Chương 7 Vượt biển vào nam, Nhân Tông sảng khoái đề thơ
Trẩy quân ra bắc, Thoát Hoan phập phồng kế sách
Lại nói về Thượng hoàng và Quan gia lúc chuẩn bị vượt biển vào Ái châu.
Trước đây một ngày, Hưng Đạo Vương đã điều lực lượng mạnh giỏi nhất của vùng Hải Đông, Vân Trà và Ba Điểm' làm đội ngũ tiên phong cưỡi trên hai trăm chiến thuyền mở đường vào Thanh Hóa. Nhìn các thuyền lũ lượt rời bến, nhị hoàng và các vương thảy đều vui mừng. Thượng hoàng Thánh Tông truyền dạy:
– Quân ta ngày mỗi đông, thế nước đang trỗi dậy, ở phía bắc có Tiết chế đầu lĩnh, ở phía nam có Thái sự trợ thủ, nên trẫm rất an tâm. Các khanh hãy bàn tính kỹ càng nước cờ chiếu bí, chớ chần chừ khi thời cơ đến, cần quyết liệt tung đòn sát phạt đập cho chúng tơi bời khiến không thể ngóc đầu lên nổi mà buộc phải tháo chạy về nước, bấy giờ ta mới có thể lấy lại giang sơn cho hoàng thượng.
Chiêu Minh Trần Quang Khải trình tấu:
– Thần cùng với Quốc Tuấn và các tướng họp bàn cả đêm, đã nhận định cuối tháng tư là thời điểm thuận lợi để tổng phản công, trong vòng hai tháng sẽ dứt khoát thu hồi sơn hà xã tắc.
Hưng Đạo Trần Quốc Tuấn nói rõ thêm:
– Muốn được vậy phải đánh mạnh vào tuyến đường tải lương của giặc. Theo tin tức thám báo, hiện chúng đang thiếu lương trầm trọng nên ra sức cướp bóc nhưng vẫn không bù nổi chỗ thiếu hụt. Thần đã sai dân binh các đạo ngày đêm quấy phá các đoàn xe lương của chúng, nếu cướp được thì tốt, bằng không phải tìm cách tiêu hủy, trên bộ thì dùng lửa đốt, dưới sông thì dùng nước nhấn chìm.
Nhân Tông hỏi:
– Theo các khanh, địch sẽ đối phó với ta thế nào?
Quang Khải đáp:
– Nghe tin nhị hoàng vào Thanh Hóa, tất Thoát Hoan sẽ điều quân đến đánh, có khả năng chúng dùng quân của Toa Đô chứ không dám kéo quân từ bắc vào. Lực lượng của ta ở Hoan Ái đủ sức chống lại, ngoài số quân tháp tùng các vua chuyến này, thêm quân của Nhật Duật và Quốc Khang thì ta có đến mười mấy vạn tinh binh. Quốc Tuấn dự kiến uy hiếp Thăng Long buộc địch phải kéo giãn đội hình, nếu chúng dàn mỏng ta càng dễ đánh.
Hưng Đạo phân tích cụ thể:
– Đề phòng giặc đưa lực lượng lớn vào Thanh Hóa, thần đã sai Minh Hiến Vương Uất, Hưng Vũ Vương Nghiễn và Hưng Nhượng Vương Tảng mỗi người chỉ huy một vạn quân đi đánh phá các đồn trại quanh Thăng Long, bấy giờ Thoát Hoan phải lo chống trả mà không thể đem quân hỗ trợ Toa Đô. Nếu y kéo về giữ Thăng Long thì đã lọt vào kế của ta, với lực lượng hơn ba chục vạn mà dàn trải từ Thiên Trường đến Long thành thì chỗ nào cũng yếu, đấy là lúc ta khởi sự phản công.
Có quân hiệu từ Tam Trĩ trở về báo cáo tình hình chiến cuộc “Giặc vây bắt thuyền ngự mà không có vua lại bị chết chìm vô số, quân của Nhân Huệ Vương thiêu cháy nhiều thuyền chiến của chúng, giặc cậy đông tràn tới vây hãm, vương cho rút quân, bỏ lại đội thuyền tam bản cũ kỹ. Bọn Lý Hằng chiếm được nhưng loay hoay chẳng biết dùng vào việc gì bèn sai quân hò nhau khiêng lên bờ đốt bỏ”.
Rõ ràng quân Nguyên đang bí thế, nước cờ của chúng hoàn toàn bị động, chỉ biết lúng túng đối phó theo cái kiểu xử lý đống thuyền của ta, dùng chẳng được, giữ không xuể, đành tốn công tốn của đem đốt. Các vua vô cùng phấn chấn, niềm tin đại cuộc hanh thông tràn ngập trong lòng, quân thần nói cười vui vẻ mà không câu nệ lễ nghĩa vụn vặt, trong mắt mỗi người đều ánh lên sự hào sảng về ý chí tất thắng trong cuộc chiến ngày mai.
Lúc vua tôi tạm biệt nhau, hoàng thượng Nhân Tông vô cùng phấn khởi, thi hứng trỗi dậy, ngài sai lấy nghiền bút rồi sảng khoái đề lên đuôi thuyền hai câu thơ:
Cối Kê chuyện cũ người nên nhớ
Hoan Ái đương còn chục vạn quân.
Bọn Lý Hằng và Giảo Kỳ trở về Thiên Trường bẩm báo “suýt bắt được thế tử”, Thoát Hoan nói mỉa “Cha con y đã chạy vào Thanh Hóa. Chắc các ngươi suýt bắt được cái bóng”.
A Lý Hải Nha đề nghị:
– Bây giờ là lúc nên sai Toa Đô quay vào Thanh Hóa vây bắt chúa An Nam.
Thoát Hoan nói:
– Ta cũng đã nghĩ đến việc này nhưng chỉ sợ y không đủ binh lực. Nếu đem quân vào tăng viện thì ngoài này lại thiếu hụt, nếu để y tự xoay xở thì mang tiếng bỏ mặc thuộc tướng.
A Lý Hải Nha nói:
Đại vương và các tướng ở đây cả thảy có ba lăm vạn quân nhưng phải chiếm đóng một vùng lãnh thổ rộng hơn mười lần Thanh Hóa. Toa Đô có bảy vạn quân, như vậy đâu có thiếu binh lực. Bọn Quốc Tuấn đang hoành hành ở các vùng quanh Thắng Long, đây mới là nơi ta cần tăng viện.
Khoan Triệt bày mưu:
– Nếu ngài sợ mang tiếng thì bổ sung cho y một số quân tượng trưng thôi.
Thoát Hoan chấp thuận, bèn truyền lệnh:
– Sai Ô Mã Nhi tức khắc dẫn theo một ngàn ba trăm quân dùng sáu mươi chiến thuyền đến Trường Yên. Khi gặp Toa Đô thì cùng với y kéo vào Thanh Hóa đánh bọn thế tử.
Mã Nhi nhận lệnh liền đi ngay. Tại quân doanh, thấy chủ tướng mặt hằm hằm, tên thuộc hạ thân tín hỏi nguyên do, y hậm Thực nói:
– Ta thân mang chúc Vạn hộ mà nay đại vương chỉ giao hơn ngàn quân bảo kéo vào Thanh Hóa trợ chiến cho Toa Đô. Thử hỏi với một nhúm quân thì đánh đấm gì? Cũng tại gã Khoan Triệt xúi giục, còn vương thì mù mờ việc binh nên ai nói gì cũng nghe.
Lúc ở Trường Yên, khi nghe Ô Mã Nhi truyền lệnh của chủ soái, Toa Đô tỏ vẻ bực bội. Y phàn nàn:
– Quân ta đói rã họng nhưng xin lương thì không cho, bây giờ sức đâu mà đánh trận? Sai người vào tăng viện mà chỉ cấp cho ngần ấy binh thuyền thì có khác nào trò đùa.
Mã Nhi cũng than thở:
– Ngài và tôi chẳng thể chống lại quân lệnh. Dưới trường đại vương, dù trong lòng tức anh ách nhưng vẫn phải phục tùng. Cũng tại số mình hẩm hiu làm thuộc tướng cho người có tầm nhìn không quá ba bước chân.
Nói cho sướng mồm thế thôi, hai gã chiến tướng Mông Cổ không còn cách nào khác ngoài việc trẩy quân vào Thanh Hóa đánh vua Trần. Toa Đô tự an ủi trong lòng “Hy vọng vào đấy kiếm chác được lương thực chống đói, ăn thịt ngựa mòn răng rồi, chán lắm”.
Một buổi sáng, Thoát Hoan cho triệu tập tướng lĩnh khẩn cấp vào bản doanh. Bọn quân hiệu cho hay, chẳng biết vì chuyện gì mà Trấn Nam Vương đang nổi cơn thịnh nộ, hất bàn quăng chén lung tung, còn sai lôi cổ mấy viên hầu cận ra sân đánh đòn. Đám đầu lĩnh các quân rục rịch kéo tới, tuy không nói ra nhưng ai cũng đoán chừng sự việc có thể liên quan đến tờ hịch của Trần gia. Riêng Giáo Kỳ cáo ốm không đến, y hổ thẹn khi gặp người khác, sợ chúng giễu cợt địa vị “dở ông dở thằng” của mình.
Số là hai bữa nay các tướng thường bắt gặp bọn lính túm năm tụm bảy nhìn mình bằng ánh mắt khác hẳn, hình như chúng đang cố nín nhịn để khỏi bật cười sằng sặc. Bị chủ tướng cật vấn tra xét, bấy giờ chúng mới lòi ra tờ hịch cay độc được dán khắp nơi quanh vùng đóng quân. Đọc xong tờ hịch, mấy gã bị “điểm danh” đỏ mặt tía tai rồi giận cá chém thớt nọc đám lính cười thầm ra đánh vì cái tội coi thường thượng cấp. Những viên tướng không có tên trong hịch thì cười hô hố ra cái điều thích thú. Có gã ít chữ còn sai lính đi kiếm người địa phương về trại để bắt họ giải thích ý nghĩa sâu xa của các thành ngữ được sử dụng trong lời hịch. Sự việc chỉ có thế, nhưng chẳng viên tướng nào dại dột lẻo mồm trình báo với chủ soái kẻo lại bị đại vương trút giận vào người.
Tại soái phủ, Thoát Hoan ngồi sau án thư giữa sảnh, mặt sưng sĩa như bố vợ phải đấm, tay phe phẩy tờ hịch, miệng quát lác inh ỏi:
– Tại sao không ai báo cho ta việc này. Các ngươi có hàng vạn quân mà để chúng dán hịch bêu riếu quanh nơi trú đóng lại không hay biết gì sao? Ta đang tự hỏi có kẻ nào xứng đáng làm thuộc tướng của mình không? Vô dụng, vô dụng quá.
Đám chư tướng im thin thít, không gã nào dám bạo gan thưa thốt khi đại vương đang bốc lửa trong đầu. Thoát Hoan lồng lộn đi xuống, nhìn tận mặt từng viên chiến tướng rồi rống lên:
– Sao không ai mở miệng cả, hay là cảm thấy nhục nên hóa câm rồi? A Lý Hải Nha lên tiếng trước đi.
Bị chỉ đích danh, gã Bình chương ấp úng nói:
Tại hạ mới biết sự việc trong sáng nay... cũng tức lắm chứ nhưng cố nén giận để trong quân đỡ xáo trộn, khiến họ tin rằng... chủ tướng chỉ coi đây là một tờ giấy lộn.
Y nói thế cho ra vẻ mình là tay bản lĩnh nên chẳng thèm quan tâm đến mấy trò khiêu khích kém cỏi của đối phương, nhưng lại là đi chuyện hôm qua đấm đá tơi bời ba tên lính rồi bỏ đói một ngày vì cái lỗi cười không ra tiếng.
Thoát Hoan lại hỏi:
– Còn Lý Hằng thì sao?
Do đã nghĩ cách nói trong đầu, viên Tả thừa lên giọng hùng hồn:
– Chiêu thức trẻ con, đại vương chớ bận tâm làm gì. Ty chức cũng bị chúng ví như chuột, có sao đâu.
Hôm qua Lý Hằng bạt tai năm tên lính hầu rồi sai nhốt vào quân lao vì bắt gặp chúng đang thắc mắc với nhau về việc con chuột chạy đến cuối sào phơi đồ thì nó sẽ đi đâu nữa?
Thấy bọn Đường Ngột Đãi, Bột La Hợp Đáp Nhĩ và Sát Tháp Nhi
Đài đang cắn môi nhín cười khi nghe Lý Hằng nhắc đến từ “chuột”, Thoát Hoan lại nổi nóng quát ầm:
Các ngươi vui lắm hay sao mà muốn cười? Sát Tháp Nhi Đài giải thích cho ta biết tại sao lại “lấy thúng úp voi”, nếu không nói được thì hạ cấp làm Thiên hộ.
Sát Tháp Nhi Đài hoảng quá, vừa sợ tuột chức vừa sợ đại vương mếch lòng. Cũng may hôm qua được người địa phương giải nghĩa cho câu này, y đánh liều lên tiếng:
– Thúng thì quá nhỏ, voi thì quá to. Chỉ việc làm thiếu tính toán, vượt quá khả năng nên không hiệu quả. Hoặc về việc che đậy, bưng bít một chuyện tày đình bằng lý lẽ sơ hở. Nói chung là...
– Thôi thôi ta hiểu rồi, không cần nói chung nữa. – Thoát Hoan chặn ngang họng Sát Tháp Nhi Đài, y thấy dại khi bắt thuộc tướng giải nghĩa về một câu ám chỉ mình.
Bấy giờ Nạp Tốc Lạt Đinh lên tiếng:
– Theo tại hạ, mấy từ miệt thị không đáng bàn, điều cần quan tâm là chỉ dụ của gã thế tử trong hịch.
Thoát Hoan hỏi:
– Chỉ dụ gì, ngươi nói rõ xem nào?
Nạp Tốc Lạt Định giải thích:
– Chúng chiêu dụ bọn đầu hàng quay về đội ngũ, chẳng những miễn tội còn được phục chức, nếu lập Công đánh giết quân tướng thiên triều thì thăng cấp, khen thưởng. Đám quan tướng về hàng đều là kẻ yếu đuối, hay dao động tinh thần, khi thế ta mạnh thì chúng ngả theo ta, nay ta không được thuận lợi như trước, bọn Trần gia lại có phần khôi phục uy danh, nếu chúng nao núng mà theo về chủ cũ thì khác nào ta nuôi ong tay áo.
Khoan Triệt hưởng ứng:
– Phải đấy, bọn này khó lường lắm. Còn phải nuôi tốn cơm tốn gạo, trong khi quân ta đang thiếu ăn. Hôm trước Trần Tú Hoãn phàn nàn với tại hạ về việc cấp hụt lượng, gia quyến và thuộc hạ của y có gần hai trăm người mà chỉ được một trăm năm mươi phần lương thực, buộc hắn phải đuổi bớt tôi tớ ra ngoài tự kiếm ăn.
A Lý Hải Nha chẳng ưa gì Nạp Tốc Lạt Đinh nhưng cũng phải lên tiếng cảnh tỉnh chủ soái:
– Cả thảy chúng có gần ngàn cái miệng, hằng ngày chỉ biết đến lĩnh lương mà chẳng giúp ích được gì, đúng là tội nợ. Nhất là bọn Hán tộc, vừa phàm ăn vừa hay phản phúc. Chúng đã ba lần đổi chủ, biết đâu lại muốn đổi lần nữa.
Thoát Hoan hỏi:
– Theo các ngươi nên giải quyết thế nào cho hợp lý?
Lý Hằng kiến nghị:
– Tránh đêm dài lắm mộng, cứ tống cả đám sang Nguyên là xong chuyện. Vừa đỡ lo bị đâm sau lưng vừa đỡ tốn lương, đại vương cũng có dịp báo công với thiên tử về chiến tích thu phục nhân tài.
Thoát Hoan chấp nhận, bèn sai khiến:
– Ta giao cho Minh Lý Tích Ban đảm trách việc này. Ngươi hãy chuẩn bị ngựa xe, khi có lệnh thì dẫn theo một ngàn quân đưa bọn quy phục về Nguyên.
Thấy Minh Lý Tích Ban tươi cười hớn hở, Mãng Cổ Thái nói nhỏ với Lưu Khuê “Số nó tốt hơn mình, được về nước coi như toàn mạng”. Lưu Khuê đáp “Chưa chắc. Nó phải đi một chặng đường dài, còn ở trên đất An Nam dù chỉ cách biên giới ba bước chân chưa hẳn đã giữ được mạng”.
Thấy tiếng nói của mình trọng lượng hơn trước, Nạp Tốc Lạt Đinh hý hửng nghĩ thêm chuyện thưa thốt để chứng tỏ là người sâu sắc:
– Bọn thế tử có nhắc đến tháng tư và tháng năm, theo tại hạ đây cũng là điều nên bàn, vấn đề lương thảo và khí hậu nóng nực vào mùa hạ có thể ảnh hưởng xấu đến đại cuộc.
Thấy chủ soái cau mặt, còn các tướng nhìn y bằng ánh mắt khó chịu, Nạp Tốc Lạt Đinh biết mình dại mồm, nhưng lỡ nói ra rồi thì đành chấp nhận thách thức.
Quả nhiên, Thoát Hoan gằn giọng mắng viên chủ tướng đạo quân Vân Nam:
– Ngươi mở mồm ra chỉ toàn nói điều gở. Đã vào hạ đâu mà biết nóng, lương ăn của ta có thiếu nhưng không cạn sạch, bọn thế tử mới hù dọa mà đã lo sốt vó rồi. Nếu làm to chuyện khiến binh sĩ hoang mang là trúng kế của địch.
Lỡ đâm lao phải theo lao, Nạp Tốc Lạt Định cố biện bạch để vớt vát thể diện:
– Việc này đáng bàn lắm chứ. Tại hạ nói vậy cốt mong ngài tính toán đường lối cho phù hợp. Tuyến vận lương từ biên giới đến Thiên Trường quá dài, dọc đường bị đánh cướp, rơi vãi nên hao hụt hơn nữa. Muốn quân không bị đói thì ta nên rút về gần nơi cấp lương. Sắp vào hè rồi, đại vương cần tấu xin triều đình cấp áo mỏng cho binh sĩ, bây giờ họ đang đóng bộ mùa đông dày cộp, nếu không chuẩn bị trước thì quân ta sẽ cởi trần hết.
Điều Nạp Tốc Lạt Định nói không phải không có lý, cho dù rất ghét nhắc đến chữ “đói” nhưng A Lý Hải Nha đành phải lên tiếng ủng hộ:
– Theo ý tại hạ, đại quân đóng ở Thiên Trường quả là bất tiện cho việc chuyển lương, chi bằng kéo về Thăng Long, như vậy sẽ rút ngắn được một phần ba quãng đường. Nhưng ta không bỏ Thiên Trường, vẫn để lại vài ba vạn quân trấn giữ, lúc cần thiết thì đem quân từ Long thành xuống ứng phó.
Khoan Triệt góp lời:
– Đại vương kéo quân về Thăng Long là thượng sách, vừa gần đường vận lương vừa tránh nắng. Ở đây chật chội quá còn kinh thành An Nam lại rộng rãi thoáng mát, vào mùa hạ không sợ nóng bức.
Lý Hằng phản bác:
– Không nên rút đại quân về Long thành. Nên cử một đạo quân mạnh bảo vệ tuyến đường vận lương, ta cố thủ ở Thiên Trường thì lực lượng không bị phân tán, vừa chặn đường tiến quân của thế tử vừa cản bước bọn Quốc Tuấn lấy lại các vùng duyên hải.
Đường Ngột Đãi bắt bẻ:
– Lý tướng quân nói vậy là không nắm vững tình hình hiện thời. Ở phía nam có Toa Đô cản đường, thế tử khó mà tiến ra. Bọn Quốc Tuấn đang rục rịch thu hồi kinh đô, nên chắc không đánh vào vùng ven biển Kiến Xương, Thiên Trường.
Thoát Hoan nói:
– Người muốn rút đi, kẻ muốn ở lại, ý kiến của mấy người cứ rối mù lên làm ta cũng phân vân khó quyết. Bây giờ ta muốn hỏi, giả sử đại quân rút về Thăng Long thì Thiên Trường nên giao cho ai cai quản?
Các tướng đều né cái nhìn của chủ soái. Rồi như chúng khẩu đồng từ, cửa miệng của A Lý Hải Nha, Khoan Triệt, Lý Hằng và Nạp Tốc Lạt Đinh cùng bật ra cái tên:
– Giảo Kỳ.
Không gã to đầu nào muốn ở lại, chúng lo một khi đại quân kéo về Thăng Long thì lương thực cũng dồn về đấy cả, bấy giờ quân tướng Thiên Trường lại dài cổ trông ngóng cái ăn như Toa Đô ở Trường Yên dạo trước.
Thoát Hoan im lặng, chưa quyết. Y thừa biết chẳng qua Giảo Kỳ vắng mặt nên bọn họ đồng lòng xúi bẩy giao Thiên Trường cho lão thân vương văn dốt vũ dát. Riêng Đường Ngột Đãi thấy chột dạ, gã sợ rằng nếu đại vương sai Giảo Kỳ trấn giữ Thiên Trường thì dễ có tên mình đi kèm “Cùng là đầu lĩnh từ phương nam kéo lên, nhưng Giảo Kỳ không rành việc quân, tất vương phải cử người trợ lực, người ấy chẳng ai hợp bằng ta, như vậy lại khốn khổ rồi. Phải tìm cách né tránh thôi”.
Thoát Hoan lại hỏi:
– Nếu về Thăng Long thì nên đóng ở ngoài thành hay trong thành?
