc hạ và gia nhân phải cuốc bộ. Ban đầu ước tính gần một ngàn người ra đi, nhưng trước ngày khởi hành có một trăm mấy chục tôi tớ bỏ trốn. Những kẻ bỏ trốn bảo nhau rằng đi đâu cũng phận tôi đòi, ở lại quê nhà còn giữ được cội gốc ông cha, lênh đênh sang xứ lạ nếu không chết vùi xác dọc đường cũng sống mòn mỏi kiếp tha hương.

Mấy ngày đầu đoàn sang Nguyên đi đường yên ổn, duy chỉ một lần bị một toán quân chặn đánh trên bờ bắc sông Thiên Đức. Hôm ấy, khi đến ngã ba Dâu, bọn họ được lính Thát đóng trại ở đó dùng ba chiếc thuyền lớn chở sang sông. Người, ngựa và xe quá cồng kềnh nên phải chia làm nhiều chuyến, Minh Lý Tích Ban cho quân đi chuyến đầu nhằm đề phòng bất trắc từ bờ bên kia.

Quả nhiên, lúc chúng vừa đặt chân lên bờ liền đụng độ với đội kị mã hơn trăm người của Trung Thành Vương. Giặc chưa kịp lên ngựa thì quân ta ào tới đánh, lũ Nguyên bị tấn công bất ngờ vội vung gươm khua giáo chống đỡ loạn xã, nhiều tên bị chém gục tại trận. Khi chúng lập được đội hình phản công thì quân ta đã rút chạy. Minh Lý Tích Ban không dám tung quân truy đuổi, sợ đối phương dùng kế “điệu hổ ly sơn” để thừa cơ bắt giết bọn quy hàng.

Hơn chục xác chết nằm ngổn ngang bãi sông, mười mấy tên bị trọng thương rên la thảm thiết, máu vương vãi đọng lại từng mảng trên cát làm những gót sen quý tộc rùng mình không dám bước qua. Một trận giết chóc cỏn con cũng đủ khiến lũ đàn bà, trẻ nít rụng rời tim óc.

Đám người bỏ nước sang Nguyên hú hồn hú vía, đứng rúm ró theo từng nhóm gia đình với những khuôn mặt tái xanh tái dại và những cặp mắt láo liên nhìn ngược nhìn xuôi sợ hòn tên mũi giáo bất thình lình từ đâu đó phóng tới. Vũ Đạo Hầu vãi mồ hôi trán, run cầm cập mà nói không ra hơi:

– May phúc của tổ tiên để lại, mình mà đi chuyến đầu chắc chết cả.

Văn Nghĩa Hầu Trần Tú Hoãn lên giọng ta đây là người hùng, nói với cha:

Có con bên cạnh, cho việc gì phải sợ đám cướp đường đánh lén. Chúng dám động đến một cọng tóc của cha thì sức con đủ tiễn mười thẳng về với ông bà ông vải.

Chương Hoài Thượng Hầu Trần Lộng đứng gần nghe được, bĩu môi ra cái điều khinh bỉ rồi rỉ tai nói nhỏ với thuộc hạ:

– Thằng này chỉ giỏi múa gậy vườn hoang, khi gặp giặc nó sẽ chạy trước, bỏ mặc gia quyến về với ông bà ông vải.

Nhìn bọn lính Nguyên đào hố chôn xác chết, Quốc mẫu cô Lê Thị, bậc bà cô của Trần Kiện phàn nàn với ông ngoại của y:

– Cái thân già này trót dại đi theo thằng cháu phiêu dạt sang xứ người bảo là để hưởng phúc thọ an nhàn, chưa nói chuyện giữ được mạng, mới nhìn thấy người ta giết nhau cũng đủ tổn thọ.

Ông ngoại của Kiện nói:

– Hễ thấy đánh nhau, Quốc mẫu cô cứ nhắm mắt lại mà niệm kinh, trời Phật nỡ nào không độ trì.

Bà già Quốc mẫu dè bỉu:

– Ôi dào, ông chỉ được cái nói xằng. Bỏ nước theo ngoại bang còn mong trời Phật che chở. Thà cho rằng sống chết có số lại thấy nhẹ lòng hơn.

Lão già nín thinh, giả vờ ngó sang chỗ khác. Trong thâm tâm, lão biết điều bà ta vừa nói hoàn toàn có lý.

