← Quay lại trang sách

Chương 2 Nhị hoàng đánh Trường Yên, Chiêu Minh tiến quân phạt bắc
Quần hùng diệt Chương Dương, Chiêu Văn dốc binh vây đô

Tin tức thua trận ở A Lỗ, mất đồn ở Giang Khẩu khiến Trấn Nam Vương ăn không ngon, ngủ không yên, bèn cho gọi A Lý Hải Nha đến soái phủ để bàn cách đối phó. Viên Bình chương trấn an chủ soái:

– Đại vương chớ lo lắng. A Lỗ chỉ là điểm trung lộ trông coi tuyến đường thủy đến Thiên Trường, không hề ảnh hưởng tới cục diện ở Long thành, còn Giang Khẩu là một đồn nhỏ không đáng quan tâm.

Thoát Hoan hỏi:

– Nếu bọn Trần gia thừa thắng đánh tới Tây Kết, Hàm Tử và Chương Dương thì sao?

Hải Nha lý luận:

– Muốn đủ binh lực để đánh tiếp, chúng phải chuẩn bị nhiều ngày, nên trước mắt không có gì đáng ngại. Quân ta từ A Lỗ rút về sẽ tăng cường cho Tây Kết, Hàm Tử. Hai đạo quân của Sát Tháp Nhi Đài và Bột La Hợp Đáp Nhĩ vẫn đang kiểm soát tả hữu Nhị Hà.

Thoát Hoan lại hỏi:

– Có cần gửi quân tăng viện không?

Hải Nha đáp chắc nịch:

– Theo tại hạ không cần tăng viện. Chuyển quân từ Thăng Long về thì tuyến phòng thủ ở đây sẽ suy yếu. Nếu Tây Kết, Hàm Tử nguy cấp, bọn Sát Tháp Nhi Đài và Bột La Hợp Đáp Nhĩ tất kéo quân đến trợ chiến.

Thoát Hoan đã yên tâm hơn, nhưng vẫn cẩn thận dặn A Lý Hải Nha tung thám báo đi dò xét dấu hiệu dịch chuyển của đối phương trong vòng năm mươi dặm ở khắp bốn hướng quanh kinh thành Thăng Long. Hoan còn lệnh cho thuộc hạ, khi có tin tức khẩn cấp thì bất kể ngày hay đêm phải trình báo ngay cho y.

Hai ngày sau, lúc trời chưa sáng, bị một tên hầu cận đánh thức, Thoát Hoan còn lơ mơ bên nổi quạu mắng mỏ:

– Tội người đáng chết, dám cả gan phá giấc ngủ của ta.

Tên lính hầu nói lắp bắp:

– Đại vương dặn nếu có tin khẩn cấp...

Bấy giờ y mới tỉnh ngủ, trí nhớ hoạt động trở lại, bèn lấp liếm:

– Thôi được rồi, bỏ qua. Ta sẽ ra ngay.

Vừa thấy Trấn Nam Vương bước ra, viễn thám mã vội quỳ gối trước sảnh, lên tiếng trình báo:

– Tiểu tượng là Tổng bả Hạ Trí Viễn từ Hàm Tử đến cấp báo với đại vương: Tây Kết đã bị đánh chiếm ngày hôm qua, giặc đang uy hiếp Hàm Tử. Xin đại vương cứu viện.

Thoát Hoan nổi cơn thịnh nộ, quát tháo om sòm, đòi triệu tập tướng lĩnh tức khắc.

Cuối giờ mão, đầu lĩnh các quân lục tục kéo đến. Vừa thấy mặt A Lý Hải Nha, Hoan mắng phủ đầu:

– Ta đã dự cảm bọn thế tử sẽ đánh chiếm Tây Kết, nhưng ngươi cứ một mực cho rằng quân ta thừa sức trấn giữ mà không cần tăng viện. Bây giờ thất thủ rồi, ngươi tính sao đây?

Hải Nha mặt tái mét, cố nặn óc ra cách thoát hiểm, như kẻ sắp chết đuối nhìn thấy cái cọc, y quay sang hỏi dò viên Tổng bả:

– Khi giặc đánh Tây Kết, ngươi có thấy quân của Sát Tháp Nhi Đài và Bột La Hợp Đáp Nhĩ kéo đến trợ chiến không?

Hạ Trí Viễn đáp:

– Tiểu nhân không có mặt ở Tây Kết, nhưng nghe Vạn hộ Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến cho biết không thấy tăm hơi đạo quân của Sát Tháp Nhi Đài, còn Bột La Hợp Đáp Nhĩ có kéo quân đến giúp nhưng bị giặc chiếm mất mấy thuyền nên vội vã tháo lui. Trên đường phi ngựa về Thăng Long, tiểu nhân thấy binh thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ đậu ven sông, cách Chương Dương chừng mười dặm về hướng bắc.

Bấy giờ A Lý Hải Nha mới vênh mặt đắc chí, nói:

– Đại vương thấy chưa? Tại hạ đâu có lỗi, để mất Tây Kết chẳng qua vì sự hèn kém của Sát Tháp Nhi Đài và Bột La Hợp Đáp Nhĩ. Chúng có bốn vạn quân nhưng một đứa không thèm đem quân đến cứu, một đứa thì dạo qua cho có, bị mất vài thuyền đã tìm đường tháo chạy.

Thoát Hoan nhìn ngơ ngáo, có chỗ để trút giận thì nó đã luồn lách thoát tội, mấy tên cần xét tội thì lại không có mặt, y đành nuốt cục tức vào bụng, cho qua để quay về thực tại:

– Hàm Tử cần tăng viện, các ngươi tính sao?

Lý Hằng lên tiếng:

– Nên tăng viện. Giữ được Hàm Tử thì Chương Dương không lo phía mặt sông. Hai trại này án ngữ tả hữu sông Hồng, đại vương nên lệnh cho chúng liên kết với nhau, bên nào bị công kích thì bên kia phải kéo quân sang trợ chiến.

Thoát Hoan hỏi:

– Nếu giặc tiến đánh đồng thời cả hai bên thì lấy ai trợ chiến?

A Lý Hải Nha nói:

– Theo tại hạ, chúng không có khả năng tiến đánh Hàm Tử và Chương Dương cùng một lúc. Đại vương nên điều binh thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ quay lại Hàm Tử, sai Sát Tháp Nhi Đài giữ binh thuyền thường trực ở Chương Dương, không dẫn quân đi tuần tiễu nữa.

Thoát Hoan vẫn còn tức A Lý Hải Nha, bèn dè bỉu:

– Người chỉ giỏi đoán mò. Nếu bọn Trần gia cùng đánh Hàm Tử và Chương Dương, bấy giờ đừng trách ta quả phạt.

Nạp Tốc Lạt Đinh nói:

– Hàm Tử và Chương Dương là cửa ngõ án ngữ phía nam Thăng Long, đại vương nên cử Bình chương A Lý thống lĩnh các quân ở mặt trận này.

A Lý Hải Nha nói hậm hực:

– Bình chương Nạp Tốc đánh dẹp tây bắc giỏi như thế, sao không ra gánh vác mà lại nhường cho ta?

Thoát Hoan nạt:

– Ta sẽ là người quyết định, các ngươi chớ có gầm ghè nhau nữa. Còn bọn thất trận ở A Lỗ và Tây Kết thì tính sao đây?

Khoan Triệt đề nghị:

– Lưu Thế Anh, Lý Bang Hiến, Mãng Cổ Thái và bọn Thiên hộ dưới quyền chiểu theo quân pháp thì phải trị tội, nhưng xét hoàn cảnh bây giờ, đại vương nên buộc họ cố thủ ở Hàm Tủ để đoái công chuộc tội.

Chợt nhớ ra, Thoát Hoan hỏi Hạ Trí Viễn:

– Ta chưa nghe nói đến Mãng Cổ Thái, hiện nay y đang ở đâu?

Viên Tổng bả đáp:

– Tiểu nhân không biết. Lưu Thế Anh nói Mãng Cổ Thái chạy hướng khác.

Thoát Hoan nói:

– Ta hiểu rồi. Nay người khẩn cấp quay về Hàm Tử, truyền lệnh của ta: Các tướng từ A Lỗ và Tây Kết chạy về phải cố thủ Hàm Tử mà chống giặc, kẻ nào bỏ trại sẽ trừng trị theo quân pháp.

Hạ Trí Viễn nhận lệnh, cáo từ chủ soái. Bấy giờ Thoát Hoan mới ban lệnh điều động:

– Để tăng cường bố phòng chiến tuyến phía nam, nay ta sai truyền...

Trấn Nam Vương vừa nói đến đây thì thuộc hạ hớt hải chạy vào bẩm báo:

– Có một đám người trang phục rách bươm, mặt mũi nhem nhuốc trầy trụa, cứ một mực đòi vào gặp đại vương. Bọn tiểu nhân yêu cầu xưng danh, họ bảo là Vạn hộ Lưu Thế Anh và Vạn hộ Lý Bang Hiến.

Mấy đầu lĩnh Nguyên Mông thất kinh, cùng đoan chắc trong bụng Hàm Tử đã mất, Thoát Hoan bèn ra lệnh:

– Cho hai tên bại tướng vào đây, còn bọn đi cùng tông xuống trại làm lao dịch.

Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến lom khom bước vào rồi quỳ mộp xuống sàn, bộ dạng nửa người nửa ngợm, tay chân run bần bật. Thế Anh thở hổn hển, nói lí nhí trong miệng:

– Bọn thuộc tướng đáng tội chết... Hàm Tử đã thất thủ... lực bất tòng tâm... Có mấy ngàn quân khó bề địch nổi bốn vạn quân địch.

Thoát Hoan quát:

– Nói cho rõ xem nào, đừng có dí mặt sát đất mà thì thào với âm phủ.

Hai viên tướng lồm cồm bò dậy. Bang Hiến cố trấn tĩnh mà thưa thốt:

– Hàm Tử chỉ có mấy ngàn quân, sang Chương Dương cầu viện thì Sát Tháp Nhi Đài giúp thêm được vài ngàn quân già nua ốm yếu, Bột La Hợp Đáp Nhĩ kéo binh thuyền qua nhưng bảo theo lệnh đại vương lên trấn giữ Đông Bộ Đầu. Quân Trần đông như kiến có tiến đánh lúc trời chưa sáng, bọn thuộc tướng thân cô thế yếu nhưng vẫn chống đỡ kịch liệt, khi cạn quân bất đắc dĩ phải rút chạy.

Thoát Hoan trợn mắt, cao giọng:

– Ta đâu có sai Bột La Hợp Đáp Nhĩ đến Đông Bộ Đầu? Còn Sát Tháp Nhi Đài có hai vạn quân mà chỉ gửi sang mấy tên ốm yếu? Tả hữu đâu, đi lôi cổ hai tên này về đây cho ta.

Lý Hằng vội can gián:

– Xin đại vương xem xét lại, nay ta cần ổn định quân tình để củng cố phòng tuyến phía nam, các tướng phạm sai lầm có thể trừng phạt sau, nếu ai lập công thì nên châm chước.

Hoan thuận theo Hằng, mà rằng:

– Tạm thời ta treo tội để đấy, bây giờ tập trung binh lực phòng thủ Chương Dương, nếu lập công thì sẽ giảm phạt. Nhưng kẻ hết quân thì cũng phải hạ cấp, nên giáng Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến xuống làm Thiên hộ. Nay truyền: Lý Hằng cho Lưu Thế Anh mượn năm ngàn binh, Khoan Triệt cho Lý Bang Hiến mượn một ngàn kị mã, sớm mai hai người lập tức quay về Chương Dương bổ sung vào đội ngũ của Sát Tháp Nhi Đài. Điều động Nạp Hải dẫn một vạn quân, Tôn Hựu dẫn một vạn quân đến Chương Dương lập trại bên ngoài. Sai quân hiệu truyền lệnh cho Bột La Hợp Đáp Nhĩ đưa binh thuyền án ngữ sông Hồng chặn đường thủy quân Trần tiến công từ phía nam. Cả thảy trên bộ dưới sông có gần bảy vạn quân, giao cho A Lý Hải Nha thống lĩnh, lo mà giữ cho được Chương Dương.

Bọn chiến tướng vội vã tháo lui, về quân doanh để chuẩn bị khởi sự. Nạp Tốc Lạt Định cưỡi ngựa đuổi theo Tôn Hựu dặn dò:

– Quân Vân Nam vốn ít, nay ngươi dẫn đi một vạn nên chẳng còn bao nhiêu. Hãy liệu bề mà đánh, nếu đánh không lại thì gắng bảo toàn lực lượng, kẻo lúc phải rút về nước, ta chẳng còn gì để phòng thân.

Tôn Hựu hỏi:

– Như vậy theo ngài cuộc chiến này ta khó thắng?

Nạp Tốc Lạt Đinh lên giọng đàn anh:

– Còn gì nữa, ngươi là thuộc tướng nên ta mới nói riêng cho biết. Cố giữ lấy mình, đừng chết uổng mạng làm ma đói xứ người.

Viên Bình chương ghé sát tai gã Vạn hộ thầm thì, không biết họ nói gì với nhau nhưng thấy vẻ mặt của Tôn Hựu cứ sáng rỡ lên, ra cái điều rất tâm đắc.

Sau trận chiến A Lỗ, Hưng Đạo Vương dẫn quân quay về Vạn Kiếp để trù liệu kế sách đối địch nay mai. Theo dự đoán của ngài, trong vòng một tháng nữa, vùng đông bắc sẽ là bãi chiến trường chôn vùi đạo quân Nguyên Mông khi chúng buộc phải tháo chạy về nước.

Trước khi lên đường, ngài kêu Tuấn Thọ lại dặn dò:

– Ngươi lấy năm trăm quân đến cắm chốt trên sông Luộc quá ngã ba chừng vài dặm, giương một lá cờ đại thêu chữ Đông A ở nơi cao ráo, ban đêm thì đốt lửa làm hiệu. Đồng thời cử người đi tìm kiếm nơi quân ta trú đóng. Vài ba ngày nữa, nếu thấy binh thuyền của Quan gia hoặc Thái sư thì chỉ dẫn về đấy hội quân.

Quả nhiên không nằm ngoài tính toán của Hưng Đạo. Lúc trận chiến Tây Kết nổ ra thì đội thuyền tiên phong năm mươi chiếc do hai tướng Trần Thông và Trần Quốc Thành chỉ huy, bắt đầu vào cửa Hải Thị. Sẩm tối hôm đấy họ đến gần ngã ba sông Luộc. Do không nắm được tình hình thực địa, các tướng cho tạm neo thuyền để cử người đi thám thính, trước khi tiến vào sông Thiên Mạc. Chợt thấy phía xa bùng lên một ngọn lửa lớn, Trần Thông bảo thuyền tiến lại gần thì đọc được chữ Đông A thêu trên đại kỳ đang tung bay phất phới. Thông cả mừng, reo lên:

– Kia rồi, quân ta cắm cờ làm hiệu, như vậy là đã chiếm được A Lỗ.

Trần Quốc Thành nói:

– Đề phòng địch cài bẫy, cẩn thận vẫn hơn.

Hai tướng không cho thuyền cập bãi mà đậu giữa sông chờ xem động tĩnh từ trên bờ. Chốc lát có chiếc thuyền nhỏ chèo ra, một võ tướng hỏi vọng lên:

– Xin cho biết, đạo thuyền của ai?

Trần Thông từ trên mạn hỏi vọng xuống:

– Có phải Tuấn Thọ, tì tướng Vạn Kiếp không?

Họ nhận ra nhau trong ánh đuốc bập bùng, cùng hớn hở vui cười và thông báo tình hình đôi bên. Tuấn Thọ cho biết, quân ta đã chiếm Tây Kết sáng nay, chuẩn bị công phá Hàm Tử. Hai tướng mừng lắm, sốt sắng muốn đi ngay. Quốc Thành nói:

– Đại quân của Chiêu Minh Vương xuất bến sau nửa ngày, sớm mai sẽ vào tới đây. Ngươi nên ở lại chờ đón, nhưng cử người dẫn đường cho tụi ta đến nơi đóng quân của Chiêu Văn Vương, để còn kịp góp sức đánh Hàm Tử.

Tuấn Thọ đáp:

– Tiểu nhân vẫn ở đây chờ đón Thái sư, nhưng mùa này nước sông Hồng rất mạnh, thuyền ngược dòng không thể đi nhanh, ban đêm cũng khó phân biệt địch ta. Hay là các ngài chờ trời sáng hãy khởi hành?

Trần Thông nói:

– Không được, phải đi ngay. Quân tiên phong mà chờ đại quân đến sát gót mới rục rịch thì còn ra thể thống gì nữa?

Tuấn Thọ đành dùng đèn làm hiệu điều một chiếc thuyền nhỏ ra sông dẫn đường cho đội tiên phong của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải. Trước lúc chia tay, các tướng sai quân trong dây thả xuống thuyền Tuấn Thọ hai sọt cam đẩy, bảo rằng “Có chút quà xứ Thanh, người chia cho binh sĩ ăn lấy thảo”.

Sáng ngày hai tám tháng tư, binh thuyền của Thái sư Trần Quang Khải còn ở ngoài biển thì đạo quân của Thượng hoàng và Quan gia đã cập bờ Trường Yên.

Theo lịch trình, để chuẩn bị thêm phương tiện, nhị hoàng xuất bến sau Thái sư ba ngày. Nghe tin vua triệu tập thuyền bè, bà con Thanh Hóa nô nức kéo đến tham gia, ai cũng sốt sắng góp thuyền giúp vua đuổi giặc. Bến bãi đông vui như hội, thuyền bè đậu kín ba dặm, dân chúng tíu tít phụ giúp binh sĩ dắt ngựa, chuyển đồ ăn thức uống lên thuyền. Nhân Tông và các quan vô cùng cảm phục tinh thần trợ nghĩa của đồng bào, ngài hỏi dân “Nghe nói bọn Toa Đô, Ô Mã Nhi lùng sục cướp thuyền, dân ta giấu ở đâu mà còn giữ được đem tới cho trẫm?”. Dân thưa với vua “Giặc đến thì đem thuyền ra khơi hoặc giấu trên nguồn. Nay hoàng thượng cần thuyền, chúng dân hội về giúp người chở quân đánh Thát”.

Thế là hai vua quyết định xuất binh sớm hai ngày, chớp thời cơ mà tiến quân khiến giặc hoàn toàn bị động, muốn trở tay cũng đã muộn. Do quãng đường ngắn hơn nên dù đi sau một ngày, các vua đến Trường Yên trước khi Thái sư đến sông Hồng.

Ngoài ba trăm thuyền chiến oai hùng của lực lượng hải quân Đại Việt, đạo thuyền hỗn hợp của ngư dân gồm lớn bé đủ cỡ, cũ mới đủ kiểu cùng tham gia hải trình chuyển hơn tám vạn quân ra Trường Yên. Thuyền lớn chở bảy, tám chục quân, thuyền nhỏ chở bốn, năm chục binh do chính dân chài chèo chống, cả thảy gần ngàn chiếc nối đuôi nhau theo thuyền vua cưỡi sóng nhắm hướng đông ra khơi để tránh bị quân Toa Đô phát hiện. Đi được chừng mười lý, đoàn thuyền chuyển sang hướng tây bắc, theo gió nồm lao nhanh vào bờ. Được ngày đẹp trời, chuyến hải hành của quân dân bình an vô sự.

Tiền điện chỉ huy sứ Lê Mạnh chỉ huy vệ Thần Sách thống lĩnh bảy ngàn quân tiên phong đổ vào cửa Đại An, vừa đặt chân lên đất liền, ông bảo với binh sĩ “Mấy tháng trước, lúc nguy cấp, chúng ta đã rút quân qua cửa này. Nay tình thế đảo chiều, anh em ta lại vào cửa này để giúp Quan gia giành lại Trường Yên. Các huynh đệ có nỗ lực cùng ta không?”. Đoàn chiến binh đồng thanh hô lớn “Chúng tôi nguyện cùng tướng quân giành lại Trường Yên”. Theo kế hoạch, quân tiên phong sẽ tiến đánh Yên Mô, chiếm đèo Tam Điệp, phòng chống bọn Toa Đô từ Thanh Hóa kéo ra.

Trước khi đem quân vào Ái Châu, Toa Đô để lại năm nghìn quân canh giữ Trường Yên, chia làm ba cụm ở Yên Mô, Uy Viễn và Yên Ninh. Với lực lượng thưa mỏng như vậy, chúng khó bề chống chọi với đại quân của nhị hoàng. Khi quân của Lê Mạnh ập đến Yên Mô, giữ trại giặc chỉ có tám trăm lính Thát, số đông theo Thiên hộ Lý Diễn đi càn quét kiếm cơm chưa về. Bọn địch trong trại bị tấn công bất ngờ, không kịp vớ vũ khí đánh trả nên nháo nhào chạy trốn. Quân ta mặc sức ra đòn, rửa mối thù tàn hại lương dân vô tội, nhiều tên bị giáo chọc vào bụng, ruột phơi trắng lùm cỏ, lắm đứa bị kiếm chém lìa cổ, máu phun ngập nền đất. Một đám vài trăm thằng còn chút chí khí liên kết lại có mở lối rút chạy, song bị quân ta vây bủa tầng tầng lớp lớp, giết sạch không sót đứa nào.

Có mười mấy tên không tìm cách kháng cự mà chui bờ bụi ẩn náu, bị tóm sống nhưng được tha mạng. Lê Mạnh tra khảo bọn tù binh, chúng khai báo đường đi nẻo về của viên đầu lĩnh Lý Diễn. Ông cho quân mai phục đón đánh lũ kẻ cướp trên đường quay về trại.

Sau ba ngày càn quét các động sơn cước, đội quân của Lý Diễn hí hửng trở về trại với đàn trâu hơn chục con, năm xe lương thực, nhiều lợn gà và một đoàn đàn bà, con gái bị trong dây vào cổ dắt đi như súc vật. Khi giặc lọt vào ổ phục kích, phát hiện thấy toán phụ nữ bị chúng bắt theo, Lê Mạnh ra hiệu cho các xạ thủ hạ gục bọn áp giải rồi phát lệnh tấn công, Quân ta từ hai phía nhảy xổ vào đám giặc, miệng hô vang “Sát Thát cẩu tặc”, dùng thế áp đảo mà đánh giết tơi bời. Riêng Mạnh dẫn đội chiến binh cường tráng nhất xông tới giải thoát các nữ nhân, cử người bảo vệ chị em rồi chia quân lùng diệt bọn đào thoát.

Thiên hộ Lý Diễn dẫn theo được dăm chục quân thúc ngựa tháo chạy. Bị quân ta bám đuổi ráo riết, bọn tàn quân cú rơi rụng dần, chạy đến một hồ lớn dưới chân núi Tam Điệp thì hết đường, Lý Diễn ngoảnh lại chỉ thấy còn ba tên lính, bèn hét một câu “Trời nỡ nào buộc ta phải chết” rồi phi ngựa thẳng xuống nước. Mấy tên lính kim cương, không dám liều mình theo chủ, giơ tay chịu trói. Tên Thiên hộ tàn ác chẳng để lại dấu vết gì ngoài đám tăm sủi đục mặt hồ.

Dẹp xong giặc ở Yên Mô, Lê Mạnh cử một đội binh sĩ đông tới hai trăm người đưa đoàn phụ nữ cùng toàn bộ gia súc và lương thực trở về bản quán. Lúc lên đường, các chị các em rưng rưng nước mắt, cùng chắp tay cúi đầu đa tạ ân nhân cứu mạng. Vị chỉ huy sứ bùi ngùi tiễn mọi người mà lòng thì tràn trề niềm kiêu hãnh của một chiến binh đã làm tròn chức phận giải phóng.

Nhị hoàng cập bờ sau Lê Mạnh khoảng ba canh giờ. Toàn quân đã rời thuyền bình an, hai vua cùng các quan tướng đứng trên bờ bái biệt bà con ngư dân trở về quê nhà, Nhân Tông dõng dạc nói:

– Thượng hoàng và trẫm sẽ ghi lòng tạc dạ công sức của mọi người đã tận tâm chí nguyện giúp quân đội triều đình đánh giặc thuận lợi. Mai mốt giang sơn sạch bóng ngoại bang, trẫm sẽ miễn thuế trong ba năm để dân chúng các nghề ngư, tiều, canh, mục sớm phục hồi sinh kế, ổn định cuộc sống.

Hơn một ngàn ngư phủ đồng loạt quỳ gối hô vang:

– Chúng dân đa tạ hoàng ân. Thái thượng hoàng vạn vạn tuế. Hoàng thượng vạn vạn tuế.

Tin thắng trận ở Yên Mô báo về, vua tôi càng phấn chấn, ai nấy đều sốt sắng lên đường lập công.

Theo lệnh vua, Tả Thiên Vương Trần Đức Việp dẫn một vạn quân xuất kích đánh Uy Viễn, Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung dẫn một vạn quân đến Yên Mô kết hợp với Lê Mạnh tăng cường phòng thủ Tam Điệp. Hai vua cùng các tướng khác tiến đánh Yên Ninh, từng là trung tâm chỉ huy của giặc ở Trường Yên.

Tại Uy Viễn, quân Nguyên chỉ có hơn một ngàn binh sĩ, trước đó đã nghe tin thất thủ Yên Mô nên rủ nhau tháo chạy về Thiên Trường. Tả Thiên Vương chưa đánh đã thắng, nhưng ngài không dễ chấp nhận để bọn chúng chạy thoát nên tung hai ngàn quân kị lần theo dấu vết mà truy kích.

Phát hiện quân ta đang đuổi theo, viên Tổng bả Lỗ Cư Xích Khoát cùng hơn trăm lính kị bỏ mặc bọn bộ binh, quất ngựa chạy thẳng. Đến sông Đáy, chúng cướp được một chiếc thuyền nhỏ, đám lính rời ngựa tranh nhau lên thuyền, mấy thằng to khỏe vung đạo đe dọa, sẵn sàng chém xả đồng bọn để giữ chỗ cho mình. Cuối cùng chỉ có tên Tổng bả và vài chục đứa thoát được sang bên kia sông. Bọn còn lại chạy tứ tán, dăm tên liều lĩnh nhảy xuống nước, vùng vẫy một hồi rồi chìm nghỉm.

Lũ bộ binh như rắn mất đầu, tinh thần hoảng loạn, hò nhau tháo chạy ra bờ sông, bất lực nhìn dòng nước cuồn cuộn, chúng đành thúc thủ chờ quân ta đến trái.

Lỗ Cư Xích Khoát chạy tới Thiên Trường, vào trình diện Giảo Kỳ. Lão thân vương mới nhận tin dữ từ A Lỗ, nay lại được tin ở Trường Yên, tâm trí tự nhiên bấn loạn, bèn triệu Lưu Khuê đến tham vấn.

Lưu Khuê hỏi bại tướng:

– Ngươi có hay tin về các trại khác không?

Xích Khoát đáp:

– Yên Mô đã thất thủ, còn tình hình ở Yên Ninh tại hạ không nắm rõ?

Lưu Khuê phán đoán:

– Chúng dùng một đạo quân lớn đánh vào chỗ yếu nhất của quân ta, đủ biết Trần gia có nhiều người giỏi binh pháp. Trước sau Yên Ninh cũng bị diệt, bấy giờ họ sẽ uy hiếp từ phía nam, đường vận lương đã bị cắt, chỉ sau một ngày cuối sông Hồng, thuyền chiến của giặc sẽ đến Thiên Trường. Ta ở đây khác nào có nằm trên thớt.

Giảo Kỳ run bắn cả người, mà rằng:

– Theo Vạn hộ, có cách gì đối phó?

Lưu Khuê nói:

– Vài ba vạn quân giữ Thiên Trường không xuể, nên khó mà tăng viện giúp Yên Ninh. Nhưng ta cũng không thể ngồi yên một chỗ chờ giặc đến. Tôi sẽ dẫn một vạn quân lập phòng tuyến ở bờ bắc sông Đáy, đề phòng quân Trần chiếm Yên Ninh vượt sông đánh sang. Còn ngài cũng nên rời hành cung Thiên Trường đem quân lên ngã ba sông Trà Lý lập phòng tuyến chặn địch theo sông Hồng đánh xuống.

Giảo Kỳ phàn nàn:

– Sao phải đi xa vậy, lúc cần rút thì đi về đâu?

Lưu Khuê đáp:

– Tùy ngài thôi, đến nước phải tháo chạy thì thân ai nấy lo.

Năm vạn quân của nhị hoàng tiến đánh Yên Ninh, vốn chỉ có vài ngàn quân Mông Thát đồn trú. Đạo quân nhà Trần không hề giấu giếm binh lực, trống dong cờ mở hành binh như thác cuộn về hướng đồn thù. Hai vua mặc chiến bào ngồi xe tam mã lọng vàng, xung quanh có hơn trăm quan tướng và hai ngàn túc vệ hộ tống, xe vua đi đến đâu cũng được dân chúng đổ ra rưng rưng lạy chào. Viên chủ tướng Yên Ninh là Chiêu thảo Lư Quốc Cang hồn vía rụng rời khi nhìn thấy đoàn quân đối phương dài dằng dặc, bèn dẫn quân tháo chạy khỏi trại.?️

Trước đó Nhân Tông đã sai phó tướng hữu vệ Thiên Chương là Hồ Đức Trọng dẫn năm ngàn quân mai phục bên bờ sông Đáy. Đám giặc chạy một hồi nhưng không thấy quân Trần truy kích, Lư Quốc Cang hí hửng thoát nạn, đang tính kế vượt sông thì trong các bãi lau có cả ngàn mũi tên bắn ra hạ gục hàng loạt binh sĩ của y. Khi đối phương bật dậy từ lòng đất vung đao kiếm chặn đầu, viên Chiếu thảo dẫn quân đổi hướng chạy dọc bờ sông lại rơi vào một ổ phục kích khác. Trước sau thọ địch, Cang liều mình đánh trả, bị chết trong đám loạn quân.

Quân thần vô cùng hồ hởi khi nhận được tin Hưng Đạo Vương đã diệt A Lỗ, quân ta đang hợp lực đánh các đồn trại giặc dọc sông Hồng. Kịp lúc Hồ Đức Trọng đưa quân về Yên Ninh trình diện nhị hoàng, dẫn theo gần năm trăm tù binh Mông Thát. Vua khen ngợi chiến thắng, hứa định công hậu thưởng. Lại có tin báo, Tả Thiên Vương Trần Đức Việp sai người áp giải bảy trăm tù binh từ Uy Viễn mới về đến.

Thấy Nhân Tông nhíu trản đăm chiêu, Thượng hoàng bèn hỏi:

– Bệ hạ lại có điều phân vân rồi, chắc là vấn đề tù binh?

Nhân Tông tròn mắt kinh ngạc, tỏ bày sự thán phục:

– Phụ hoàng tài thật, biết được cả bụng con.

Thánh Tông cười, mà rằng:

– Ta là cha của hoàng nhi mà.

Nhân Tông thổ lộ:

– Quả thật con chưa nghĩ ra cách nào hợp lý để giải quyết đám quân Nguyên bị bắt. Thế cuộc chưa vào hồi kết, ta vẫn cần từng người lính, từng cân thóc, nay lại phải cử một đội quân canh giữ chúng, còn lo nuôi ăn hằng ngày. Thả thì không được, giết cũng không nên, vì chúng đã đầu hàng mà đem giết thì còn gì là đại nghĩa diệt ác độ nhân.

Thánh Tông nói:

– Bệ hạ khó nghĩ cũng phải, từ hồi khởi chiến đến giờ, đây là lần ta bắt được nhiều tù binh nhất. Nhưng sắp tới sẽ còn bắt nhiều hơn nữa, cần trò liệu cho chu đáo để sau này đỡ lúng túng. Hoàng thượng đã giãi bày, các khanh có kế gì thì nêu ra?

Đinh Củng Viên đề nghị:

– Theo thần, ta tạm thời đưa chúng khỏi vùng chiến sự, lập một trại lớn mà nhốt cả vào đấy. Đành cử người trông coi và tốn cơm gạo ban đầu, rồi bắt chúng tự trồng rau củ, nuôi lợn gà để có cái mà ăn.

Nhân Tông mừng rỡ nói:

– Cách này được. Vậy trẫm giao Lê Trọng Dĩnh đảm nhiệm, khanh hãy thu xếp cho tốt.

Lê Trọng Dĩnh kiến nghị:

– Thần vốn quen việc tra hỏi, xét xử, nay bệ hạ giao làm canh nông, không biết gánh vác ra sao?

Nhân Tông mỉm cười rồi phán:

– Khanh làm Kiểm pháp quan, quản trại giam là hợp lý. Việc canh nông thì binh sĩ của ta ai chẳng biết chăn nuôi trồng tỉa, khanh cứ giao phó, họ sẽ khiển đám tù làm việc.

Bấy giờ Trọng Dĩnh mới thấy an tâm, đáp rằng:

– Hạ thần tuân chỉ.

Nhân Tông lại hỏi:

– Ta đã thu hồi được Trường Yên, nhưng phía sau có Toa Đô, phía trước có Giảo Kỳ, theo các khanh, bước kế tiếp nên tiến hành ra sao?

Đỗ Khắc Chung nói:

– Mất Trường Yên, bọn Giảo Kỳ tất kinh động, ta nên thừa thắng kéo quân ra lấy Thiên Trường.

Nguyễn Thuyên nói:

– Nhị hoàng ngồi một chỗ cũng lấy được Thiên Trường. Khi giặc rút chạy, bấy giờ hãy cử người ra tiếp quản.

Thánh Tông hỏi:

– Kế sách ra sao, khanh trình bày cụ thể xem nào?

Thuyên nói:

– Giảo Kỳ là gã thân vương đớn hèn, khi hay tin ta chiếm Trường Yên, lại biết đường tiếp lương bị cắt, trước sau cũng tìm cách tháo chạy. Phó tướng của y là Vạn hộ Lưu Khuê, tuy có dũng khí nhưng quyền bính thấp, nếu Giảo Kỳ rút quân, Lưu Khuê muốn đánh cũng không đủ binh, tất sẽ chạy nốt. Ta chỉ cần tung tin nhị hoàng sắp dẫn mười vạn binh ra Thiên Trường. Trong vòng mười ngày, giặc sẽ chạy hết.

Lê Văn Hưu lên tiếng:

– Thần tán thành kế sách của Nguyễn Thuyên. Nếu chia quân, dù để lại bốn vạn giữ Trường Yên thì binh lực vẫn thua kém Toa Đô, khi hắn kéo đến sẽ khó bề trụ vững. Quân đánh Thiên Trường bấy giờ chỉ còn bốn vạn, không áp đảo được giặc. Chi bằng ngồi một chỗ mà khiến giặc tan.

Đinh Củng Viên nói:

– Nếu nhị hoàng theo kế của Nguyễn Thuyên, thần chỉ xin sửa lại một chút chiêu thức “Tung cây dọa khỉ”, là dùng người của chúng truyền tin tới tai bọn đầu lĩnh ở Thiên Trường.

Nhân Tông hỏi:

– Có phải khanh muốn thả tù binh để bọn chúng phao tin đại quân ta sắp tiến đánh Thiên Trường?

Củng Viên đáp:

– Ý thần đúng như vậy. Lựa một số tên già yếu, lấy sự khoan dung mà phủ dụ, trước khi thả về tình cờ để chúng chứng kiến binh lực hùng hậu của ta. Như vậy ta cũng đỡ được mấy miệng ăn, còn phía giặc thì cả tin hơn vì chính đồng bọn của chúng tai nghe mắt thấy.

Thượng hoàng có vẻ hài lòng, Quan gia bèn sai truyền:

– Đỗ Khắc Chung phù hợp việc này, khanh bàn bạc với Lê Trọng Dĩnh tiến hành cho kín kẽ. Đinh Củng Viên, Lê Văn Hưu giúp trẫm khôi phục lại hệ thống nha phủ để dân chúng an tâm vua ta đang điều hành lãnh thổ. Nguyễn Thuyên thay trẫm thảo thư tín gửi cho Hưng Đạo Vương và Chiêu Minh Vương.

Buổi sáng hôm sau ở Yên Ninh, Phó tướng Hồ Đức Trọng bày binh trên hai quả đồi phía trước bãi cỏ quây rào nứa làm nơi tạm nhốt lính Nguyên. Cả vạn quân hàng ngũ chỉnh tề, tinh kỳ rực rỡ, gươm đao sáng chói, khiến bọn tù binh dõi theo bằng ánh mắt tò mò lạ lẫm. Hồ Đức Trọng vận võ phục oai vệ, cưỡi chiến mã to khỏe, tháp tùng có năm tiểu tượng hùng dũng, chạy nước kiệu duyệt binh đội rồi dùng trước hàng quân. Tướng Trọng dõng dạc hỏi lớn:

– Binh sĩ hữu vệ Thiên Chương sức lực thế nào?

Cả vạn con người đồng thanh đáp lại:

– Rất khỏe.

Đức Trọng lại hỏi:

– Binh sĩ hữu vệ Thiên Chương tinh thần ra sao?

Cả vạn con người cùng cao giọng đáp lời:

– Rất tốt.

Tiếng hô rền như sấm sét, khí thế oai phong như thiên binh nhà trời, làm đám lính Nguyên tròn mắt kinh sợ, lại có phần thán phục cách thức chào hỏi nghiêm trang và thân mật của tướng sĩ nước Nam mà chúng chưa một lần được thấy trong đời.

Đợi cho tiếng vang lắng xuống, Đức Trọng cất tiếng hào hùng chỉ thị ba quân:

– Ta được hoàng thượng tín nhiệm giao ấn tín tiên phong trong trận chiến nay mai. Đội ngũ hữu vệ Thiên Chương sẽ dẹp lối mở đường cho đạo quân hàng chục vạn của các vua tiến vào Thiên Trường, trọng trách rất nặng nề, anh em binh sĩ có nỗ lực cùng ta không?

Hai quả đồi lại rung chuyển bởi tiếng hô đanh thép của ngàn vạn chiến binh Đại Việt:

– Chúng tôi quyết theo chủ tướng mở đường diệt Thát tại Thiên Trường.

Bọn tù binh thầm thì bàn tán, có kẻ ra vẻ hiểu biết “Kia là quân hữu của một vệ, còn quân tả nữa. Họ có tới mười mấy vệ tả hữu như thế”, đứa này thán phục “Chí khí của quân An Nam mạnh quá”, đứa kia phán đoán “Thiên Trường cũng sớm mất thôi”.

Buổi trưa, Đỗ Khắc Chung và Lê Trọng Dĩnh xuống trại tạm giám sát việc chuyển tù. Khắc Chung nói với bọn tù binh:

– Các ngươi là lính trong đạo quân xâm chiếm nước Nam, đáng lý phải tội chết để trả nợ máu tàn sát dân lành, nhưng vua ta khoan dung đại độ không nỡ giết, còn chọn chỗ đất tốt đưa về đấy giam giữ. Nay xếp hàng năm đi ra khỏi trại về nơi ở mới.

Lê Trọng Dĩnh biết nhìn người, cứ mỗi hàng tù binh bước qua cổng trại đều được ông soi xét kỹ lưỡng, thấy tên nào già nua ốm yếu và bạc nhược thì giữ lại. Trong hơn một ngàn lính Nguyên, ông chọn được hai mươi lăm đứa thuộc đủ các sắc tộc rồi bàn giao cho Đỗ Khắc Chung.

Ba trăm chiến binh Đại Việt dưới quyền của Kiểm pháp quan Lê Trọng Dĩnh áp giải đoàn tù binh Mông Thát lên đường tới trấn Thiên Quan ở phía tây Yên Ninh. Thấy đồng bọn đi cả, những tên ở lại đâm hoảng, sợ bị quân ta sát hại. Nhìn vẻ mặt thất thần của chúng, Đỗ Khắc Chung lên tiếng trấn an:

– Đường đến trại giam xa xôi mà các ngươi thì quá già yếu, vua ta sợ mấy người gục chết dọc đường nên động lòng cho ở lại. Nếu các ngươi thề không đánh trận nữa thì vua ta sẽ thả cho về.

Bọn Nguyên sửng sốt, không tin ở tại mình, một tên đánh liều hỏi:

– Thưa đại nhân, có phải vua của ngài tha cho chúng tôi được trở về?

Khắc Chung đáp:

– Đúng vậy. Ta nghĩ các ngươi chẳng còn thiết việc đánh nhau, chi bằng cho về để thêm tỏ nhân đức sáng rỡ của bậc chí tôn. Nhưng sau khi được thả, nếu ai bị tướng Nguyên giữ lại thì nên né tránh ra trận, khi thấy quân ta thì tìm chỗ trốn chứ đừng kháng cự.

Đám lính lao nhao bày tỏ nỗi vui mừng và thái độ hàm ơn trước lòng khoan dung của vua nước Việt. Khắc Chung bắt chúng phải thề bồi. Bọn tù binh cùng khấu đầu nguyện xin trời đất chứng giám sẽ không bao giờ chống lại người Nam.

Ông cho người dẫn chúng ra sông Đáy, xuống một chiếc đò cắm sào đợi sẵn. Đám tù binh được chở sang bờ bên kia, thuộc địa phận phủ Thiên Trường.

Đoàn binh thuyền của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải do tì tướng Tuấn Thọ dẫn đường vào đậu tại bến Tây Kết, vương và chư tướng cùng đoàn tùy tùng đến hội quân với các đầu lĩnh đang đóng trại gần Hàm Tử, cách Chương Dương ở bên hữu ngạn không đầy năm dặm. Tướng soái Đại Việt gặp nhau tay dang mặt cười, mừng vui khôn xiết, lời chào câu hỏi chộn rộn trên bến dưới thuyền. Sau buổi tao ngộ ấm nồng, mọi người kéo vào quân doanh bàn bạc kế sách đánh giặc.

Chiêu Minh Vương đọc chiếu thư của Quan gia gửi cho các tướng trên mặt trận phía bắc. Trong thư có đoạn viết “Thượng hoàng và trẫm vô cùng cảm kích tinh thần chiến đấu của các khanh và binh sĩ. Mong sao trên dưới đồng tâm nỗ lực quét sạch giặc Hồ khỏi kinh sư, để trẫm sớm về Thăng Long khôi phục lại nền thịnh vượng của giang sơn Đại Việt”. Các tương đồng loạt quỳ gối tung hô “Chúng thần tuân chỉ. Quyết giành lại Thăng Long”.

Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật thông báo tình hình bố trí lực lượng quân sự của giặc:

– Theo tin tức thám báo, trại giặc ở Chương Dương có vạn rưỡi quân kị bộ, dưới bến có vạn rưỡi quân thủy và gần một trăm chiến thuyền do Sát Tháp Nhi Đài đầu lĩnh. Cách ba dặm về phía nam có đạo binh thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ. Quanh Chương Dương, chúng lập thêm hai trại lớn do Nạp Hải và Tôn Hựu cai quản. Trước sau quân Nguyên có không dưới bảy vạn binh, tất cả đều thuộc quyền thống lĩnh của viên Bình chương A Lý Hải Nha.

Chiêu Minh Vương hỏi:

– Tên Bình chương trú đóng ở đâu?

Nhật Duật đáp:

– Thám tử của đệ có nhiều người Tống, họ trà trộn trong đám giặc nên nắm được tin A Lý Hải Nha không cố định ở chỗ nào. Hắn dẫn theo một trăm tả hữu nay ở trại này, mai đến trại khác, đôn đốc việc binh rồi lặng lẽ bỏ đi.

Chiêu Thành Vương nói:

– Nó là con cáo già xảo quyệt nên thường xuyên di chuyển đề phòng ta biết được nơi trú đóng sẽ dồn lực tấn công vào đấy.

Minh Hiến Vương nói:

– Đệ và Hoài Văn Hầu đã tính kế bày trận mai phục diệt gã thống soái Bình chương nhưng không thành. Trại thủy bộ của Nguyên chỉ cách nhau vài ba dặm, phục kích được nó thì cũng bị chúng kéo đến vây hãm, khó thoát.

Quang Khải nói:

– Số tên này chưa tận, chờ dịp khác vậy.

Nhật Duật hỏi:

– Huynh đã nghĩ ra cách đánh Chương Dương chưa?

Quang Khải không cho biết chủ ý mà hỏi lại:

– Bên hữu ngạn lực lượng của ta thế nào?

Nhật Duật đáp:

– Đệ chỉ mới liên lạc được với anh em Nguyễn Khả Lạp, họ có ba nghìn quân, nhưng toàn chiến binh sơn cước rất giỏi dùng tên nỏ.

Quang Khải nói:

– Giặc có năm cụm binh lực, gồm hai cụm dưới sông, ba cụm trên bờ, tất cả đều ở hữu ngạn Thiên Mạc. Ta có lực lượng mạnh hơn nhưng lại tập trung bên tả ngạn. Phải điều quân sang hữu ngạn càng sớm càng tốt.

Trần Thông nói:

– Ý của đại vương định điều động ra sao, xin ngài chỉ thị để chư tướng thi hành.

Quang Khải nêu chủ ý:

– Diệt được Chương Dương chưa hẳn khiến bọn Thoát Hoan rúng động. Cần chia quân kéo về uy hiếp Thăng Long, bấy giờ giặc mới kinh hoàng, có thể chúng sẽ rút quân đi nơi khác. Ta phản công bằng tinh thần quyết chiến, đánh lớn và phô bày thanh thế để tạo ra tiếng vang khiến binh sĩ giặc hoang mang dao động, chưa vào trận đã muốn thua.

Nhật Duật nói:

– Hay lắm. Huynh quả là bậc cái thế nhìn xa trông rộng.

Bấy giờ Chiêu Minh Vương mới truyền lệnh:

– Chiêu Văn Lương, Chiêu Thành Vương, Minh Hiến Vương cùng với Nguyễn Khoái đem quân uy hiếp Thăng Long. Các huynh để liên lạc với Trung Thành Vương đang ở Bắc Giang, để tạo thành năm mũi tiến quân bao vây kinh thành làm cho giặc mất ăn mất ngủ. Trận Chương Dương ta sẽ trực tiếp chỉ huy, sai Trần Quốc Toản và Trần Quốc Thành dẫn quân sang hữu ngạn liên kết với Nguyễn Khả Lạp và Nguyễn Truyền đánh trại của Nạp Hải và Tôn Hựu. Vũ Quốc Minh cùng các tướng tả hữu Chương Thánh kéo quân sang hữu ngạn đánh thẳng vào trại Chương Dương. Trần Thông dùng binh thuyền đánh thủy quân của Sát Tháp Nhi Đài, ta sẽ tiến đánh đạo thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ. Nay phân công như vậy, ai có ý kiến khác không?

Mọi người đều tán thành việc điều động của Chiêu Minh Vương. Ai nấy nhanh chóng rời bản doanh trở về với binh sĩ của mình để thực hiện kế hoạch dẫn quân vào trận. Trong buổi tối hôm ấy, các lực lượng Đại Việt được lệnh xuất kích, hơn chục vạn con người lặng lẽ hành quân đến vị trí tập kết, chuẩn bị cho trận chiến ngày mai.

Hàng trăm chiến thuyền được huy động chở quân sang bờ phải sông Hồng Nguyễn Khả Lạp và Nguyễn Truyền đem quân đến bảo vệ bãi đổ bộ rồi kết hợp với Trần Quốc Toản và Trần Quốc Thành dẫn binh đội áp sát trận địa. Trần Nhật Duật và các tướng kéo quân lên phía bắc khi đến Long Đàm thì chia làm hai cánh; Chiêu Văn Vương và Chiêu Thành Vương tiếp tục men theo bờ tả ngạn tiến đến Đông Ngàn để liên kết với Trung Thành Vương quấy phá vùng đông bắc Thăng Long; Minh Hiến Vương và Nguyễn Khoái dẫn quân qua bãi nổi, dùng bè nứa vượt sông sang bờ tả ngạn tiến đến Từ Liêm, đe dọa vùng tây và tây bắc kinh thành Thăng Long.

Sáng sớm ngày mồng một tháng năm, quân ta mở màn trận đánh.

Trần Quốc Thành chia quân làm hai cánh công phá trại của Nạp Hải, các cung thủ bắn mưa tên khiến giặc không ngóc đầu lên nổi, kị binh và bộ binh của ta đồng loạt xuất kích. Trại mới lập nên khá trống trải, hàng rào chưa dựng xong, lũy đất chưa được đắp, ngoài những lều lán tạm bợ, hầu như không có gì che chắn. Chúng cũng tổ chức bắn trả nhưng kị binh quân Nam lướt quá nhanh nên thiệt hại không đáng kể. Quốc Thành dẫn quân tràn vào trại, Nạp Hải hò quân kháng cự, song tinh thần chẳng có, bọn lính chỉ lo tìm đường thoát thân.

Túng thế, Nạp Hải rút chạy về phía bắc, bỏ lại hơn ba ngàn binh sĩ bị giết hoặc bị bắt sống. Quân ta thu được nhiều khí giới và một kho lương chỉ đủ cho một vạn quân ăn trong ba ngày. Trần Quốc Thành nói với các chiến hữu “Bọn Nguyên đang thiếu lương thực trầm trọng. Cả đội quân đông như thế mà được cấp lương ăn mấy bữa thì thua chạy là phải”.

Trần Quốc Toản và anh em Nguyễn Khả Lạp tiến đánh trại của Tôn Hựu, nằm ở phía nam Chương Dương. Trại này cũng trống trải nên dễ đánh. Hàng ngàn xạ thủ sơn cước áp sát bốn mặt, mở đầu cuộc tiến công bằng những loạt tên tẩm độc, giết chết tại chỗ hơn trăm lính Nguyên, bọn giặc rụng rời khiếp vía chạy nháo nhào tìm chỗ ẩn nấp sau những lều vải, vách nứa mỏng manh. Chớp thời cơ, từ hai phía, Trần Quốc Toản và Nguyễn Khả Lạp, Nguyễn Truyền kéo quân chiếm trại.

Tôn Hựu nhớ lời dặn của Nạp Tốc Lạt Đinh, chẳng thiết đánh trả mà dẫn quân chạy về phía tây bắc nhằm tránh xa chiến trường quanh Thăng Long, đợi ngày hội binh với chủ tướng quân Vân Nam tại ngã ba Hạc như ước hẹn.

Hai vạn chiến binh dưới quyền chỉ huy của Nội tiền điện Vũ Quốc Minh và các tướng tả hữu vệ Chương Thánh là Nguyễn Phúc Thành và Lâm Quang Đán chia làm ba mũi ào ạt tiến đánh trại Chương Dương. A Lý Hải Nha đang ở trong trại, cùng với Sát Tháp Nhi Đài và bọn Lưu Thế Anh tung quân ra chiến lũy kháng cự. Quang Đán dẫn quân nhanh chóng áp sát trại giặc rồi dùng sức ngựa kéo đổ hàng rào. Địch bắn tên cản phá, toán đi đầu gục xuống thì toán sau lại xông lên, thế cuồn cuộn như nước thúc bờ, quân ta tràn vào cận chiến với giặc. Viên Bình chương sai Lý Bang Hiến dẫn một ngàn quân bị xông lên bịt lỗ hổng. Bang Hiến sẵn có tư tưởng cầu an, lại bị hạ chức làm Thiên hộ khiến tâm trạng bất mãn, tuy phục tùng thượng cấp nhưng trong đầu dự tính mưu khác.

Toán kị mã Mông Thát phi ngựa cắt ngang đội hình của Lâm Quang Đán, quân ta dùng giáo đâm, quân Nguyên vung gươm chặt, hai bên loạn đả kịch liệt. Giặc khống chế được lỗ thủng thì Quang Đán cho quân vây kín, Bang Hiến quyết liệt phá vây, cố đánh trả để thoát ra khỏi trại. Viên tướng giặc đạt được mục đích, y cùng vài trăm quân kị quất ngựa tháo chạy. Quang Đán dẫn hơn ngàn kị binh đuổi theo. Quân Thát vừa phi ngựa vừa bắn cung triệt hạ đội ngũ truy kích. Quân ta dùng nỏ bắn trả. Tướng hữu vệ Lâm Quang Đán bị tên xuyên trúng ngực, thấy chủ tướng trọng thương, các chiến binh dùng ngựa, bọn Bang Hiến chạy thoát.

Vũ Quốc Minh và Nguyễn Phúc Thành dẫn quân ập vào trại khi Bang Hiến đã thoát được ra ngoài, quân ta giành giật với giặc từng lũy đất, đẩy chúng lui dần vào khu trung tâm. Gươm giáo và cung nỏ mặc sức thi triển, lực lượng đôi bên ngang tài đồng sức, chỉ hơn thua tinh thần quyết tử nhưng cũng đủ khiến xác người chất chồng cao bằng mặt lũy, máu nhuộm đỏ chiến địa không chừa một chỗ nào. Thấy đối phương dần chiếm ưu thế, còn lũ Bang Hiến đã tìm đường thoát thân, Bình Chương A Lý tính kế thượng tẩu, bèn nói với Sát Tháp Nhi Đài và Lưu Thế Anh “Các ngươi gắng giữ trận địa, ta xuống binh thuyền đốc chiến”. Rồi y cùng một trăm tả hữu vọt thẳng ra sông, bỏ mặc đồng bọn đang nguy khốn.

Lưu Thế Anh nhắm hướng quân hữu vệ có phần yếu hơn bên hò hét binh sĩ mở đường máu xông ra. Nguyễn Phúc Thành giục quân tả vệ trợ lực với quân hữu vệ vây chặt giặc thù, không cho chúng có cơ hội thảo lui. Bên tuyệt vọng điên cuồng kháng cự, bên kiên gan quyết liệt cản đường, giặc dấn ba bước lại phải lùi hai bước, thịt xương ngập ngụa dưới chân tướng sĩ, màu vàng đỏ lòm mặt mũi chiến binh, biết mấy thân xác trúng thương quằn quại còn bị dẫm đạp lên cơ thể trong thế tiến thoái của người còn sống. Thế Anh cùng năm trăm tàn binh chọc thủng vòng vây, chạy bộ về hướng binh thuyền. Phúc Thành dẫn kị binh rượt theo truy sát, đao mác của quân Chương Thánh theo đà ngựa phi bổ xả tới tấp lên đầu Nguyên Mông, chặn đường không cho chúng tiếp cận bến thuyền. Bị dồn xuống bờ sông, cùng đường kiệt sức, Lưu Thế Anh và gần một trăm lính giặc liều mạng nhảy xuống nước. Hầu hết bọn chúng bị nước cuốn trôi, chỉ một số ít còn sức lực bơi sang được bờ bên kia.?️

Trong số mười mấy tên sống sót có Lưu Thế Anh. Ngựa không có, khí giới cũng mất cả, viên bại tướng và bọn tàn quân lạc lõng bên tả ngạn, ban ngày trốn chui trốn nhủi trong bụi rậm, tối đến mò ra ruộng đào trộm khoai củ. Thế Anh không thể về Thăng Long, phần vì sợ đại vương bắt tội, phần nữa không có vũ khí để cướp thuyền, đành mặc kệ số phận đưa đẩy, cho đến lúc gặp được đoàn quân của Giảo Kỳ đang tháo chạy tả tơi.

Nhìn quanh các tướng lớn nhỏ đã đào thoát hết, lại thấy tiếng náo loạn từ bến thuyền dội lên, biết dưới đây cũng chẳng an toàn, Sát Tháp Nhi Đài quyết định đột phá mở lối thoát ra bằng đường bộ. Giữa vòng vây đối phương, còn tụ lại hơn ba ngàn binh và một ngàn chiến mã, Nhi Đài gào rống khích lệ ba quân “Bạc nhược là chết hết, dũng khí còn có cơ hội sống sót. Nếu các ngươi không muốn bỏ xác ở đất này, hãy cùng ta phá vây”. Binh sĩ Mông Thát lấy được tinh thần, hùng hổ theo chủ tướng xông tới đội hình dày đặc của Vũ Quốc Minh. Thấy giặc liều chết lăn xả vào đánh, khí thế quân ta bị chùng xuống, Điện tiền chỉ huy sứ hò hét “Anh em chớ chùn bước. Theo ta bịt của mở của giặc”, rồi ông dẫn đội kị binh ập đến chặn đứng lũ giặc đang cố vượt thoát ra ngoài. Một tên thủ túc của Sát Tháp Nhi Đài là gã hộ pháp Dã Nặc Cáp Mộc thấy chủ tướng lâm nguy, bèn hét lớn “Tướng quân tìm lối khác thoát hiểm, ở đây đã có tiểu nhân”, rồi hai tay vung cặp chùy lớn như cái đấu lao vào vòng vây quân Trần đánh ngã rạp hàng chục binh sĩ Đại Việt. Các chiến binh xiết lại vòng vây, hàng loạt lưỡi đao bổ xuống khiến tên giặc to khỏe khó bề chống đỡ. Chớp thời cơ, Sát Tháp Nhi Đài và bọn kị mã đổi hướng đột phá vào chỗ quân ta thưa mỏng. Thoát ra rồi, ngoảnh đầu lại thấy Dã Nặc Cáp Mộc bị trúng đao kiếm máu phun ra như vòi, Sát Tháp Nhi Đài quệt nước mắt, dẫn tàn quân rút chạy về phía bắc.?️

Vũ Quốc Minh cho quân dùng cung nỏ bắn đuổi khiến chúng tổn thất đáng kể. Sát Tháp Nhi Đài vừa chạy vừa lầm bầm chửi Binh chương A Lý Hải Nha “Thấy hiểm nguy là nó chạy trước. Lại dùng binh thuyền của ta để tẩu thoát. Đại tướng mà hèn kém, không bằng đứa tôi tớ. Nguyền cho nó tận mạng, vỡ mật mà chết”.

A Lý Hải Nha sống sót trong trận Chương Dương, y còn chạy thoát về nước khi quân Nguyên đại bại, nhưng chỉ được ít tháng sau thì lăn đùng ra chết. Có người bảo hắn chết vì bệnh, có người lại bảo hắn vỡ mật mà chết vì hoảng sợ khi được Hốt Tất Liệt sai chuẩn bị binh lực sang đánh An Nam lần nữa, riêng đám thủ tục của Sát Tháp Nhi Đài thì khăng khăng cho rằng A Lý Hải Nha chết vì lời nguyền từ chủ tướng của chúng.

Khi chiến sự trên bờ đang diễn ra ác liệt, cũng là lúc binh thuyền của Trần Quang Khải vào trận. Ba trăm năm chục chiến thuyền Đại Việt bủa vây đạo thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ, che chắn cho đội thuyền hơn trăm chiếc vượt qua để tiến đánh đoàn thuyền của Sát Tháp Nhi Đài đậu tại bến Chương Dương.

Trần Quang Khải tung năm thuyền lớn chất đầy rơm khô lao thẳng vào đội hình địch, khi áp mạn thuyền đối phương, các chiến binh cảm tử đốt thuyền rồi nhảy xuống nước. Thuyền ta cháy to, lửa lan sang hàng chục thuyền giặc, quân Nguyên xúm vào dập lửa, đội cung thủ thừa cơ xạ kích, địch chẳng cứu được thuyền còn bị thiệt quân vô số. Nhằm mở lối thoát hiểm, Bột La Hợp Đáp Nhĩ liều lĩnh cho các thuyền còn lại rời xa đám cháy tiến ra giữa dòng đâm vào đạo thuyền của ta đang án ngữ mặt sông. Chiêu Minh Vương giục quân bẻ lái quay ngang thuyền tránh cú va đập rồi tui móc câu níu thuyền gi mà nhảy sang giáp chiến.

Đội thuyền của Đại Việt đồng gấp đôi, tinh thần của binh sĩ nước Nam mạnh gấp mười nên hoàn toàn áp đảo binh thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ, vốn chỉ có kháng cự để tìm đường chạy cho nhanh khỏi trận máu lửa kinh hoàng. Biết đánh không lại, bọn giặc trên các thuyền thi nhau nhảy xuống nước như một lựa chọn cuối cùng, hy vọng vớ được mảnh gỗ ván xác thuyền để khỏi chết đuối. Quân ta chiếm hơn hai chục chiến thuyền của giặc, cung thủ ra sức xạ kích đám lính Nguyên đang ngụp lặn trên sông. Đạo thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ còn lại sáu mươi chiếc tả tơi, kéo nhau rút chạy về phía nam.

Binh thuyền của Trần Thông ập đến Chương Dương khi tiếng hò la trên bờ đang vang trời dội đất. Lũ giặc trên các thuyền bắn tên như mưa, quân ta đã chuẩn bị sẵn dụng cụ che chắn bện bằng rơm nên thiệt hại không đáng kể. Trần Thông cho đội thuyền tiến sát vào đoàn thuyền Mông Thát rồi dẫn quân nhảy sang đánh chiếm.

Chủ tướng của giặc ở trên trại nên bọn dưới thuyền mất phương hướng, chống đỡ loạn xạ mà không biết cách vượt thoát. Thế ta quá mạnh, giặc kháng cự không nổi, chúng hò nhau bỏ chạy lên bờ. A Lý Hải Nha cùng bọn thủ túc từ trên bờ chạy ngược xuống, kêu hét binh lính quay về giành thuyền. Được chủ tướng đốc thúc, đám lính hăng lên, ồ ạt nhảy xuống chiếm lại đạo thuyền.

Thấy tình thế đảo chiều, Trần Thông cho quân sĩ đốt thuyền giặc. Nhiều chiến thuyền cháy rực, buộc A Lý Hải Nha phải dẫn quân tháo chạy về Thăng Long. Đội thuyền của Sát Tháp Nhi Đài tan tác, ngoài mười lăm chiếc rách bươm theo viên Bình chương thoát nạn, số còn lại bị quân ta đốt trụi và tịch thu.

Trên đường hành binh vây hãm Thăng Long, năm đội quân nước Nam như những cơn lốc mùa hạ kéo qua đến đâu là đồn thù bị san thành bình địa. Các toán quân Mông Thát vài ba trăm tên trấn giữ bến sông bãi chợ bị quét sạch khỏi nơi chốn hoành hành bá đạo. Dân chúng làng trên xóm dưới thoát ách kìm kẹp của bầy lang sói ăn tàn phá hại, nô nức ùa ra đón mừng đoàn chiến binh giải phóng. Gói quà tấm bánh của người dân trao tận tay binh sĩ Đại Việt như sự gửi gắm niềm tin yêu của trăm họ vào luồng bão táp Đông A sẽ sớm thổi tung bụi Hồ ra khỏi bờ cõi, xua chúng về lại nơi chốn khởi nguồn của mầm mống yêu nghiệt tanh tưởi.

Theo chủ ý của Trần Nhật Duật, khi diệt đồn phá trại, quân ta lỏng tay kiếm một chút, để dăm thằng giặc có cơ chạy thoát. Chúng nghiễm nhiên thành những kẻ truyền tin nhanh nhất, đắc dụng nhất tới tại bọn đầu lĩnh ở Thăng Long về sức mạnh vũ bão của các binh đoàn An Nam đang xiết dần thòng lọng quanh cổ đại quân thiện triều vốn dĩ đói ăn lâu ngày và mệt lả vì nắng nóng.