Khoan Triệt nói:
– Đại vương nên vào trong thành, cung điện của An Nam cũng rất bề thế. Trời đang nóng dần, ở ngoài thành thì phải dựng lều trại, sẽ ngột ngạt lắm.
Thoát Hoan nói:
– Lần trước ghé vào hoàng cung của chúng, ta thấy sởn da gà như bị ma ám. Bây giờ lại vào đấy ở chẳng biết có ngủ được không?
Chớp thời cơ, Đường Ngột Đãi lên tiếng:
– Tại hạ có mấy năm chinh chiến Chiêm Thành nên học được thuật xua tà đuổi ma. Nếu đại vương tín nhiệm thì tôi xin dẫn quân về Thăng Long trước để dọn dẹp cho phong quang, cúng bái cho yên ổn, bấy giờ ngài đến ở sẽ không phải lo ngại gì nữa.
Thoát Hoan có vẻ hài lòng nhưng vẫn chưa quyết, lại hỏi thêm:
– Giảo Kỳ không giỏi việc binh, nếu giao cho y giữ Thiên Trường thì cần có tướng tài trợ thủ, vậy ai có thể đảm đương việc này?
Đường Ngột Đãi nhanh nhảu đáp:
– Nên cử Vạn hộ Lưu Khuê. Suốt cuộc trường chinh từ Chiêm Thành ra đến đây, Lưu Khuê đắc lực trợ giúp cho Giảo Kỳ, hai người rất hợp nhau.
Đứng ở hàng cuối, Lưu Khuê sa sầm mặt, y chẳng ngờ nổi gã thượng cấp tùng vào sinh ra tử với mình chỉ vì muốn thoát thân mà giở trò đề cử “người tài” vào ngõ cụt. Khuê nghĩ “Đường Ngột Đãi thủ đoạn quá, sợ phải ở lại Thiên Trường nên bịa chuyện học được thuật xua tà đuổi ma để lường gạt gã đại vương yếu bóng vía”.
Thoát Hoan vẫn chưa quyết, lại hỏi nữa:
– Cần hai đội quân tả hữu trấn giữ dọc sông Hồng tạo thế ỷ giốc giữa Thăng Long và Thiên Trường, nên chọn ai?
A Lý Hải Nha gợi ý:
– Tả quân nên giao cho Bột La Hợp Đáp Nhĩ, hữu quân nên giao cho Sát Tháp Nhi Đài. Họ đều là những chiến tướng giỏi cơ động, ứng biến linh hoạt, thao lược trên chiến trường.
Bấy giờ Trấn Nam Vương mới truyền lệnh:
– Ta không thật an tâm với kế sách kéo đại quân về Thăng Long, nhưng thấy phần đông các người ủng hộ nên cũng xiêu lòng. Vậy nay giao cho Giảo Kỳ làm chủ tướng, Lưu Khuê làm phó tướng thống lĩnh ba vạn quân trấn thủ Thiên Trường. Bột La Hợp Đáp Nhĩ chỉ huy hai vạn quân cánh tả, Sát Tháp Nhi Đài chỉ huy hai vạn quân cánh hữu, trấn giữ dọc sông Hồng từ lộ Quốc Oai cho đến Khoái Châu. Đường Ngột Đãi dẫn một vạn quân tiên phong kéo về Thăng Long dọn dẹp. Mãng Cổ Thái dẫn một vạn quân tiếp ứng cho Lý Bang Hiến và Lưu Thế Anh bảo vệ tuyến đường vận chuyển lương thực. Các đầu lĩnh khác sẽ cùng ta chỉ huy đại quân khởi hành về trú đóng tại Thăng Long trong năm ngày tới.
Đội binh thuyền của Tả Thiên Vương Trần Đức Việp và Văn Túc Vương Trần Đạo Tái tiên phong mở đường không gặp bất cứ trở ngại nào, sau hơn một ngày lênh đênh trên biển đã cập bờ Thanh Hóa bình yên. Các tướng khẩn trương thiết lập trận địa phòng thủ tại cửa biển để bảo vệ bến bãi, chuẩn bị đón đại quân của nhị hoàng sẽ đến trong vài ngày tới. Được hoàng thượng phó thác, họ sai quân hiệu phi ngựa vào Hoan Diễn truyền lệnh của Quan gia cho Tĩnh Quốc Vương Trần Quốc Khang và Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật.
Nhận được chỉ dụ tiến quân ra Thanh Hóa, các vương ở Hoan Diễn bàn bạc với nhau. Chiêu Văn nói:
– Không thể kéo ra cả. Phải có người ở lại trấn giữ. Tĩnh Quốc đã nhiều năm quản lý đất này, vậy huynh nên ở lại, còn đệ và Hưng Ninh ra Thanh Hóa hội quân với Quan gia.
Hưng Ninh nói:
– Như vậy là hợp lý. Ngoài Hoan Diễn, Tĩnh Quốc còn phải trông chừng cả Bố Chính, trọng trách cũng rất nặng nề.
Từ ngày xảy chuyện Trần Kiện hàng giặc rồi dẫn đường cho chúng đánh dẹp quân ta, Quốc Khang trở nên trầm lắng hẳn, ít xuất hiện chỗ đông người, nếu không có việc hệ trọng thì không muốn tiếp khách. Chiêu Văn và Hưng Ninh hiểu được lòng của người cha có đứa con phản phúc, họ cảm thông nên gợi ý để Tĩnh Quốc không phải mang theo mặc cảm ra Thanh Hóa trình diện nhị hoàng mà ở lại tĩnh tâm trên vùng đất thân thuộc của ngài.
Quốc Khang nói:
– Vậy cũng được. Sức khỏe ta dạo này không được như trước, đành ngồi một chỗ trống đất thôi. Các vương ra đến ngoài đấy, bái lạy nhị hoàng thay ta.
Quốc Tung đề nghị:
– Theo ta đoán định, chuyến này tập trung lực lượng ra Ái Châu để chuẩn bị phản công. Nay quân của Chiêu Văn đã tăng lên hai vạn, nếu bổ sung thêm thì càng tốt. Tĩnh Quốc có thể cho bọn ta mượn bớt quân của ngài không?
Quốc Khang chấp thuận liền:
– Hiện quân của ta có tới hai vạn tám. Chiêm Thành suy kiệt sau chiến tranh không đủ sức quấy phá biên giới, chỉ cần hai ngàn quân trấn thủ Bộ Chính là được. Một vạn sáu chia nhau giữ Hoan Châu và Diễn Châu cũng tạm ổn. Như vậy còn dư ra một vạn, ta giao cho hai người.
Nhật Duật và Quốc Tung mừng lắm. Các vương bái biệt nhau qua ánh mắt chứa chan cảm xúc, kẻ ở người đi cùng đồng vọng về một ngày không xa non sông rộn rã khải hoàn, một giải bắc nam sạch làu bóng giặc.
Nghe tin chuẩn bị lên đường bắc tiến, Phạm Thái và Lô Viên Dụng vui như mở hội, hơn tháng trời ăn không ngồi rồi khiến các chàng trai bứt rứt khó chịu. Là thành viên của đội thám báo, họ không phải huấn luyện tân binh, nhưng cả một vùng không có giặc nên chẳng cần điều nghiên, trinh sát cái gì cả, thành thử sự nhàn hạ đôi khi lại khiến hai người có cảm giác mệt mỏi hơn lúc đánh trận. Ban ngày cứ nghĩ ra việc để làm, có khi rủ nhau tập dợt vài chiêu thức võ thuật, có khi xăng xái xin suất cưỡi ngựa truyền tin của quân hiệu, cũng có khi vào các xóm xung quanh trợ giúp nông dân công việc đồng áng. Đêm về là buồn chán, ngủ hoài cũng thấy mệt, còn thức lại chẳng biết làm gì.
Phạm Thái là người hay suy tưởng nên nghĩ ra trò vẽ vời tương lai để giết thời gian. Chàng ta mơ mộng, nếu trời cho sống sót, sau cuộc chiến sẽ làm một chuyến hành trình thăm viếng những người thân thương. Trước tiên phải ghé Cơ Xá để thỉnh an nghĩa phụ, nghĩa mẫu và đến chào nàng thiếu nữ hôn thê tội nghiệp của Thành huynh. Tiếp đến sẽ lên Lộc Châu để cảm tạ chủ trại Lô Viên Tả và bà con miền núi đã cứu mình trong cơn hoạn nạn. Sau nữa tìm cách vượt biên giới đến thôn Mai Lâm thăm cụ Tào và Thanh Khê. Trải qua cuộc chiến tàn khốc, chẳng biết ai còn ai mất, nhưng dứt khoát phải đi thì lòng mới nhẹ nhõm được. Rồi chàng lại lăn tăn nghĩ ngợi, chuyến đi như thế sẽ mất nhiều tháng, liệu Hưng Đạo Vương có chấp thuận cho không? Đã nguyền gắn bó một đời với Thanh Khê, nếu cụ Tào còn sống thì nàng không thể theo mình về Đại Việt, khi ấy nên làm sao cho trọn tình vẹn lý? Cứ thế, những dự kiến được hình thành rồi chỉnh lại, những câu hỏi được bày ra rồi thu vào... cho đến lúc đôi mắt trĩu xuống, Phạm Thái ngủ một giấc say sưa tới sáng bạch.
Lô Viên Dụng là người đơn giản như bản tính vốn có của đồng bào vùng cao, cậu cứ tưởng sẽ được gặp lại anh em Vạn Kiếp trong nay mai nên hồ hởi nói với Phạm Thái:
– Chuyến này nếu gặp đội ngũ của Hưng Đạo Vương, huynh đệ ta xin ở lại luôn nhé.
Phạm Thái đáp:
– Tất nhiên, bọn mình là quân của Vạn Kiếp, khi có điều kiện thì phải về thôi. Nhưng thật tình huynh thấy hơi buồn, gắn bó với anh em ở đây cũng lâu rồi, phải chia tay họ thì nao lòng lắm.
Nghe Thái nói vậy, Dụng ngồi đần mặt, miệng lẩm bẩm:
– Ừ nhỉ, sao mình vô tâm thế, huynh đệ trong đội thám mã của đội trưởng Hứa có khác gì ruột thịt đâu.
Viên Dụng vừa nhắc đến vị chỉ huy của mình thì đã thấy ông đứng lù lù phía trước. Hứa Tông Đạo tới gần các chàng trai, cười nói vui vẻ!
– Các đệ chuẩn bị ngựa và gói ghém hành trang xong chưa? Mai ta cùng quân tiên phong khởi hành vào giờ mão. Ngồi không lâu ngày người ngợm ngứa ngáy quá, sắp được rong ruổi trên mình ngựa tự nhiên thấy phấn chấn hẳn lên.
Phạm Thái đáp:
– Đại ca yên tâm, bọn đệ chuẩn bị xong xuôi cả rồi.
Thái thật lòng quý trọng Hứa Tông Đạo, nhất là tinh thần tranh đấu vì giang sơn Đại Việt mà không nề hà mình là người ngoại tộc. Nếu phải trở về đội ngũ Vạn Kiếp, hình ảnh của ông ấy sẽ ở mãi trong tâm khảm của chàng.
Cuối tháng ba, đạo binh thuyền năm trăm chiếc của nhị hoàng cập bờ Thanh Hóa, Nhân Tông sai các tướng đem quân trấn giữ những nơi hiểm yếu. Đến mồng ba tháng tư, Trần Nhật Duật và Trần Quốc Tung dẫn quân từ Hoan Diễn ra, vua tôi gặp gỡ khôn xiết vui mừng, cùng hồ hởi trước cục diện mỗi ngày mỗi sáng sủa, báo hiệu thời điểm phản công đã gần kề. Quân thần lại nghị bàn về kế sách đánh giặc.
Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải vắn tắt tình hình:
– Bọn Toa Đô và Ô Mã Nhi từ Trường Yên kéo vào đã dừng lại ở bờ bắc Lỗi Giang, đóng trại ven sông dài hơn mười dặm. Thần đã điều Tả Thiên Vương và Văn Túc Vương dẫn quân án ngữ bờ nam. Như vậy, giữa ta và địch hình thành phòng tuyến lấy dòng Lỗi Giang làm ranh giới. Không thấy giặc có động tĩnh gì bộc lộ ý định đánh sang bờ nam, có lẽ chúng ít thuyền nên chưa dám vượt sông. Về phần quân ta tuy binh thuyền rất mạnh nhưng muốn tiến sang bờ bắc cũng không dễ, do lau sậy um tùm, giặc có thể bày trận mai phục.
Nhân Tông gợi ý:
– Không nhất thiết đem đại quân đánh tràn qua, nên chăng cử những đội quân nhỏ lợi dụng đêm tối vượt sông tập kích vào trại địch rồi lại mau chóng rút về bờ nam.
Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật tán thành kế sách của hoàng thượng:
– Theo thần, mưu này dùng được. Chưa đến lúc tổng phản công thì ta cứ đánh trận nhỏ, làm tiêu hao lực lượng địch, khiến chúng sống dở chết dở, trước sau gì cũng phải tính đường rút quân.
Tả Thiên Vương Trần Đức Việp thỉnh cầu:
– Tối mai thần muốn lĩnh hai ngàn quân vượt sông tập kích vào trại giặc ở mé đông, xin hoàng thượng chuẩn y.
Nhân Tông nói:
– Ta cho khanh xung kích trận đầu, phải chắc thắng mới đánh, để khí thế của quân ta không suy giảm.
Đêm thượng huyền bầu trời âm u như hũ nút, từ hướng biển có hai chục chiếc thuyền ngược dòng Lỗi Giang cập sát vào bãi lau sậy. Các chiến binh Đại Việt âm thầm rời thuyền, lội nước luồn qua đám cây cao lút người, vừa tới bờ thì toán quân đi đầu chạm trán đội tuần tiễu của giặc. Đức Việp ứng phó kịp thời, lệnh cho vài trăm tráng sĩ bao vây tiêu diệt ba chục tên địch, chỉ có một tên chạy thục mạng về trại. Yếu tố bất ngờ không còn, vương dẫn toàn đội bám theo thằng giặc, xông thẳng tới trại Mông Thát.
