← Quay lại trang sách

Chương 8 Trời quang mây tạnh, Quan gia xuống ngựa hội kinh
Gió thảm mưa sầu, Phạm Thái dấn thân báo nghĩa

Sau ngày trở về đội ngũ Vạn Kiếp, Phạm Thái được Hưng Đạo Vương bổ sung vào đơn vị quân hiệu của Nguyễn Hoà, chuyên trách liên lạc, truyền tin và giao nhận thư tín. Thái xin được tham gia lực lượng chiến đấu, Vương từ chối, ngài bảo:

– Trong số binh sĩ Vạn Kiếp, ngươi đánh giặc nhiều nhất. Đánh từ đất Nguyên, đánh sang tây bắc, đánh tận Hoan Ái, rồi lại đánh lên đông bắc. Lập công đủ rồi, giờ đến lượt người khác. Làm quân hiệu nếu gặp giặc cũng phải đánh, ngươi chớ có phàn nàn nữa.

Biết không thể nài nỉ chủ soái, Thái cúi đầu phụng mệnh. Thấy Nguyễn Hòa đứng bên cạnh cười tủm tỉm, Thái nghi lắm. Ra khỏi quân doanh, chàng bèn hỏi đội trưởng:

– Làm sao huynh cười, có ý gì đấy?

Hòa đáp:

– Có gì đâu. Chẳng qua muốn đệ về đội ngũ của huynh, được Đại Vương tình cờ đáp ứng, thấy vui nên cười.

Thái vẫn còn thắc mắc:

– Có thật không đấy?

Hòa vừa cười vừa nói:

– Dối đệ làm gì, mến nhau thì mới vậy.

Thật ra sự thể không hoàn toàn như vậy. Sau trận chiến trên sông Thương, Phạm Thái theo Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật sang sông và đến trình diện Hưng Đạo Vương. Khi Thái đã lui ra ngoài, Hưng Đạo hỏi Chiêu Văn:

– Hắn thế nào, có tận tụy không? Sao vẻ mặt của nó ủ rũ vậy?

Chiêu Văn đáp:

– Can trường và tận tụy không ai bằng. Hắn vừa chôn cất huynh đệ chí cốt là tên tiểu tử Lô Viên Dụng. Hai đứa tình như thủ túc, kẻ mất người còn vui sao đặng.

Nét mặt Hưng Đạo thảng thốt, vương rầu rĩ nói:

– Tệ quá. Vì mải lo việc lớn nên trở thành kẻ vô tâm. Chính ta cử hai đứa đem thư lên tây bắc cho huynh, nay chỉ có một đứa trở về mà ta lại không hề nghĩ tới đứa kia. Thằng bé là huyết thống của các bậc trung nghĩa làm phên giậu cho nước Nam bao đời nay. Nghe nói cha của nó tham gia đánh Nguyên ngay từ trận đầu, nay chẳng biết còn hay mất. Đáng tiếc vô cùng.

Cuộc trò chuyện của hai vương bỏ dở khi các tướng kéo đến họp bàn quân cơ.

Gặp lại đồng đội cũ, niềm vui thì ngắn tày gang còn nỗi buồn cứ lê thê suốt canh trường nhạt nhòa lửa khói. Quá nửa huynh đệ thân tình ở Vạn Kiếp đã vùi thây rải rác khắp mọi nẻo sơn hà. Trong tâm hồn đa cảm của Phạm Thái, mối tê tái đầy hoài chẳng vơi. Sự trống vắng gõ cửa con tim, thôi thúc cõi lòng rộng mở để tìm lại hơi ấm tình người, Thái kể cho Nguyễn Hòa và đồng đội nghe về lời nguyện đáp nghĩa cho cha mẹ của Đỗ Thành, về các trận chiến dưới quyền của đội trưởng Hứa Tông Đạo và lời hẹn sau này hội ngộ ở Bạch Hạc, về cái chết bi hùng của Lô Viên Dụng và lời hứa đến quê nhà báo tin cho người thân của cậu bé...

Hai dòng lệ hoen dài trên gò má sạm màu nắng gió, Thái quệt nước mắt rồi nói thổn thức:

– Đệ chẳng hề run sợ khi đánh giặc nhung sợ lắm khi ai đó đề phòng bất trắc mà gửi gắm hung tin... Đệ không nhận đâu, đừng ai nhờ cậy như vậy nữa...

Bên ánh lửa trại bập bùng mờ tỏ, chẳng ai để ý thấy trong đôi mắt của Nguyễn Hòa long lanh hai giọt nước.

Vài hôm sau, tìm cơ hội tiếp cận Đại Vương, Hòa tranh thủ vắn tắt với ngài về tâm tư của Phạm Thái và ngỏ ý xin cậu chàng về đội của mình.

Hưng Đạo thở dài, mà rằng:

– Ta có nghe sơ sơ về nỗi niềm của y. Hắn là trang hảo hán nhưng có tình người sâu nặng, khi chứng kiến sự mất mát đồng đội, bạn bè thì lòng không khỏi rung động. Phạm Thái đánh giặc nhiều rồi, cuộc chiến sắp tàn, cho về đội của ngươi cũng là cách để hắn ít gặp nguy hiểm, mai này còn có dịp trả ơn, báo nghĩa các chiến hữu vào sinh ra tử.

Một cuộc sắp xếp nhỏ nhặt mà đầy ắp lòng nhân ái của vị thống soái quân đội và viên gia tướng thân cận đã hoán chuyển người chiến binh đánh trận thành đội viên liên lạc, vốn có môi trường hoạt động ít đổ máu hơn người lính trên sa trường.

Đội quân hiệu nhận nhiệm vụ chuyển thư của Hưng Đạo Vương lên biên giới đông bắc. Phạm Thái xung phong gánh vác. Nguyễn Hòa tìm cớ thoái thác:

– Đệ vừa đánh trận liên miên, mới trở về đội ngũ thì cứ nghỉ ngơi ít bữa. Để huynh cử người khác.

Thái nằng nặc đòi đi bằng được:

– Đã là tin khẩn thì không thể chậm trễ. Đệ thuộc lòng biên cương Lạng Giang nên có thể đi đường tắt. Với lại, nếu thuận tiện... đệ sẽ tìm đến nhà Viên Dụng. Huynh đừng cản đệ chuyến này.

Chẳng thể từ chối, Hòa đành chấp nhận để Thái lên đường cùng với hai liên lạc viên khác. Mỗi người phụ trách một lá thư, Thái xin lĩnh lá thư chặng cuối, đến Khả Ly trao tận tay cho Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn. Tuy ba địa chỉ nhận thư nằm trên một trục đường, nhưng không thể giao cho một người vì họ còn chờ thư phúc đáp đem về cho Đại Vương. Tay nải cột sau lưng, hông dắt đoản kiếm, yên cài cung tên, ba chàng kị sĩ cưỡi những con ngựa cao lớn là chiến lợi phẩm thu được của giặc, soạn sửa lên đường lúc trời còn tinh sương. Khi từ biệt nhau, Nguyễn Hòa dặn dò Phạm Thái:

– Bảo trọng nhé. Đệ còn nhiều trách nhiệm phải chu toàn đấy.

Thái thúc ngựa phóng đi rồi quay đầu đáp lại “Đa tạ Hòa huynh. Đệ không quên đâu”. Đến Nội Bàng, một liên lạc viên dừng ngựa, hai người còn lại tiếp tục phi thẳng. Qua Động Bản, một người ở lại, còn mình Thái ruổi một lèo tới Khả Ly. Lúc trời tối mịt chàng mới đến được bản doanh của Hưng Vũ Vương, nhưng ngài lại đi vắng. Lính gác cho biết vương đi thị sát chiến tuyến chặn giặc, Thái đành nán lại chờ đợi. Sang giờ hợi, vương trở về, Thái trình thư cho ngài. Xem xong thư, Hưng Vũ nói:

– Bây giờ đã khuya, chắc ngươi cũng mệt rồi, nên nghỉ lại. Mai ta sẽ phúc đáp thư gửi phụ vương.

Thái mừng quá đỗi khi ước muốn của mình đã ở trong tầm tay, chàng nghĩ “Lúc Mông Thát lăm le phạm cõi ta đã đánh trận đầu, nay chúng phải cuốn xéo lẽ nào ta lại bỏ qua trận cuối. Mai giặc đến cứ đánh cái đã, Đại Vương đã chẳng nói lúc gặp giặc thì quân hiệu cũng phải đánh là gì”. Sau hai ngày kém ngủ, chàng tuấn kiệt làm một giấc say sưa.

Sáng hôm sau, khi tỉnh giấc nhìn ra ngoài thấy quân tình đang rất khẩn trương, Thái bật dậy chạy đi hỏi dò. Một binh sĩ cho biết “Thám báo cho hay giặc thua to ở Nội Bàng, đang lũ lượt đổ về Động Bản. Như vậy chỉ nội trong hôm nay hoặc ngày mai là chúng sẽ chạy qua đây”. Hưng Vũ Vương cho gọi Thái đến, ngài bảo:

– Người chưa thể quay về Vạn Kiếp, đường đến Động Bản đang ở giặc. Vậy cứ ở lại thêm một bữa, biết đâu sẽ là người đầu tiên báo tiệp đại thắng cho soái phủ.

Phạm Thái phấn khởi lắm, dạ ran rồi lui ra ngoài theo các chiến binh lên chiến tuyến. Nhưng cả ngày hôm ấy giặc không chạy qua. Đám quân nhỏ nhoi rách nát của A Lý chấp nhận trèo đèo vượt núi để về Nguyên mà không dám liều lĩnh vượt qua hiểm địa Khả Ly. Qua ngày hôm sau, thám mã cấp tập báo tin về bản doanh “Hơn một vạn tàn quân Mông Thát đang trên đường chạy đến Khả Ly, đầu lĩnh là chủ soái Trấn Nam Vương và Tả thừa Lý Hằng”. Hưng Vũ Vương rất phấn khích, ngài nói với ba quân:

– Trận này cố đánh đấy. Theo chỉ thị của Quốc Công Tiết chế phải đuổi đánh chúng đến tận biên giới, các anh em hãy tập trung tiêu diệt bọn đầu sỏ xâm lược.

Binh sĩ hò reo hưởng ứng. Trong không khí sục sôi đánh giặc, hàng vạn con dân nước Nam đã sẵn sàng tư thế chiến đấu, quyết giành thắng lợi trong trận cuối diệt thù.

Lại một phen tung hoành đao kiếm, Phạm Thái cùng các chiến binh của Hưng Vũ Vương đuổi giặc chạy dài đến biên giới. Thoát Hoan đã thoát thân, nhưng bọn tàn binh còn nhiều đứa đang lẩn trốn trong rừng núi. Chủ tướng Quốc Nghiễn tung quân lùng sục vây bắt hoặc tiêu diệt cho bằng hết những tên giặc còn lẩn khuất trên lãnh thổ nước Nam. Phát hiện một tên lính đang lấp ló trong bụi cây dưới chân núi, Thái giường cùng ngắm bắn. Nhưng chàng kịp dừng tay, khi chợt nhận ra dáng vẻ thân quen. Thằng giặc ló đầu quan sát, cặp mắt của nó hướng về Phạm Thái. Hai người cùng sửng sốt khi nhận ra nhau. Thái kêu to:

– Trí Nãi.

Đúng là Nông Trí Nãi. Thấy đối phương đang chĩa cung về phía mình, hắn run bần bật do lầm tưởng Thái muốn trả thù chuyện cũ. Nãi vọt khỏi bụi cây, chẳng kịp nghĩ ngợi gì, bám vào vách đá leo lên trốn chạy. Thái phóng ngựa đến, kêu thất thanh:

– Đừng trèo nữa, nguy hiểm lắm, xuống đi. Phạm Thái đây mà.

Nãi càng hoàng, sợ mắc mưu kẻ ở bên dưới, cố trèo cao hơn. Thảm rêu trên đá làm hắn trượt chân, ngã lộn cổ từ lưng chừng núi xuống đất. Thái chạy lại, vòng tay ôm gã dị tộc, nói nghