Chương 1 Nhất loạt phản công, bốn vương nhổ yết hầu A Lỗ
Ba quân xuất kích, bảy tướng băm huyết mạch Hồng Hà
Nắm được tin tức về Trung Thành Vương, ngay trong đêm Hưng Đạo Vương thảo thư gửi người huynh đệ có duyên nợ với ngài từ mấy chục năm trước. Thư viết “Biết được tin Trung Thành huynh tổ chức kháng địch ở lộ Bắc Giang, ta rất phấn khích và khâm phục. Thời cơ vùng lên quét sạch giặc Hồ đã tới, bọn ta đang hợp lực diệt một căn cứ lớn của chúng nhằm cắt đứt đường vận lương của Mông Thát xuống Thiên Trường, rất mong huynh ra tay diệt đồn Giang Khẩu, tạo thành thế trận liên tung đánh trên dẹp dưới khiến cho lũ Thoát Hoan khó bề gượng dậy”.
Ngài lại thảo thư gửi cho tướng quân Nguyễn Khoái, dặn dò “Cho người ra các cửa sông đón binh thuyền. Nếu các vương cập bờ thì đề nghị kéo quân về tả ngạn sông Hồng chặn địch ở Tây Kết - Hàm Tử. Còn ngươi dẫn quân đến bãi Mạn Trù chờ giặc. Trong năm ngày tới, nếu không thấy thuyền về thì ngươi xuất quân trước”.
Sáng sớm ngày lên đường, Hưng Đạo cho gọi Nguyễn Hòa đến giao việc. Vương nói:
– Vừa qua người đã xuất sắc làm tròn công vụ, khiến ta rất vui. Nay hãy vì ta đi một chuyến đến Bắc Giang, tìm kiếm Trung Thành Vương và giao cho ngài lá thư này. Phải khẩn trương lên, cứ cách cũ mà làm, có địa bàn cụ thể rồi, dẫn theo năm người là đủ. Ngoài ra còn một phong thư giao tướng Nguyễn Khoái đang đóng quân tại cửa Cấm, ngươi cử người hỏa tốc lên đường.
Nguyễn Hòa sốt sắng nhận thư, rồi đáp:
– Đa tạ Đại Vương tin dùng, bề tôi sẽ tiến hành tức khắc.
Sau trận đánh ở Tam Trĩ, Yết Kiêu đã trở về Vạn Kiếp cùng Dã Tượng gánh vác công việc quen thuộc là hộ vệ Hưng Đạo Vương khi ngài cầm quân ra trận. Nguyễn Hòa đi rồi, Dã Tượng để đạt nguyện vọng với chủ soái:
– Chuyến này không được xông pha thì tiếc lắm, xin Đại Vương cho gia nô đi đánh thuyền giặc, từ hồi luyện thuật dùng hỏa công đốt thuyển đến giờ chưa lần nào thực hiện.
Hưng Đạo cười, mà rằng:
– Ta tiến quân rầm rộ, đánh ban ngày thẳng vào đội thuyền của Mông Thát, nên không cần dùng phương pháp đốt thuyền lẻ tẻ. Người đã có ý nguyện thì ta điều sang đội tiên phong tiếp cận thuyền địch mà giáp chiến.
Yết Kiêu lên tiếng:
– Gia nô cũng muốn tham gia quân tiên phong, xin Đại Vương cho phép.
Hưng Đạo bảo:
– Người dẫn đội Kình Ngư, khi thuyền ta áp sát thuyền địch thì nhảy xuống nước mà đục thuyền của chúng, giặc mải lo đánh nhau phía trên sẽ không ngờ đáy thuyền bị đục, lúc xong việc thì nhớ báo hiệu cho quân ta nhảy sang thuyền của mình. Đội Kình Ngư không còn nhiều, ngươi bổ sung thêm người có khả năng bơi lặn.
Hai viên thủ tục thân cận của Đại Vương cả mùng, cùng hớn hở đi chuẩn bị công việc chiến sự.
Tính toán thời điểm triều lên, Hưng Đạo cho xuất quân vào giờ ngọ. Hơn hai vạn tướng sĩ xuống ba trăm chiến thuyền từ Lục Đầu giang theo dòng Nam Triệu qua của Văn Úc ra biển, xuôi về phía nam vào của Hải Thị rồi ngược lên thượng nguồn sông Luộc, dự kiến bốn ngày sau đến địa điểm tập kết.
Như vậy, cùng với quân của ba người con là Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn, Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện, Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng và quân của Phạm Ngũ Lão, lực lượng của Hưng Đạo Vương lên tới bảy vạn người, gần gấp đôi binh lực của giặc Nguyên tại A Lỗ. Đây là trận mở đầu cuộc phản công nên không thể khinh suất, Đại Vương và các tướng lĩnh quyết giành chiến thắng bằng khí thế áp đảo.
Trại A Lỗ án ngữ ngã ba sông Luộc, thông thủy với sông Hồng ở đoạn được gọi là Thiên Mạc. Bọn Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến dùng nơi này làm trung quân bảo đảm tuyến đường thủy vận lương từ Thăng Long xuống Thiên Trường. Hiểu rõ vị trí trọng yếu của A Lỗ, Thoát Hoan tăng cường thêm một vạn binh của Mãng Cổ Thái. Khi được giao chỉ huy cánh quân tả ngạn, Bột La Hợp Đáp Nhĩ cũng kéo binh thuyền tới, đóng trại thủy bộ cách ngã ba Luộc chừng một dặm, trên khúc sông Thiên Mạc đổ về hướng nam. Việc đại quân của Hưng Đạo Vương rùng rùng kéo tới cũng đến tai tướng giặc. Không kịp cấp báo về Thăng Long, chúng bàn với nhau cầu cứu Sát Tháp Nhi Đài, chỉ huy quân hữu ngạn.
Giờ dần, ngày hai mươi bốn tháng tư, thế trận hình thành, Tiết chế phát lệnh tiến công. Hưng Vũ Vương Quốc Nghiễn và Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng dẫn hai cánh quân công phá A Lỗ từ hướng đông bắc và đông nam. Hưng Trí Vương Quốc Hiện đầu lĩnh lực lượng đánh vào trại trên bờ của Bột La Hợp Đáp Nhĩ, còn tiểu tướng Tuấn Thọ chỉ đạo một trăm chiến thuyền tiên phong đánh đội binh thuyền của hắn.
Mặc chiến bào nâu đỏ, bên cạnh có Phạm Lãm và nhiều gia tướng khác, từ trên mạn soái thuyền Hưng Đạo trực tiếp chỉ huy đội thuyền hai trăm chiếc tiến ra sông Hồng. Trong đoàn thuyền, ngoài Đại Vương và Phạm Lãm, không ai biết lý do tại sao ngài không tung toàn bộ lực lượng thủy quân vào trận mà cho phần lớn binh thuyền vượt qua ngã ba Luộc ngược dòng lên hướng bắc, đi cách trận địa A Lỗ hai dặm lại sai dàn hàng ngang kín mặt sông Thiên Mạc, bỏ neo chờ đợi.
Nguyên do trước giờ khởi sự, nhận được tin tức của thám báo về một đoàn thuyền giặc từ hướng bắc đang kéo tới A Lỗ, Hưng Đạo đã kịp thời thay đổi phương án tác chiến, ngài đưa binh thuyền đến địa điểm thích hợp để chặn đường bọn Nguyên Mông cứu viện.
Tại A Lỗ, do đã được phòng bị, Lưu Thế Anh và Mãng Cổ Thái cho quân bắn tên cản đường quân ta tiếp cận trại. Quân của Quốc Nghiễn dùng ván gỗ hứng tên rồi tiến đến sát bờ rào thì quăng ván vung mã đao nhảy vào cận chiến. Quân của Quốc Tảng dùng mộc bện bằng rơm nẹp tre để hứng tên mà tiến bước, giặc bắn tên lửa vào rơm, quân ta nhanh trí liệng những chiếc mộc bén lửa về phía chúng. Bị mâm lửa rơi xuống đầu khiến giặc hỗn loạn né tránh, chớp thời cơ các chiến binh ào tới giáp công. Đằng sau hàng rào là lũy đất, Lưu Thế Anh hò hét binh sĩ dùng giáo chĩa lên đâm địch quân. Nhiều chiến sĩ bị giáo đâm trúng, một số tráng sĩ can trường nắm chặt ngọn giáo xuyên ngang người mà nhảy đè lên thằng giặc. Đồng đội của họ tiếp bước nhảy theo rồi lăn xả vào chém bọn Nguyên ở bên dưới.
Thấy bộ binh đã bám trụ bên trong trại giặc, bấy giờ Quốc Nghiễn và Quốc Tảng đồng loạt dẫn kị binh xuất kích. Từ hai hướng, hàng ngàn chiến mã phi tới như một cơn lốc dữ dội đổ xuống đồn thù. Trước tình thế nguy cấp, Mãng Cổ Thái cho kị binh vượt rào xông ra đánh cản. Hai đạo quân cưỡi ngựa lao vào nhau bằng toàn bộ sức lực sẵn có, gươm phạt ngang tóe lửa, dao bổ xuống khô khốc, từng mảng thịt xương tung tóe, máu chảy thành vũng, người và ngựa chết đè lên nhau đen đặc bãi sông. Trần Quốc Nghiễn vung mã đao, Mãng Cổ Thái cậy trường giáo xáp tới quần thảo kịch liệt, đánh hàng chục hiệp mà bất phân thắng bại. Thấy đồng bọn bị thương vong quá nửa, Mãng Cổ Thái chấp nhận bỏ cuộc, dẫn tàn quân tháo chạy, lại bị bộ binh của ta dùng câu liêm móc vào vó ngựa khiến chúng ngã lăn quay, không bị giết thì cũng bị tóm sống. Ở phía đông nam, đội hình kị binh của Quốc Tảng xông thẳng vào trại giặc mà tung hoành ngang dọc, đâm chém tơi bời. Lưu Thế Anh biết không địch nổi bèn dẫn theo tám ngàn quân vừa đánh vừa chạy về hướng bắc.
Bộ binh và kị binh của Quốc Hiện nhất tề tiến công đồn trại của Bột La Hợp Đáp Nhĩ. Trong đội ngũ xuất kích có một viên tướng trẻ lần đầu tiên ra trận, đó là chàng trai Ngô Sĩ Thường, môn khách được Hưng Đạo Vương tín nhiệm. Bộ binh lấy mộc chặn tên của giặc, còn kị binh dùng cung nỏ bắn trả bọn Thát ẩn nấp sau những lũy đất mấp mô, quân ta vây kín ba mặt trại địch. Cùng thời điểm, trận chiến trên sông đang diễn ra ác liệt. Bị công kích cả trên bờ lẫn dưới bến, buộc chủ tướng Nguyên phải tính kế khả dĩ có lợi nhất. Bột La Hợp Đáp Nhĩ hạ lệnh bỏ trại, cho quân rút xuống bến để tăng cường binh lực giữ đội thuyền. Thừa cơ giặc tháo lui, Quốc Hiện và Sĩ Thường dẫn quân ập vào, mặc sức đuổi đánh bọn chậm chân, giết hàng trăm tên, bắt hàng ngàn đứa.
Bỏ qua yếu tố bất ngờ, cốt dùng binh lực mạnh để phô trương thanh thế, đoàn chiến thuyền do Tuấn Thọ chỉ huy đâm thẳng vào đội hình binh thuyền của địch. Khi mạn thuyền áp nhau, từ hàng chục chiến thuyền lớn, Tuấn Thọ và Dã Tượng hò quân nhảy sang thuyền giặc kịch chiến. Hai gia tướng kiên gan dẫn đầu đội thủy binh tả xung hữu đột trên các sàn gỗ, giặc chống trả kịch liệt, quân sĩ đôi bên bị thương vong đáng kể. Thấy địch đổ quân từ trên bờ xuống tăng viện cho đội thuyền, để tránh tổn thất, Tuấn Thọ cho rút lui. Hàng trăm chiến binh đồng loạt nhảy về thuyền rồi chèo ra xa, kịp lúc tiếng tù và rúc lên inh ỏi.?️
Lúc chiến sự quyết liệt trên các thuyền thì Yết Kiêu dẫn đội Kình Ngư lặn xuống nước, chia nhau đục đáy thuyền giặc. Hàng chục chiếc bị đục thủng, nước ở vào khoang, thuyền chòng chành rồi chìm xuống lòng sông. Thấy chiến binh Kình Ngư đã vượt thoát, quân hiệu nổi tù và rút quân.
Bột La Hợp Đáp Nhĩ kinh hoàng chứng kiến hàng chục chiếc thuyền bị nhấn chìm, làm vô số quân Nguyên chết đuối, vội hạ lệnh cho số thuyền còn lại rút chạy về phía nam, chở theo không đầy một nửa quân số. Những thuyền giặc chưa kịp dời bến liền bị quân của Quốc Hiện tràn xuống bắn tên, hạ sát thêm nhiều lính Mông Thát đứng ngồi lố nhố trên sàn thuyền. Khi thuyền giặc rút chạy, Tuấn Thọ đốc binh thuyền truy kích, hai bên bắn tên qua lại, thiệt hại không đáng kể.
Nhận được thư cầu viện của Lưu Thế Anh, Sát Tháp Nhi Đài để năm nghìn quân giữ trại rồi dẫn đội binh thuyền hơn trăm chiếc đi tiếp ứng cho đồng bọn ở A Lỗ. Đoàn thuyền Mông Thát bị đội hình của Trần Hưng Đạo ngáng đường, thấy đối phương hùng hậu hơn mình, Sát Tháp Nhi Đài có phần nao núng, tiến thoái lưỡng nan. Chẳng để cho chúng có thời gian bày trận, Hưng Đạo Vương phất cờ hiệu tiến công, đội binh thuyền Đại Việt lao về phía giặc, xé nhỏ từng cụm thuyền của chúng mà đánh. Cứ hai thuyền của ta áp mạn một thuyền giặc rồi tung móc câu níu lại để thủy quân nhảy sang giáp công. Quân ta hoàn toàn chiếm ưu thế, gần hai chục chiến thuyền của Nguyên bị đánh chiếm. Sát Tháp Nhi Đài túng thế, cho binh thuyền quay đầu tháo chạy. Phạm Lãm đề nghị truy kích, Hưng Đạo nói “Không cần thiết đâu. Quân ta đang kéo về chiếm lĩnh bờ sông, để phần cho các đạo quân khác diệt mốt”.
Bọn Lưu Thế Anh chạy được mười dặm lại lọt vào trận địa mai phục của Phạm Ngũ Lão. Giặc chưa kịp hoàn hồn thì từ bãi sậy ven sông hàng ngàn mũi tên vun vút lao tới xé toạc da thịt của chúng mà đòi nợ máu. Lưu Thế Anh chẳng còn nhuệ khí kháng cự, cố thúc ngựa vượt qua tầm tên bắn, bọn lính ở phía sau cũng chạy thục mạng theo chủ tướng. Phạm Ngũ Lão đổ quân ra chặn đầu khóa đuôi, chia cắt lũ giặc thành nhiều khúc. Bị đánh tan tác, Lưu Thế Anh dẫn tàn binh chạy sang hướng đông bắc, Ngũ Lão dẫn quân kị rượt đuổi, miệng hét vang lừng “Thằng Hán tặc chớ chạy”.
Ở phía sau ông, Trần Thị Kiến giương cung bắn trúng con ngựa của Thế Anh, hất y ngã lăn xuống đất. Tướng giặc bật dậy túm lấy yên ngựa của một đứa bị thương, chém tên lính một nhát rồi cướp ngựa của nó tháo chạy thoát thân.
Chạy miết đến khi không còn hơi sức, Lưu Thế Anh cho dừng chân nghỉ ngơi, kiểm đếm quân số thấy chỉ còn chưa đầy bốn ngàn, bao gồm cả bọn thương tích mất khả năng chiến đấu. Một đám tàn quân rệu rã, bạc nhược và thất chí, khó tránh khỏi tình trạng hỗn quân hỗn quan. Trong cơn mệt nhọc đói khát, quân lính đòi giết ngựa để lấy thịt, lũ kị binh khăng khăng cự tuyệt, Lưu Thế Anh thuyết phục chúng đi thêm năm chục dặm nữa là đến đồn Tây Kết, vừa an toàn lại được ăn no. Bọn bộ binh kêu không còn sức để đi, Thế Anh dọa nếu không đi thì bỏ mặc, y sẽ dẫn kị binh đi trước. Đúng lúc Lý Bang Hiến dẫn quân đi tuần tiễu trở về, lũ bại binh của Lưu Thế Anh được chúng chia sớt một phần lương thực chống đói, bấy giờ quân tình mới tạm yên. Hay tin A Lỗ đã thất thủ, trời lại sầm sập tối, Bang Hiến bàn với Thế Anh đóng quân tại chỗ, sớm mai khởi hành về Tây Kết.
Mãng Cổ Thái dẫn hai trăm kị mã chạy về phía đông, đi được vài chục dặm, khi đã chắc mẩm thoát thân chúng mới nghĩ đến việc tìm phương hướng. Tướng sĩ bàn bạc với nhau rồi quyết định đổi sang hướng bắc, hy vọng sẽ đến được đồn trại Nguyên ở quanh Thăng Long. Chúng đi miết cho tới khi lạc vào một vùng lau sậy bạt ngàn, mênh mông bốn phía chẳng thấy một mái nhà hay một làn khói bếp, trời thì cứ tối dần, còn muỗi vắt và sình lầy đang rút cạn dần chút hơi sức còn lại của đám tàn quân Mông Thát...
Kể từ đấy chẳng ai còn nghe nói đến viên chiến tướng Mãng Cổ Thái, người Nguyên thì đoán già đoán non có thể y đã bị giết, còn tướng lĩnh Đại Việt đương thời lại cho rằng y đã chạy thoát. Nghe nói hàng trăm năm sau, khi người dân khẩn hoang vùng Bãi Sậy, họ đã phát hiện được mấy trăm bộ xương người và xương ngựa, cùng với nhiều binh khí han rỉ có hình thù lạ lẫm nằm dưới lớp bùn mỏng, bị rễ cây sấy quần chằng chịt.
Sau ba ngày tìm kiếm, Nguyễn Hòa gặp được Trung Thành Vương. Thực ra Hòa bị quân của vương tóm cổ, vì họ nghi mấy người lạ mặt là thám báo Mông Thát đi dò xét địch tình. Lúc đầu, Hòa và các chiến hữu không khai nhận mình là ai, chỉ một mực đòi gặp đầu lĩnh đội quân. Khi được dẫn giải về quân doanh, nhận diện được vị vương cần gặp, bấy giờ Hòa mới xẻ vạt áo lấy thự trình lên cho ngài.
Trung Thành Vương đọc xong thự, liền hỏi:
– Hưng Đạo Vương đã khởi sự chưa?
Hòa đáp:
– Ước tính quãng đường di chuyển mất bốn ngày, có lẽ trong ngày mai Hưng Đạo Vương khởi chiến.
Trung Thành nói:
– Vậy thì ta cũng không thể chậm trễ, phải xuất quân trong ngày.
Rồi ngài truyền lệnh cho tả hữu đi tập hợp lực lượng, chuẩn bị binh khí, nửa canh giờ nữa sẽ lên đường. Đã xong nhiệm vụ, nhưng thấy Nguyễn Hòa dùng dằng chưa chịu quay về, vương lấy làm lạ bèn hỏi:
– Ngươi còn việc gì muốn thưa gửi?
Hòa lưỡng lự một chút rồi mạnh dạn bày tỏ:
– Tiểu nhân vốn bị một thương tích nhỏ nên Tiết chế Đại Vương không cho đi đánh trận, chỉ sai làm những việc liên lạc với chỗ này chỗ kia. Thực ra vết thương đã lành từ lâu, tuy không được mười phần như xưa nhưng cũng khỏe lại tám, chín phần rồi. Nay ngài xuất quân đánh giặc, bọn tiểu nhân cũng muốn tham gia.
Trung Thành xua tay, nói:
– Không được đâu. Các ngươi là tôi tớ của Hưng Đạo, lỡ có bề gì, ta làm sao gánh vác? Đâu cứ ra trận mới là khí phách, làm liên lạc có tài trí mới kham nổi, Tiết chế tín nhiệm giao việc, các ngươi phải hãnh diện chứ.
Hòa đáp:
– Nhiệm vụ được giao, bọn tiểu nhân chẳng nề hà. Nhưng là chiến binh, nên muốn đến sa trường đánh giặc.
Mấy đồng đội của Hòa cũng cất lời thỉnh cầu:
– Xin Trung Thành Vương chấp thuận, bọn tiểu nhân muốn theo ngài đánh giặc.
Vị thân vương phân vân một hồi rồi đáp:
– Ta cũng đành chiều ý các ngươi lần này. Nhớ bao bọc lẫn nhau, tránh đổ máu vô ích.
Bọn Nguyễn Hòa dạ ran, lui ra ngoài nhập vào binh đội của Trung Thành Vương, chờ lệnh xuất phát của chủ tướng.
Hơn bốn ngàn chiến binh hành quân đến Giang Khẩu thì trời đã tối. Trung Thành Vương dự định đóng trại nghỉ qua đêm, tờ mờ sáng mai sẽ tấn công đồn giặc ở cách đấy năm dặm, nhưng khi nghe trinh sát báo cáo bọn Nguyên rất lơ là canh gác, ngài thay đổi ý định, cho tiến đánh ngay trong đêm.
Giang Khẩu là một trại nhỏ với chừng hơn ngàn quân do Thiên hộ Tích Nại Ban đầu lĩnh. Từ hồi kéo đến lập đồn, chưa một lần đụng độ đối phương nên bọn Nguyên có phần khinh suất, mỗi ca trực chỉ cắt cử vài chục thằng hom hem yếu đuối, bọn còn lại, ban ngày thì rủ nhau đi cướp bóc hoặc xúm xít chơi chọi gà, đá dế; tối về thì đem của ăn cướp ra cược bạc, quây quần thành từng hội mà riết róng ăn thua, cười đùa vỡ nhà, la hét vàng óc.
Tận dụng yếu tố bất ngờ và lợi thế về lực lượng, Trung Thành Vương cho quân âm thầm áp sát trại giặc, sai các tráng sĩ tinh nhuệ hạ thủ bọn lính gác rồi kéo binh ập vào, đao kiếm và cung nỏ mặc sức thi triển công lực. Giặc rụng rời khiếp vía, trở tay không kịp nên bị sát hại vô số, nhiều tên mình trần gục chết trên chiếu bạc, nhiều đứa chậm chân rơi đầu ngoài bậu cửa. Một số thằng kịp vớ vũ khí, cố kháng cự để tìm lối thoát thân. Nguyễn Hòa và đồng đội đánh một trận ra trò, ông không dùng đao kiếm mà bắn tên nó tiễn gần chục lính Mông Thát sang cõi âm.
Tích Nại Ban thoát được ra ngoài cùng với một nhóm tàn quân không đầy trăm đứa, chạy ra bờ sông cướp thuyền của dân chài, chở nhau qua Nhị Hà về Thăng Long cấp báo với chủ soái Thoát Hoan.
Giữa tháng tư, có liên lạc từ ngoài bắc vào Ái Châu, trình thư của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lên các vua, trong thư có đoạn viết “Tình hình chuyển biến thuận lợi, tạo thời cơ để ta tổng phản công. Thần khẩn thiết xin nhị hoàng và các vương chia quân đánh ra bắc, thủy hay bộ do trong ấy định đoạt. Chúng thần ở ngoài này đang hợp lực diệt hệ thống đồn trại giặc trên sông Hồng, bọn Nguyên ở Thiên Trường tất rúng động mà tìm đường tháo chạy. Nếu mọi việc tiến triển, đến đầu tháng năm, ta sẽ vây hãm Thăng Long, rất mong nhị hoàng điều quân Hoan Ái ra phối hợp”.
Đọc xong thư, hai vua triệu tập các tướng nghị bàn. Mở đầu cuộc họp, Thượng hoàng Thánh Tông phấn chấn lên tiếng:
– Kế sách đánh giặc đang phát huy tác dụng, nay là lúc ta hợp lực quét sạch Mông Thát, giành lại xã tắc. Các khanh hãy bàn bạc kỹ lưỡng đường tiến quân ra bắc, không được muộn hơn đầu tháng năm.
Vua Nhân Tông nói:
– Muốn tiến ra bắc phải diệt sạch bọn Toa Đô, đây là một trở ngại đáng kể. Ai có mưu kế khắc phục được bất lợi này?
Trần Quốc Tung nói:
– Quân Toa Đô còn mạnh, không thể diệt được ngay. Chi bằng ta vượt qua chúng bằng đường biển, bấy giờ mới kịp hội quân đánh Thăng Long.
Trần Đức Việp nói:
– Ta có mười mấy vạn quân, thuyền bè lại hư hỏng nhiều, nếu đem cả đại quân ra bắc một lần thì e rằng thiếu phương tiện. Xin phụ hoàng và hoàng huynh chia quân làm nhiều đợt, đợt đầu lên đường sớm để đáp ứng yêu cầu của Hưng Đạo Vương, các đợt sau có thêm thời gian để sửa chữa thuyền bè và huy động thêm thuyền của ngư dân.
Thượng hoàng gật gù hưởng ứng, xem ra hài lòng với lập luận của người con trai thứ. Bấy giờ Thái sư Chiêu Minh lên tiếng:
– Thần đồng tình với ý kiến của Tả Thiên Vương và Hưng Ninh Vương. Nhị hoàng nên sai một đạo quân tiên phong khởi hành ngay ra Hải Đông tiếp ứng cho Hưng Đạo. Thần sẽ đi chuyến thứ hai kéo qua của Hải Thị theo sông Luộc vào Thiên Mạc. Nhị hoàng dẫn đại quân đi chuyến cuối cùng. Như vậy vừa linh hoạt về thời gian tiến quân vừa có điều kiện chuẩn bị thuyền bè.
Quang Khải chỉ rõ hướng đến của hai đạo quân đi trước nhưng lại không để cập nơi đến của đạo quân các vua. Chẳng qua vương đã có chủ ý nhưng không dám nói ra, sợ mang tiếng là bề tôi mà điều khiển cả bậc chí tôn, nên đành lờ đi để các ngài tự quyết định.
Thánh Tông là người tinh tường, bèn vờ hỏi:
– Chưa thấy khanh bộc lộ ý định muốn ta và hoàng thượng dẫn quân đến đâu?
Chiêu Minh đáp:
– Khởi bẩm nhị hoàng, việc này thần không dám để đạt. Trên bàn cờ tiến công, xin nhị hoàng định liệu vị trí xung yếu, vừa đảm bảo an nguy, vừa tạo ra thanh thế khiến bọn giặc hoảng loạn.
Nhân Tông mỉm cười rồi nói:
– Trẫm hiểu rồi, chắc Thái sư muốn các vua tiến quân đánh Trường Yên?
Quang Khải vội quỳ xuống, chắp tay mà rằng:
– Nhị hoàng anh minh.
Các quan tướng cũng quỳ theo, đồng thanh hô vang:
– Chúng thần vô cùng khâm phục.
Quốc Tung hỏi:
– Sao Chiêu Minh không vào bằng cửa Ba Lạt mà lại vào cửa Hải Thị cho xa xôi?
Quang Khải nói:
– Cửa Ba Lạt ngay sát Thiên Trường, giặc phát hiện sẽ tìm cách cản phá. Bắt đầu vào mùa lũ, cửa sông Hồng nước chảy rất xiết, thuyền bè ngược dòng khó di chuyển. Cửa Hải Thị tuy ở xa nhưng an toàn, cửa sông cũng nhỏ, nước không quá mạnh, đưa thuyền vào thuận lợi hơn.
Vua tôi rất hồ hởi, trong đôi mắt mọi người đều ánh lên niềm tin về vận hội giành lại giang sơn xã tắc. Quả vậy, trên bàn cờ chiến sự bấy giờ, Trường Yên là mắt xích yếu nhất của quân Thát, bọn Toa Đô kéo vào Thanh Hóa chỉ để lại mấy ngàn quân, bọn Giảo Kỳ ở Thiên Trường có các vàng cũng không dám đem quân đi tiếp ứng. Việc nhị hoàng đổ đại quân đến Trường Yên khiến giặc ở đấy chưa đánh cũng tan, sự an toàn của các vua được bảo đảm chắc chắn, lại khiến Toa Đô lo không có đường rút, còn Giảo Kỳ bị uy hiếp từ phía nam sẽ rơi vào trạng thái hoang mang, sợ hãi.
Thừa lúc mọi người đang vui, chưa ai nghĩ tới việc xung phong đi chuyến đầu, Chiêu Văn Vương nhanh nhảu nói:
– Thần xin đi tiên phong. Mong nhị hoàng chuẩn thuận để còn lên đường cho kịp.
Nhân Tông đồng ý, ngài phán truyền:
– Cử Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật dẫn hai vạn quân khẩn cấp vượt biển ra Hải Đông, có Nội tiền điện chỉ huy sứ Vũ Quốc Minh trợ thủ. Chiêu Minh Vương đôn đốc việc chuẩn bị thuyền bè, bảy ngày sau thống lĩnh năm vạn quân tiến ra bắc qua của Hải Thị. Tả Thiên Vương Trần Đức Việp, Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung với các tướng khác sẽ theo Thượng hoàng và trẫm tiến đánh Trường Yên.
Vương, tướng dạ can, cùng bái biệt nhị hoàng để trở về trại chuẩn bị công vụ.
Mấy ngày lênh đênh vượt biển ra bắc trên đạo binh thuyền của Chiêu Văn Vương, Phạm Thái vui đấy rồi buồn đấy, khiến đồng ngũ thấy khó hiểu nhưng ai cũng ngại, không dám hỏi han. Chỉ mỗi Lô Viên Dụng hiểu được tâm trạng của Thái, cậu ta lựa lời an ủi huynh:
– Đệ cũng giống như huynh, biết sắp xa anh em lại thấy lòng nao nao, nhưng nghĩ tới việc gặp mặt anh em Vạn Kiếp thì lòng lại hớn hở. Thôi huynh ạ, còn ngày nào với nhau thì cứ thoải mái đi, cho mọi người cùng vui. Tan hợp, hợp tan là lẽ thường tình, ta là chiến binh sá gì chuyện đấy.
Thái mở to mắt kinh ngạc nhìn cậu em, rồi nói:
– Trời đất, mới mấy tháng chinh chiến mà già dặn hẳn lên. Lại còn triết lý nữa chứ.
Dụng cười khì, đáp:
– Mọi người nói chuyện hay lý luận nên đệ học theo thôi.
Thái thổ lộ:
– Huynh nhiều lần vướng nỗi đau tử biệt sinh lý nên lòng hay trăn trở về viễn cảnh ấy. Cũng biết thân là chiến binh nay sống mai chết, nếu chia tay anh em rồi, mình chết đi thì thôi, nhưng khi mình được sống, còn người này người kia tử trận trên sa trường, thì cuộc chia tay có khác nào tử biệt.
Dụng ngồi buồn thiu, đờ đẫn nhìn Thái, nói ấp úng:
– Có việc này... để nghĩ lâu rồi... chỉ huynh mới giúp được... mai mốt lỡ đệ không về... huynh thay đệ về gặp cha...
Thái sa sầm nét mặt, đứng phắt dậy, trợn mắt mắng Dụng:
– Huynh không giúp đâu, đệ gắng sống mà về với cha của mình. Đừng bao giờ nói với huynh như thế. Huynh từng một lần tan nát cả lòng vì những lời như thế, nên không muốn ai lặp lại.
Dụng co rúm cả người khi biết mình lỡ đụng vào nỗi đau của người anh quân ngũ mà cậu thương mến như ruột thịt. Thái quay mặt giấu cặp mắt ướt nhòe, ký ức dội về, lời dặn dò của Thành huynh vẫn văng vẳng bên tai như những nhát búa đập vào trái tim mẫn cảm của chàng trai can trường.
Xa xa, cửa An Bang đã hiện hình trong nắng sớm. Trên ụ cát ven bờ có mấy người lính phất cờ đỏ làm hiệu cho đoàn chiến thuyền cập vào bến bãi.
Gặp mặt tướng quân Nguyễn Khoái, Chiêu Văn Vương nắm được thông tin Tiết chế Hưng Đạo đã xuất quân từ hai ngày trước, chỉ để lại lời nhắn “Quân từ Ái Châu ra thì hành binh khẩn cấp xuống tả ngạn sông Hồng phía nam thành Thăng Long, đón đánh bọn Mông Thát chạy về”. Hai tướng bàn bạc với nhau, nhận thấy nếu đi bằng đường thủy, muốn kịp thời gian thì theo sông Thiên Đức để vào sông Hồng, nhưng phải đưa binh thuyền qua Thăng Long, nơi giặc Nguyên đóng quân dày đặc. Họ quyết định tiến quân bằng đường bộ, để có thể cơ động theo lối tắt.
Để lại vài ngàn quân canh giữ đạo thuyền, vạn tám quân theo chủ tướng Chiêu Văn Vương hành binh cấp tốc về tả ngạn sông Hồng. Cùng thời điểm ấy, hơn một vạn quân của Nguyễn Khoái cũng khởi động hành trình từ cửa Cấm về nơi tập kết.
Hoài Nhân Vương và Hoài Văn Hầu theo lời dặn dò của Trần Hưng Đạo vận động các tộc trường miền núi cử dân binh tham gia đánh giặc, lực lượng lên đến năm ngàn người. Trên đường tiến quân, đội thám báo tiên phong của hai vị tướng trẻ phát hiện một đạo binh cầm cờ hiệu “Chiêu Thành Vương” đang hành quân phía trước. Hoài Nhân và Hoài Văn vội thúc ngựa đuổi theo. Các tướng gặp nhau tay bắt mặt mừng, lời chào câu hỏi râm ran không dứt. Chiêu Thành Vương cho biết:
– Ta mới nhận tin cấp báo của Hưng Đạo Vương hôm qua, sáng nay cất quân đi liền.
Quốc Toản nói:
– Bọn tiểu đệ được gặp Quốc Công Tiết chế mấy hôm trước, ngài cho biết đánh thắng trận này, quân Nguyên tất hỗn loạn, ta sẽ thừa cơ vây hãm Thăng Long.
Lại thấy phía xa xa có một đạo quân giương cờ hiệu “Minh Hiến Vương” đang hối hả trên đường. Mọi người cả mừng, vẫy gọi ầm ĩ. Minh Hiến Vương Uất phi ngựa tới, chưa kịp chào hỏi nhau đã rối rít giục giã:
– Các huynh đệ khẩn trương lên, Hưng Đạo Vương mới truyền tin cho hay, giặc thua to ở A Lỗ đang tụ về Tây Kết. Ta phải cấp tập tiến công để chúng không kịp hoàn hồn.
Mọi người cùng phấn khích, khí thế bốc ngùn ngụt, đường ra trận nhộn nhịp, tưng bừng như trẩy hội xuân.
Nguyễn Khoái và Chiêu Thành Vương bày trận ở Mạn Trù, chặn đánh binh thuyền giặc đậu ngoài bãi Đà Mạc nếu chúng đổ quân cứu viện Tây Kết. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật và Nội tiền điện chỉ huy sứ Vũ Quốc Minh chỉ huy đạo quân công phá Tây Kết. Minh Hiến Vương, Hoài Nhân Vương và Hoài Văn Hầu ém quân mai phục cách Tây kết một dặm về hướng bắc, đề phòng bọn Mông Thát rút chạy lên Hàm Tử. Bảy đầu lĩnh quân sự Đại Việt quyết giáng một đòn chí tử vào cứ điểm xung yếu của giặc trên trục giao thông đường thủy từ Thăng Long đến Thiên Trường.
Quân Nguyên ở Tây Kết ước chừng hơn một vạn. Bao gồm ba ngàn quân của hai gã Thiên hộ Phùng Chí Bang và Địch Cổn cùng với hơn bảy ngàn quân của Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến. Lực lượng của Trần Nhật Duật áp đảo về số lượng, tinh thần cũng mạnh mẽ gấp bội phần bọn tàn quân Nguyên Mông vừa thoát chết ở A Lỗ.
Sáng sớm ngày hai mươi tám tháng tư, Chiêu Văn Vương phát lệnh công kích. Hai đoàn chiến mã do ngài và Vũ Quốc Minh chỉ huy phi như bay tới trại giặc, phía sau là đội hình bộ binh ào ạt như thác đổ, khiên mộc giương cao, gươm mác tuốt trần, bừng bừng khí thế nhổ trại diệt thù. Bọn giặc nổi hiệu báo động, tụ tập quanh các lũy đất dùng cung tên bắn chặn đối phương. Nhưng chỉ có quân đồn trú và quân của Lý Bang Hiến có cung tên để kháng địch, riêng đám tàn binh của Lưu Thế Anh chẳng còn lại gì sau trận thua tơi tả ở A Lỗ, nên cả quân lẫn tướng cứ ngơ ngác nhìn quanh, tính sẵn đường đi nước bước, lúc nguy cấp còn tẩu vi thượng kếchạy là hơn cả.
Quân ta tràn vào trại, vó ngựa dẫm lên đầu thù mà tiến công, đao bén xả vào lưng địch mà tung hoành. Quân Nguyên chống cự yếu ớt, một đám bỏ chạy khiến cả lũ hoang mang rồi mạnh đứa nào đứa nấy chạy, giành giật nhau lối thoát hiểm để tự cứu lấy mình, thây kệ đồng bọn sống hay chết. Chiêu Văn Vương Tượt theo tên giặc vận giáp binh cầu kỳ, ngài dùng mã đao chém hắn một nhát ngang vai, rồi bị mấy đứa khác xúm lại cản đường, nên đành để nó chạy thoát. Tên bị chém là Thiên hộ Phùng Chí Bang, tuy được tôi tớ giải cứu, nhưng số của y đã tận. Trúng thương nặng, Bang cố vẫy vùng thoát vây rồi lăn đùng ra chết giữa đám loạn quân Mông Thát mà chẳng ai hay, ai biết.
Sau khi thua chạy về phía nam, Bột La Hợp Đáp Nhĩ toan tính không nên đi quá xa đại quân, nhưng cũng không ở quá gần Thăng Long, kẻo bị chủ soái trách phạt vì tội tại đào nhiệm vụ. Nghe tin quân của Hưng Đạo đã rút đi, Bột La Hợp Đáp Nhĩ dẫn binh thuyền quay lên hướng bắc, lập bến tại bãi Đà Mạc, liên thông tương hỗ thủy bộ giữa đạo thuyền của y và đồng bọn ở Tây Kết.
Cả ngày nắng gắt như đổ lửa, tối về thì oi bức ngột ngạt, khiến viên chiến tướng Nguyên Mông vã mồ hôi như tắm, trằn trọc suốt đêm không tài nào ngủ được. Y than trời trách đất, nguyền rủa cái khí hậu ác nghiệt của xứ sở man mọi, rồi thiềm thiếp mơ màng khi có vài ngọn gió thổi nhẹ lúc đầu canh năm. Tiếng hò la vang dội từ trên bờ vọng xuống đánh thức Bột La Hợp Đáp Nhĩ lúc còn đang chiêm bao leo núi tuyết ở quê nhà trên vùng thảo nguyên Mông Cổ. Vội bật dậy, mắt nhắm mắt mở, chẳng hề mặc áo xỏ giày, không kịp đắn đo hơn thiệt, Bột La Hợp Đáp Nhĩ chạy ra mạn thuyền hò hét quân lính kéo qua ứng chiến. Đạo thuyền Nguyên lũ lượt rời bến Đà Mạc lao sang Mạn Trù giải cứu đồng bọn.
Đợi cho thuyền giặc bắt đầu đổ quân lên bờ, Nguyễn Khoái và Chiêu Thành Vương phát lệnh công kích. Hàng vạn mũi tên ba cạnh sắc nhọn bắn ra từ bụi cây lùm cỏ buộc địch phải tháo lui xuống bãi sông. Từ hai phía tả hữu, Nguyễn Khoái và Chiêu Thành Vương dẫn quân lao vào cận chiến với giặc, sức ta quá mạnh, quân Nguyên yếu thế buộc phải rút lui lên thuyền. Các chiến binh Đại Việt leo qua mạn thuyền giặc đánh chiếm được năm chiến thuyền của địch. Bột La Hợp Đáp Nhĩ sai quân bắn tên lửa diệt thuyền bị cướp, quân ta khiến thuyền đang bốc cháy đâm vào đội hình giặc ở giữa sông rồi nhảy xuống nước bơi vào bờ. Biết bãi Đà Mạc không thể dung thân, viên chiến tướng Mông Thát rút đội binh thuyền chạy lên hướng bắc. Quân ta diệt gần một ngàn tên, bắt sống hơn ba trăm đứa, địch còn mất tám chiến thuyền, gồm cả những chiếc bị chúng đốt.
Bọn Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến dẫn tàn quân tháo chạy về Hàm Tử, lại rơi vào ổ phục kích của ba vị vương hầu nước Nam. Minh Hiến Vương ém quân sườn phải, Hoài Nhân Vương và Hoài Văn Hầu ém quân sườn trái bất ngờ bắn tên chặn đường rồi xáp tới giáp chiến. Giặc đã mất hết tinh thần nên chẳng còn bài bản đối kháng, chỉ cố chống đỡ để thoát thân. Thế Anh và Bang Hiến mở đường máu nhanh chân vọt trước, Minh Hiến và Quốc Toản dẫn quân truy kích, khi đến gần Hàm Tử mới chịu lui binh. Hai viên tướng giặc thoát nạn, nhưng quân của chúng tan tành cả, hàng ngàn tên tử thương, hàng trăm tên bị tóm cổ tại trận.
Bọn Thiên hộ Địch Cổn chạy sau nên bị Hoài Nhân Vương khiến quân vây chặt. Giặc Nguyên ra sức vùng vẫy tìm cách thoát ra nhưng quân ta đã bịt kín mọi lối nẻo. Cổn bày kế giương đông kích tây, sai quân mở đường máu chạy về phía đông, Hoài Nhân tung đội kị mã tăng viện cho lực lượng bộ binh đang đánh chặn hơn một ngàn tên giặc cố vượt thoát. Gã Thiên hộ chớp thời cơ, dẫn mười mấy thủ tục phóng ngựa về phía Hoài Nhân Vương, lúc bấy giờ đang chốt chặn ở hướng bắc chỉ với vài chục chiến binh thân cận. Hoài Nhân khua đao tiếp tướng giặc, sau ba hợp chém xả ngang người Địch Cổn nhưng cũng bị một tên khác chặt đứt lìa cánh tay.
Dăm tên thủ túc của Cổn dìu chủ chạy thoát, chưa về đến Hàm Tử thì y đã tắt thở. Các chiến binh của Hoài Nhân xúm lại vệ chủ, mà không dám truy kích bọn thuộc hạ của Địch Cổn. Lũ Nguyên chạy về hướng đông bị tiêu diệt gần hết, một số đứa trốn chui trốn lủi trong bờ bụi, đến khi đói quá mò vào các làng xin ăn, cũng bị dân chúng bắt trói giải giao cho quân đội triều đình.
Hoài Nhân Vương tên thật là Trần Kiện, bị trọng thương lúc mới qua tuổi mười tám. Là một trong các vương hầu trẻ tuổi nhất tham gia lực lượng quân sự Đại Việt đánh đuổi giặc Mông Thát trong cuộc chiến năm Ất Dậu. Sau trận Tây Kết, ông không còn cơ hội sát cánh cùng người anh em chí thiết Trần Quốc Toản cầm quân chinh chiến, phò vua cứu nước.
Thắng lớn ở Tây Kết, các tướng quyết định kéo quân diệt Hàm Tủ, khiến địch không kịp trở tay, không đủ thời gian củng cố lực lượng.
Hàm Tử cách Tây Kết không đầy mười dặm, với hơn một ngàn quân đồn trú dưới quyền của Chiếu thảo Thiết Đài Bất Lý. Khi Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến dẫn tàn quân đến nhập bọn, viên Chiêu thảo hoảng quá bèn cử người sang Chương Dương nằm bên bờ hữu ngan cầu cứu Sát Tháp Nhi Đài, vốn là anh em thúc bá của y. Sát Tháp Nhi Đài lo sợ quân Trần sẽ tiến đánh Chương Dương nay mai, nên cố ý giữ quân cho mình, đành miễn cưỡng gửi ba ngàn binh sĩ sang Hàm Tử giúp người em họ, với lý do “Quân đi tuần tiễu chưa về, nếu về kịp sẽ tăng viện thêm”.
Lúc thấy hơn bảy chục chiến thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ kéo qua, Thiết Đài Bất Lý cùng với bọn Lưu Thế Anh vẫy gọi rối rít, nhưng xem ra đội binh thuyền không có ý định cập bờ, Bột La Hợp Đáp Nhĩ đứng trên mạn thuyền nói lớn:
– Không thể dừng lại. Đại vương điều động về Đông Bộ Đầu trấn giữ Long thành.
Thực ra Thoát Hoan không hề điều binh thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ, chẳng quay đoán biết Hàm Tử đang vướng mối hiểm họa trên đầu, trước sau cũng bị diệt như A Lỗ và Tây Kết, nên tội vạ gì mà dây vào cửa tử.
Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến bàn với Thiết Đài Bất Lý:
– Tình thế này không thể ở lại đây. Bọn ta chỉ còn vài ngàn quân mệt mỏi, quân của ngươi và đám tăng viện cả thảy có bốn ngàn, khó bề mà chống cự lại. Chi bằng kéo cả về Thăng Long cho an toàn.
Thiết Đài Bất Lý nói:
– Tại hạ cũng muốn rút đi cho rồi, nhưng giặc chưa đến đã bỏ trại tháo chạy, liệu Trấn Nam Vương có để yên cho ta không? Chi bằng cử người về soái phủ cấp báo và xin tăng viện. Nếu trong ba ngày không thấy quân tăng viện, bấy giờ ta rút đi cũng chẳng ai trách được.
Thế Anh nói:
– Sợ giặc chẳng chờ ba ngày đâu. Nếu không tính kỹ, lúc nguy cấp, ai cứu ta?
Bang Hiến nói:
– Lời của Chiêu thảo cũng có lý. Nếu vô cớ bỏ Hàm Tử sẽ đắc tội với đại vương. Quân Trần dù thắng cũng phải nghỉ ngơi, chưa chắc động binh tức thời. Khi chiếm được A Lỗ, bốn ngày sau chúng mới đánh Tây Kết, nhưng quãng đường từ Tây Kết về Hàm Tử gần hơn nên sau hai ngày không được tăng viện thì ta sẽ rút quân.
Lưu Thế Anh và Thiết Đài Bất Lý đồng ý với phương án của Lý Bang Hiến. Các tướng giặc cấp tốc cử Tổng bả Hạ Trí Viễn về Thăng Long xin viện quân, đồng thời chia binh tăng cường bố phòng doanh trại. Một phần ba quân số túc trực ngoài chiến lũy, cứ hai canh đổi ca một lần.
Ngoài dự đoán của giặc, mờ sáng ngày hai mươi chín tháng tư, quân ta chia làm ba cánh tấn công Hàm Tử. Bọn trực chiến nổi hiệu báo động, các tướng giặc chạy ra ngoài đã thấy bốn bề đen kịt chiến binh An Nam. Thiết Đài Bất Lý hò quân bắn cản rồi hùng hổ xông ra chiến lũy giáp chiến với địch quân. Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến nhấp nhổm tính đường lui, khi quân Trần tràn ngập trại Hàm Tử thì chúng đã nhanh chân tháo chạy về hướng bắc, bỏ mặc viên Chiêu thảo chống cự trong tình thế tuyệt vọng.
Nguyễn Khoái và Trần Quốc Toản dẫn quân tung hoành trại giặc, áp đảo toàn diện, bắt giết vô kể. Thiết Đài Bất Lý chết gục dưới chân lũy trong đống các binh lính Nguyên Mông chất ngất. Minh Hiến Vương và Chiêu Thành Vương bao vây vòng ngoài diệt bọn vượt thoát. Lúc Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến mở đường máu xông ra, hai vương xáp lại công kích, đánh chém tơi bời. Ngựa chiến Mông Thát to khỏe hơn ngựa chiến Đại Việt nên hai gã tướng Nguyên chạy thoát.
Trần Nhật Duật và Vũ Quốc Minh ém quân trên bãi sông cách Hàm Tử nửa dặm, nơi chiều hôm qua thám tử báo tin giặc Nguyên từ phía Chương Dương đổ quân tăng viện. Họ mai phục ở đấy để phòng bọn Sát Tháp Nhi Đài kéo binh thuyền sang ứng cứu. Trận chiến ở Hàm Tử đã vào đoạn kết nhưng mặt sông vẫn phẳng lặng, chẳng một gợn sóng thuyền nào từ hữu ngạn đổ tới. Chiêu Văn lẩm bẩm trong miệng “Hóa ra bọn Thát chó chết chẳng thèm cứu nhau, làm ta mất công phục binh cả đêm”. Chợt thấy đám tàn quân Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến chạy qua, ngài dặn Quốc Minh giữ trận mai phục, còn mình dẫn năm trăm kị mã truy kích. Đuổi theo đến hai chục dặm, dùng cung tên hạ sát được vài chục đứa, nhưng ngựa giặc có sức chạy bền hơn nên Nhật Duật đành thoái lui, bỏ cuộc truy sát.
Thế Anh và Bang Hiến thoát thân, ngoảnh đi ngoảnh lại còn không đầy năm chục binh sĩ bầm dập tả tơi, đành lếch thếch kéo nhau về Thăng Long tạ tội thất trận với chủ soái Trấn Nam Vương.
Sau trận chiến Hàm Tử, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật phàn nàn với các tướng:
– Ta dở quá, dẫn quân đi mai phục những giặc chẳng đến thành thử trận này không có công lao gì.
Chiêu Thành Vương nói vui:
– Thuyền giặc bên Chương Dương biết huynh ở đấy nên sợ không dám qua. Khiến giặc không dám động binh cũng là công lớn đấy.
Chiêu Văn Vương nói:
– Ước gì được như huynh, chỗ nào nóng bỏng cũng có mặt, bị thương ở Thiên Trường chưa đầy tháng đã nghe tin đánh nơi này nơi kia.
Chiêu Thành đáp:
– Trúng thương nhẹ ở đùi, mấy bữa đã lành, để lại cái sẹo bé tí. Nhờ hồng ân của Thượng hoàng và Quan gia cử thái y đến chữa trị kịp thời thì mới hồi phục nhanh như vậy.
Minh Hiến Vương than thở:
– Các huynh đừng kể chuyện về Thượng hoàng và Quan gia nữa kẻo ta lại tủi thân. Từ hồi quốc loạn đến giờ, ta chưa một lần được diện kiến nhị hoàng.
Chiêu Văn Vương an ủi bằng một câu đùa:
– Vài tháng nữa giặc cuốn xéo hết, trở về Thăng Long, ta sẽ xin nhị hoàng ban ân cho huynh được hầu rượu các ngài nửa tháng.
Các vương cùng sảng khoái cười vui. Quốc Toản bèn lên tiếng:
– Tiểu đệ xin mấy vương huynh khẽ khàng thôi, Hoài Nhân đau đớn vật vã cả đêm, mới chợp mắt được một lúc.
Tiếng cười im bặt, mọi người cùng nhận ra sự sơ suất của mình. trong họ, huyết thống Đông A như tắc nghẹn lồng ngực khi nghĩ tới một người ruột thịt với cánh tay bị đứt lìa đang nằm thoi thóp sau tấm phên thưa.
Hoài Nhân Vương đã tỉnh giấc từ nãy, nằm nghe các huynh trò chuyện, bất giác hai dòng nước mắt chảy dài trên khuôn mặt nhợt nhạt của chàng trai trẻ.