Tiếng huyên náo từ xa vọng lại khiến đám lính canh cảnh giác, nổi lệnh báo động. Cả ngày đi cướp bóc, tối về vừa đói vừa mệt, bọn lính đang ngủ lăn như chết thì bị khua dậy, mắt nhắm mắt mở vơ khí giới xông ra ngoài. Quân ta ập vào đánh giết. Sau cơn hoảng loạn, quân Nguyên co cụm lại, chống trả quyết liệt. Tả Thiên Vương vừa vung đao chém giặc vừa hét to “Cướp lửa đốt trại, chia quân giết ngựa”. Các chiến sĩ lăn xả vào mấy bó đuốc cắm trên sào giữa sân, giặc dùng giáo dài đâm xỉa, quân ta vung mã tấu chặt giáo, cướp cho được một bó đuốc. Trại giặc có mấy chục lều, một ngọn đuốc đốt cả dãy lều cháy rực. Vài chục chiến binh rời trại, bọc ra phía sau tìm giết bầy ngựa chiến. Hơn trăm con chiến mã trong bãi cột ngựa bị hạ sát bằng tên nỏ.
Gió táp lửa bỏng rát mặt, ta và địch buộc phải dãn quân ra xa. Thừa dịp chúng không thể phản công, Đức Việp cho rút quân. Một loáng sau, đoàn chiến binh xuất quỷ nhập thần mất hút trong màn đêm thăm thẳm. Khi các chiến sĩ đang lội nước về thuyền thì bọn kị binh Mộng Thát từ các trại xung quanh đổ đến ứng cứu, chúng phóng ngựa ra bờ sông truy sát quân ta. Phân nửa quân của Tả Thiên Vương Trần Đức Việp chưa kịp lên thuyền, tình hình trở nên khẩn cấp. Từ giữa dòng sông, bất ngờ có hàng ngàn mũi tên bắn cầu vồng lao vun vút xuống đội hình giặc. Nhiều kị mã Nguyên bị trúng tên ngã nhào, bọn còn lại chạy dạt khỏi bờ sông. Quân ta nhanh chóng lên thuyền rút qua bờ nam.
Thì ra khi Đức Việp dẫn quân đi rồi, Chiêu Minh Vương thấy không an tâm, bèn trực tiếp chỉ huy đội binh thuyền vài chục chiếc theo sau tiếp ứng. Ngài đậu thuyền giữa sông, sai binh sĩ chuẩn bị cung tên, sẵn sàng trợ chiến khi cần thiết. Quả nhiên, cung thủ của vương đã chặn đứng cuộc truy kích của kị binh giặc, nên quân của Đức Việp không bị tổn thất khi rút lui.
Qua ngày hôm sau, Văn Túc Vương Trần Đạo Tái xin Quan gia dẫn hai ngàn quân sang bờ bắc đánh úp trại giặc ở phía tây. Nhân Tông không chấp nhận, ngài bảo rằng:
– Đức Việp mới dùng cách này đốt trại Nguyên, tất chúng sẽ phòng bị, khanh phải dùng cách khác.
Hưng Ninh Vương gợi ý:
– Giặc có hơn năm chục chiến thuyền đậu bên bờ bắc, Văn Túc nên nghĩ cách diệt bớt.
Đạo Tái ngẫm nghĩ, rồi nói:
– Nếu mượn chiêu diệt thuyền của Nguyễn Khoái và Phạm Ngũ Lão thao diễn năm ngoái ở Đông Bộ Đầu thì khó thành công. Thuyền giặc đậu cả dãy dài, leo lên cận chiến cần nhiều quân, chi bằng dùng hóa công. Chỉ lấy một trăm quân là đủ.
Chiêu Minh Vương cho rằng:
– Dùng ít quân cần yếu tố bất ngờ, không tham đánh, nổi lửa xong là rút liền. Ta sẽ chuẩn bị một ít thuyền nhỏ náu trong bãi lau sậy, lúc cần sẽ hỗ trợ cho con.
Chiêu Văn Vương phàn nàn:
– Đêm qua huynh đã tham chiến rồi, đêm nay phải dành cho đệ chứ. Đạo Tái là con huynh nhưng cũng là cháu của đệ, trận này để dứt khoát giúp cháu.
Chiêu Minh phản đối:
– Không được. Cha còn thì chú không được tranh, để chờ dịp khác thôi.
Bất chợt Thánh Tông bước vào, cười vang mà rằng:
– Một bên là cha, một bên là chú, xét theo lý thì Quang Khải được ưu tiên, nhưng xét theo tình thì cũng nên để Nhật Duật trợ chiến cho Đạo Tái. Ruột rà keo sơn như thế quả là phúc lớn của Đông A. Nếu Lê Văn Hưu có ở đây thể nào y cũng ghi chép không sót một chữ câu nói của hai người.
Thượng hoàng thường xuất hiện đúng lúc, tuy lâu nay ít tham dự việc quân, nhưng ngài vẫn thấu hiểu mọi vấn đề và luôn bộc lộ cao kiến khi cần thiết. Bấy giờ vua tôi cùng sảng khoái cười, niềm vui tràn ngập ánh mắt những vị thủ lĩnh cùng huyết thống đang đồng tâm nỗ lực giải phóng non sông khỏi ách đô hộ của ngoại bang.
Buổi đêm, đầu giờ tý, có mười chiếc thuyền thoi, mỗi chiếc kéo một bè nứa chất đầy rơm rạ, men theo bãi lau sậy tiến về phía đoàn thuyền Mông Thát neo trước trung quân của Toa Đô. Theo sau đội thuyền thoi của Văn Túc chừng nửa dặm là đoàn thuyền trợ chiến của Chiêu Văn. Thuyền giặc đậu hai hàng, cách nhau chừng ba trượng, giữa hai thuyền bắc ván làm cầu qua lại; các mạn thuyền đều có lính canh và đèn đuốc chiếu sáng; Ở trên bờ san sát lều giặc, lính tuần tiễu qua lại như mắc cửi. Kịp lúc sương xuống nhiều nên ánh đèn trên thuyền không soi rõ mặt nước phía dưới.
Văn Túc Vương cho dừng lại cách đoàn thuyền của giặc hai trăm thước. Theo lệnh của chủ tướng, dây cột bè được tháo ra, mỗi thuyền có bốn người xuống nước đẩy bè về phía khoảng giữa hai lớp thuyền giặc. Một thuyền chở theo mười xạ thủ điêu luyện nhất tiến gần thuyền giặc chưa đầy một trăm thước, chuẩn bị nổi lửa và cung tên xạ kích. Những người còn lại trên chín chiếc thuyền sẵn sàng tay chèo, khi thấy bè nữa cháy rực thì lướt nhanh ra đón đồng đội.
Đêm sương mờ làm tầm nhìn hạn chế, bọn lính canh trên thuyền chỉ chú trọng quan sát động tĩnh ngoài sông nên chẳng hay biết có những chiếc bè chứa rơm khô đang lách vào giữa dãy thuyền của chúng. Hai chiếc bè đầu tiên dùng lại ở đôi thuyền thứ năm, các cảm tử quân cột bè vào cầu ván, hắt vò dầu lên rơm khô rồi nhanh chóng lăn ra xa. Cứ thế, lần lượt những chiếc bè được neo bám vào mười thuyền của giặc. Tình cờ, một tên lính Nguyên đi ngang qua cầu ván phát hiện thấy phía dưới có mảng tre chất đầy rơm bèn la toáng lên, bọn lính ào tới gỡ ván để đưa thuyền ra xa. Lúc ấy, phân nửa chiến binh đẩy bé chưa kịp vượt thoát khỏi khu vực thuyền giặc neo đậu.
Mưu kế sớm bị lộ, đang ở trên thuyền của cung thủ, Văn Túc Vương buộc phải cho xạ kích. Những mũi tên cột bùi nhùi lửa được các thiện xạ bắn tới tấp vào mấy chiếc bè chứa đầy chất dễ cháy, lửa bùng lên dữ dội, các thuyền giặc không kịp dời ra xa chẳng mấy chốc bị bám lửa, lại gặp gió đông thổi tới tạo thành một đám cháy khổng lồ. Nhiều tên giặc chết cháy trên thuyền, một số nhanh chân nhảy xuống nước liền bị các chiến binh lao tới nghênh chiến, họ vật lộn nhau trên mặt sông lạnh giá rồi cùng chìm nghỉm.
Lửa vừa bùng lên là chín chiếc thuyền thoi lao tới vớt những người lính đang bơi về. Bốn chiến thuyền cồng kềnh của giặc kịp gỡ cầu ván thoát được hỏa hoạn, bèn xuôi dòng truy kích đội thuyền bé tẹo của Văn Túc. Kịp lúc mười lăm chiếc thuyền của Chiêu Văn Vương kéo đến ứng cứu, giặc yếu thế quay đầu rút lui, quân ta dùng cung nỏ bắn đuổi. Lại thấy đám giặc trên bờ bắn tên về phía đội thuyền thoi, Nhật Duật cho áp thuyền sát bờ, sai cung thủ bắn trả, buộc chúng phải lui ra xa.
Vốn dĩ trại của Ô Mã Nhi đóng sát đội tàu, nghe tiếng la hét, y choàng tỉnh dậy chạy ra ngoài đã thấy lửa cháy rực một góc sông. Viên chiến tướng không kịp thay giáp trận, cứ thế xách đao hò quân kéo ra tiếp ứng. Nhìn đoàn thuyền nhỏ của ta đang tháo lui, Mã Nhi cho quân dùng cung xạ tiễn, nhiều chiến sĩ ta bị trúng tên, trong đấy có Văn Túc Vương Trần Đạo Tái.
Sáu thuyền giặc bị thiêu rụi, hàng trăm tên lính Nguyên chất cháy hoặc chết chìm. Trong số bốn mươi cảm tử quân kéo bè, mười hai người đã không thể trở về đội ngũ. Những chiến binh bị bọn Ô Mã Nhi bắn trúng có bảy người tử trận. Văn Túc Vương bị một mũi tên cắm ngang sườn, tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng phải trị thương nhiều ngày. Ông là con trai trưởng của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, từ bé đã nổi tiếng thông minh, giỏi thơ phú, được vua Nhân Tông rất yêu quý, nhưng qua đời khi còn khá trẻ, có lẽ do di chứng từ vết thương trong trận chiến bên dòng Lỗi Giang đầu tháng tư năm Ất Dậu.
Ngày mồng sáu tháng tư, đội thám mã của Hứa Tông Đạo theo lệnh chủ tướng vượt sông theo dõi động tĩnh của giặc. Nửa đêm họ phát hiện một đạo quân đông hàng vạn người lặng lẽ rời trại đi ngược lên phía thượng nguồn. Tông Đạo cử hai chiến binh bơi qua sông cấp báo, lại cử Phạm Thái và Lô Viên Dũng tiếp tục theo dõi tình hình số quân địch không di chuyển, còn ông và năm chiến binh khác tiếp tục bám theo giặc.
Nhận được tin, ngay trong đêm Nhật Duật phóng ngựa đi gặp Quang Khải. Hai vương phán đoán có thể giặc âm mưu đưa quân qua Lỗi Giang, để tránh bị phát hiện và không gặp trở ngại lúc vượt sông, chúng phải di chuyển lên thượng nguồn tìm khúc sông hẹp hơn, khi sang được bờ nam sẽ bất ngờ tấn công quân ta. Khả năng sớm nhất là vào đêm mai chúng mới có thể mở màn cuộc tấn công, nên các vương không muốn làm kinh động nhị hoàng, chờ trời sáng sẽ họp bàn với Quan gia và các tướng.
Quả nhiên như dự đoán của các thủ lĩnh Đại Việt, đạo binh giặc dừng lại ở khúc sông hẹp cách nơi xuất phát năm mươi dặm rồi cho quân đốn gỗ, xẻ ván làm cầu phao. Đã nắm được ý đồ của chúng, Hứa Tông Đạo cử hai chiến sĩ quay về cấp báo, ông và ba người ở lại theo dõi tình hình đóng cầu của bọn Mông Thát.
Thái và Dụng náu mình trong bụi rậm cả đêm, đến tận trưa ngày hôm sau thấy bọn giặc bắc ván dắt ngựa xuống thuyền, đoán biết quân Nguyên dùng thuyền chở kị binh qua sông, hai chàng trai rời vị trí, đến khúc sông vắng bơi sang bờ nam.
Tới giờ mùi, cầu phao làm xong, quân Thát rục rịch vượt sông. Chỉ trong một canh giờ, mấy vạn quân giặc sẽ sang hết bờ nam, có khả năng đêm nay chúng sẽ khởi sự. Thời gian rất gấp gáp, sợ cuốc bộ không kịp cấp báo, Hứa Tông Đạo bên cùng các đội viên chặt thân chuối làm phao, để dòng nước đẩy xuôi về hạ nguồn.
Tin tức thám báo liên tiếp dội về. Như vậy đã rõ, giặc chia hai cánh quân thủy bộ tấn công ta trong đêm nay. Nhân Tông và các quan tướng khẩn trương bàn cách đối phó với địch, Thái sư Quang Khải đề nghị:
– Thần cho rằng trận này không nên dốc hết quân. Năm vạn quân hộ giá nhị hoàng rút về phía nam một trăm dặm, lực lượng rút đi là binh lực dành cho cuộc phản công nay mai. Chiêu Văn, Tả Thiên và Hưng Ninh chia nhau bốn vạn quân lập trận địa mai phục. Giặc chia quân cướp trại ta thì trại của chúng tất không còn nhiều quân, thần và các tướng khác sẽ chỉ huy đội binh thuyền tập kích vào trại giặc. Kế sách của ta là đánh bất ngờ, rút nhanh chóng, tránh tổn thất không cần thiết.
Các tướng đều nhất trí với kế hoạch của Chiêu Minh Vương, riêng hoàng thượng lại không hài lòng, ngài nói:
– Hễ có biến là các khanh bảo trẫm rút chạy, nước đang gặp nạn mà vua không xông pha trận tiền với ba quân thì còn ra thể thống gì nữa. Thượng hoàng đã cao tuổi, để ngài rút về phía nam là đúng, còn ta sẽ theo Thái sư đánh trại giặc. Lệnh vua miễn cãi.
Chư tướng bất lực, không ai dám bàn ra. Mọi người nhanh chóng vào việc thực thi nhiệm vụ của mình.
Trại của ta nằm cách bờ sông hơn một dặm, để đảm bảo yếu tố bí mật, vua và các vương quyết định lùi giờ khởi sự. Trời nhá nhem tối, thế trận bắt đầu chuyển động. Đoàn quân hộ giá Thánh Tông hoàng đế lặng lẽ rời trại nhằm hướng nam mà đi. Khu trại trống huơ trống hoác nhưng vẫn thắp đèn đuốc làm mồi câu như bọn địch. Có một trăm cảm tử quân xung phong ở lại chuẩn bị củi lửa đốt trại. Trần Nhật Duật chỉ huy một vạn quân mai phục bờ sông để chặn đánh thuyền giặc. Trần Đức Việp dẫn một vạn rưỡi quân mai phục phía bắc trại binh. Trần Quốc Tung dẫn một vạn rưỡi quân mai phục phía nam doanh trại. Trần Quang Khải cùng các tướng dẫn theo hai vạn quân tháp tùng vua Nhân Tông xuống bãi đậu thuyền ở một làng chài ven biển. Trên đường đi, Chiêu Minh Vương dặn dò Nội tiền điện chỉ huy sứ Vũ Quốc Minh:
– Ta giao cho người trọng trách bảo đảm an nguy của hoàng thượng, dùng một ngàn vệ quân bám sát ngài không rời nửa bước. Trang bị đầy đủ mộc để che chắn tên, giáo dài để đánh kị binh và cung nỏ cản địch bao vây, lựa chọn một trăm chiến mã khỏe mạnh khi cần thiết có thể đưa Quan gia vượt thoát bằng đường bộ.
Vũ Quốc Minh nói:
– Ngài cứ tin tưởng ở tôi. Thuộc tướng xin lấy đầu mình đảm bảo an nguy của hoàng thượng.
Đầu giờ hợi, trong màn đêm tịch mịch, khi các thám tử ghé tai sát mặt đất đã nghe được tiếng chuyển động mỗi lúc mỗi mạnh dần. Hai cánh quân phục kích ngoài doanh trại chuẩn bị tư thế sẵn sàng chiến đấu. Từ trận địa mai phục trên bờ sông, quân ta cũng phát hiện những chiếc thuyền đen trùi trũi đang rời bờ bắc đâm xéo sang bờ nam. Trần Nhật Duật hạ lệnh toàn quân náu mình chờ đợi, chỉ tiếp chiến khi có lệnh.
Toa Đô đầu lĩnh năm vạn quân chia làm hai ngả bắc nam áp sát trại quân Trần. Nhìn từ xa thấy đèn nến sáng sủa, lại có quân canh giữ ngoài cổng, y hý hửng phen này sẽ bắt sống được cha con thế tử. Theo lệnh của chủ tướng, bốn ngàn kị binh từ hai hướng phi ngựa rầm rập xông vào trại, theo sau là hàng vạn tên lính bộ binh đằng đằng sát khí. Mấy người lính giữ cổng chạy vào bên trong rồi mất hút sau những lán trại đơn sơ. Giặc đạp đổ cổng, đám kị binh tranh nhau xông vào để vây bắt vua quan nhà Trần, bọn bộ binh thì nhổ bỏ bờ rào bằng tre nứa rồi ùa qua như thác lũ.
Trong trại đối phương chỉ thấy một nhóm người chạy qua chạy lại, Toa Đô sinh nghi vội cho lui binh, nhưng bọn lính đã túa vào các ngóc ngách truy sát địch quân. Bất chợt lửa bùng lên khắp mọi lán trại, thiêu cháy nhiều tên lính Nguyên đang lùng sục cướp giết. Ở ngoài trại, hai binh đội của Tả Thiên Vương Trần Đức Việp và Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung ào ra tấn công hậu quân của địch. Các tướng dẫn đầu đoàn chiến binh xông vào đội hình giặc, hai bên giáp chiến dữ dội, giáo mác bổ xả vào nhau tơi bời, người chết, kẻ bị thương nằm la liệt mặt đất. Lũ kị binh Mộng Thát thoát ra khỏi đám cháy vội phi ngựa tới ứng cứu đồng bọn. Tả Thiên và Hưng Ninh nổi hiệu lui quân, đoàn chiến binh Đại Việt biến vào màn đêm thăm thẳm. Toa Đô bị thua thiệt nặng, không dám xua quân truy đuổi.
Cùng thời điểm diễn ra trận đánh quanh trại, ở ven sông, Trần Nhật Duật phát lệnh công kích khi đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi bắc ván dắt ngựa, đổ quân lên bờ. Giặc hoàn toàn bị động trước hàng ngàn mũi tên từ các bờ bụi vun vút lao tới, từng tốp người ngựa chưa kịp chạm đất đã ngã nhào xuống nước. Có trong tay một vạn rưỡi quân, Ô Mã Nhi thừa binh lực để lập trận phòng ngự, y cho dùng khiên che chắn để bọn lính vượt qua cầu ván rồi tập hợp đội ngũ trên bờ, tổ chức phản công vào đội hình của ta. Chiêu Văn chia quân làm hai: một cánh vừa đánh vừa rút, kéo giặc ra xa bãi sông; một cánh do ông chỉ huy đột kích vào bãi đổ quân của địch, dùng búa phá sập các cầu ván bắc lên thuyền. Bọn giặc từ trên thuyền bắn tên xuống, nhiều chiến sĩ bị thương vong, quân ta bắn trả hạ gục hàng loạt địch quân. Khi ở bên kia sông vang dậy tiếng hò la, biết nhiệm vụ đã hoàn tất, Nhật Duật cho rút quân.?
Đoàn thuyền của vua và Thái sư đậu cách đây ba dặm, lúc lửa khói bốc lên nghi ngút từ phía trại quân của ta, Nhân Tông hạ lệnh xuất phát. Hơn hai trăm chiến thuyền lao nhanh sang bờ bắc rồi đổ quân cách trại giặc chừng một dặm. Quân ta bí mật áp sát trại, bất ngờ đánh thẳng vào quân doanh của Toa Đô. Hơn năm ngàn quân Nguyên giữ trại ra sức chống cự nhưng không địch nổi hai vạn quân nhà Trần, buộc phải tháo chạy tứ tán, bỏ lại hai ngàn quân thương vong. Hoàng đế Nhân Tông mặc long bào màu vàng, Thái sư Chiêu Minh Vương mặc chiến báo đỏ tía, tiến vào trại giặc giữa trùng trùng lớp lớp binh sĩ hộ giá. Thấy Vũ Quốc Minh cứ quanh quẩn gần bên, vua hỏi vui “Chắc Thái sự sai khanh trông chúng ta chứ gì?”. Quốc Minh đáp “Khởi bẩm hoàng thượng, đây là vinh hạnh của tiểu tướng”. Toàn bộ trại Nguyên bị ta chiếm, nhưng không thể ở lâu nên nhà vua hạ lệnh cho thiêu rụi trước khi rút quân xuống thuyền.
Đang mải truy kích trên bờ nam thì thấy bên kia sông lửa cháy sáng rực, biết quân An Nam lập mưu cướp trại, Ô Mã Nhi vội thu binh, kéo ra sông để xuống thuyền sang bờ bắc ứng cứu. Nhưng nhiều cầu ván đã bị phá sập khiến đám giặc lúng túng không biết cách về thuyền, Ô Mã Nhi quát nạt bắt quân bộ lội xuống nước để leo lên thuyền, riêng những thuyền còn cầu ván ưu tiên cho bọn kị mã. Khi chúng sang được bờ bên kia thì quân Trần đã đi xa. Nhìn doanh trại bị đốt cháy tan hoang, chiến tướng Ô Mã Nhi lắc đầu ngao ngán rồi chống chế với thuộc hạ:
– Thật không ngờ bọn thế tử tương kế tựu kế khiến ta mất sạch trại. Dưới trướng y có nhiều người giỏi nên khó mà thắng được chúng.