Bỏ lại bọn bị thương ở binh trạm, Minh Lý Tích Ban giục đoàn người khẩn trương lên đường. Trời bỗng tối đen, cơn mưa dông bất chợt ập đến, sấm chớp đầu mùa xé toạc màn mây nổ vang trên đầu lũ người bôn tẩu làm đám trẻ nhỏ khóc thét, đất ngấm nước nhão ra dưới chân, bánh xe ngập trong bùn khiến ngựa kéo bất lực. Bọn lính đuổi hết người trên xe xuống rồi mấy đám hò nhau ì ạch đẩy từng chiếc vượt qua quãng đường lầy lội. Già trẻ lớn bé ướt như chuột lột, cái lạnh, cái đói len lỏi vào cơ thể những tâm hồn tội lỗi, khiến thân xác thêm bải hoải, tay chân thêm rụng rời mà thấm thía nỗi niềm cơ khổ của kiếp ly hương. Bấy giờ họ nhìn đâu cũng thấy sợ, sợ trời sai sét đánh kẻ hai lòng, sợ đất khiển rắn cắn đứa tanh máu, sợ người mai phục quân phản phúc.

Cái sự thê thảm càng thêm não nề bởi tiếng than van không dứt của Quốc mẫu cô Lê Thị “Đường quang không đi lại đâm quàng vào bụi rậm. Lú lẫn cả rồi nên mới rủ nhau phiêu dạt tới chốn sống dở chết dở này. Ông trời có cáu giận muốn hành ai cũng được nhưng xin ngài nương tay cho mấy thân già với đám trẻ nít vô tội”. Nhiều gã phản loạn bực tức lắm nhưng chẳng dám ho he một tiếng. Theo vai vế, Lê Thị là bậc trưởng bối Đông A, bọn hầu tước trong đoàn đều là con cháu của bà ta. Còn bọn quan tướng khác tộc lại là thủ hạ của đám hầu nên đời nào dám mở miệng.

Thấy tình cảnh bi đát quá, Trần Kiện đề nghị Minh Lý Tích Ban cho tạm dừng chân, dựng lều để mọi người trú mưa, nghỉ ngơi và ăn lót dạ. Viên chiến tướng Nguyên dứt khoát từ chối, y nói:

– Bọn đánh úp ban nãy có thể ở quanh đây. Chúng rút lui vì yếu thế, nhưng biết đâu sẽ quay lại với lực lượng đông đảo. Ta mới đi quá bờ sông được hơn hai chục dặm, trời mưa to sẽ cản đường chúng đuổi đánh, phải nhanh chân lên, đi càng xa càng tốt.

Mưa gió cực nhọc không đáng sợ bằng nguy cơ đối phương lùng diệt. Khi hay tin mạng sống bị đe dọa, đám phản nghịch cuống quýt như bị ma đuổi, vác cái thân đói lạnh mà co cẳng chạy trối chết. Bà già Quốc mẫu cũng im bặt tiếng than, vén xiêm áo ướt sũng tốt ngay lên xe ngựa. Đoàn người hối hả nhắm hướng bắc mà lao tới.

Kinh nghiệm chinh chiến của Minh Lý Tích Ban đã cứu đám người phản quốc thoát khỏi cuộc truy kích của đội quân Trung Thành Vương.

Sau khi bất ngờ tập kích giặc trên bãi sông, vương cho rút quân và để lại hai thám tử theo dõi địch tình. Trở về trại, ngài tập hợp đội ngũ, chuẩn bị xuất binh đuổi đánh giặc thù. Thám mã cấp báo:

– Địch chỉ có khoảng gần hai ngàn tên, trong đấy có hàng trăm người mặc sắc phục Việt, bao gồm cả phụ nữ, người già và trẻ em. Chúng đang di chuyển lên hướng bắc.

Nghe thấy vậy, Trung Thành mừng lắm, ngài bảo với các bộ tướng:

– Chắc hẳn bọn Thát hộ tống lũ phản nghịch và gia quyến của chúng sang Nguyên. Đây là cơ hội để cho ta diệt trừ đám gian tặc bất trung bất nghĩa.

Quân tướng hò reo hưởng ứng. Trung Thành Vương lấy ba nghìn binh sĩ khẩn cấp lên đường. Dựa vào tin tức thám báo, ngài quyết chọn giặc trên một cánh đồng cách ngã ba Dâu khoảng bốn chục dặm.

Một trận mưa to bất thình lình ập đến làm tướng sĩ tối tăm mặt mũi, nhiều chỗ nước ngập tới đầu gối khiến việc hành quân bị đình trệ. Khi đến địa điểm dự kiến thì trời đã tối mịt, xung quanh lặng ngắt như tờ, vương cho người đi dò la nhưng không phát hiện tăm hơi của chúng. Biết bọn phản quốc đã vượt thoát, ngài than tiếc hùi hụi.

Khi nước gặp nạn, Trung Thành Vương tụ tập được hơn năm ngàn dân binh ứng nghĩa, hoạt động độc lập tại vùng đông bắc kinh thành Thăng Long. Tuy địa bàn của ngài không quá xa căn cứ của Hưng Đạo, nhưng hai bên không móc nối liên lạc với nhau. Có người hỏi vương sao không hội quân với Quốc Tuấn? Ngài nói:

– Đừng nghĩ ta vẫn còn thù tức ông ấy nên cự tuyệt liên minh. Chuyện xảy ra đã ba mươi năm rồi, để bụng làm gì cho mệt óc. Hồi đấy Thái Tông hoàng đế muốn ta cưới Thiên Thành công chúa thì phải theo thôi, chứ thật tình giữa hai người đâu có yêu thương nhau. Bây giờ Tiết chế thống lĩnh hàng chục vạn quân, việc điều binh khiển tướng đã mệt mỏi lắm, nếu gánh thêm mấy ngàn quân của ta chỉ thêm phần bộn bề mà thôi. Chi bằng ta cứ ở đây, mèo nhỏ bắt chuột nhỏ, miễn sao khiến giặc tổn thất là được.

Sáng mồng năm tháng tư, đoàn bôn tẩu đến vùng núi Chi Lăng. Nhìn địa thế hiểm trở, Trần Kiện thấy trờn trợn bèn nhắc khéo Minh Lý Tích Ban:

– Ngài nên dặn quân cảnh giác, tôi thấy nơi này không an toàn đâu.

Viên tướng Mông đáp:

– Ông đừng quá lo xa. Ở đây có binh trạm mà, đi vài dặm nữa là tới.

Lúc ngang qua đồn trại cũ của Nguyên, nhìn thấy một đống tro tàn nguội lạnh, Minh Lý Tích Ban chột dạ, giục người ngựa khẩn cấp rời đi. Thúc chiến mã phi nước kiệu, Ban còn lèm bèm rủa xả “Bọn Lửu Thế Anh chó má thật. Trạm binh nơi này thất thủ từ tám kiếp mà không báo cho ta biết”.

Đột nhiên tiếng trống trận vang rền hẻm núi rồi từ hai phía vô vàn mũi tên bay ra xuyên thủng da thịt người ngựa, bất kể là ngựa thồ hay ngựa chiến, tướng sĩ hay đàn bà con trẻ. Con ngựa kéo xe bị trúng tên gục xuống hất Quốc mẫu lăn lóc trên đường, người và ngựa hỗn độn dẫm đạp lên thân xác già nua dại dột. Minh Thành Hầu và Trương Hoài Hầu là em trai và con rể của Trần Tú Hoãn tử thương ngay từ loạt tên đầu. Vợ và con trai của Trần Lộng cũng chết trong đám loạn quân. Ông ngoại của Trần Kiện bò lồm cồm dưới vách núi cố thoát ra khỏi tử địa. Bọn Minh Lý Tích Ban ra sức khua gươm giáo gạt tên, mạnh thằng nào thằng nấy co giò chạy lên phía trước.

Nguyễn Thế Lộc đổ quân xuống chặn đường giặc. Bọn Thát và lũ phản nghịch mở đường máu thoát vây. Hai bên kịch chiến dữ dội, đội ngũ lính Nguyên bị dao mác bổ xả tan hoang, phân nửa quan tướng theo giặc bỏ xác tại trận, quân ta cũng thương vong nhiều. Trần Kiện vung kiếm chém loạn xạ, chẳng cần biết trúng vào ai, miễn sao giành được lối thoát hiểm. Khi thoát khỏi cuộc hỗn chiến, y quất ngựa chạy thẳng. Cậu bé Nghĩa Quốc Hầu, con trai của Trần Ích Tắc, được mấy gia binh che chắn nên không dính thương tích, nhưng chúng không thể vượt qua chiến địa, bèn theo một toán quân Nguyên quay đầu chạy ngược về hướng nam.?

Gần một phần ba số người trong đoàn sang Nguyên bị giết, bọn thoát ra kéo nhau chạy thục mạng. Đến lưng chừng hẻm núi, chúng lọt vào ổ phục kích của Nguyễn Địa Lô. Người gia tướng của Hưng Đạo Vương dùng nỏ bắn tên tẩm thuốc độc hạ gục tại chỗ thằng giặc cưỡi ngựa đi đầu. Chẳng dè kẻ bị giết là Chương Hiến Thượng Hầu Trần Kiện, gã đầu sỏ phản nghịch ở châu Ái. Y mất mạng cũng bởi do tham sống sợ chết, luôn tìm cách thoát thân nhanh nhất. Quân ta lại ào ra đánh giết, bọn giặc đã đuối sức chỉ cố chống đỡ để tìm đường tháo chạy. Lê Tắc thấy chủ vong mạng bèn ôm xác Kiện vắt lên mình ngựa mà ra roi phi nước đại. Vợ và con của Trần Tú Hoãn cũng tứ tán, chẳng biết còn sống hay chết. Nhìn đi nhìn lại chỉ thấy cha là Vũ Đạo Hầu bị trúng thương vào cánh tay, đang gắng bám theo sau. Thân thích của Trần Lộng đã chết cả nên y chẳng cần bận tâm đến ai, chỉ ra sức cứu lấy thân mình. Thêm bốn trăm người thiệt mạng trong trận phục kích của Nguyễn Địa Lô.

Chạy được vài dặm đến cuối hẻm núi, đám tàn quân bôn tẩu tưởng đã thoát nạn thì lại bị toàn dân binh của Nguyễn Lĩnh ùa ra đánh giết. Minh Lý Tích Ban cầm đầu bọn kị mã xông xáo mở đường, Lĩnh cho quân dàn hàng ngang chĩa cọc tre vót nhọn cản lại, toán đi đầu bị đâm ngã nhào, hai bên xáp vào cận chiến, đao mác va đập kịch liệt, máu thịt tung tóe, xác người ngổn ngang.

Trần Tú Hoãn vọt qua đám đông hỗn loạn, phi ngựa chạy một lèo, chợt nghe tiếng Vũ Đạo gọi thất thanh “Tú Hoãn ơi, cứu cha với”. Hoãn ngoảnh lại thấy con ngựa trọng thương ngã đè lên ông bố đã kiệt sức, y kìm dây cương, trù trừ chưa quyết thì bị một mũi tên bay vượt qua thái dương. Hồn vía rụng rời, gã hiếu tử bỏ mặc cha già, thúc ngựa thoát thân.

Lê Tắc chạy miết đến châu Ôn, thấy không còn bị rượt đuổi mới dừng lại moi hố chôn xác Trần Kiện. Y lấp vội một lớp đất nông choèn lên mà chủ nhân rồi hấp tấp cùng đám bại binh của Minh Lý Tích Ban lếch thếch vượt qua biên giới. Số phận kẻ phản nghịch và bầu đoàn thể tử thật thảm hại, chẳng những thân xác Kiện bị chôn vùi sơ sài dưới vệ cỏ ven đường, thêm nhiều máu mủ của y nằm phơi thây giữa núi rừng hoang lạnh.

Trần Tú Hoãn thoát chết, nhưng tám người ruột thịt cùng nhiều bà con thân thích của gã Văn Nghĩa Hầu giảo hoạt đã không thể theo y đậu bến vong nô để hưởng lộc tôi đòi. Lẻ loi một mình trên đất khách quê người, Hoãn làm thơ than thở nỗi niềm cô đơn. Trong bài có câu:

Ba đời tám tang, đau ngàn thuở

Một thân vạn dặm, quạnh trăm năm

Người đời sau biết chuyện Trần Tú Hoãn, bình phẩm rằng: không lẽ cả nhà gặp vận rủi, riêng Hoãn được vận may? Chẳng qua hắn chỉ lo thân mình mà bỏ mặc ruột thịt trong cơn hoạn nạn, sống sót rồi lại ngồi một chỗ thảnh thơi kể lể nhớ thương, than van cô quạnh. Thôi thì cứ lấy lòng khoan dung mà nghĩ tốt về hắn, hãy coi câu thơ là sự tỏ bày nỗi ăn năn muộn màng của kẻ phản quốc hại gia, lầm đường lạc lối.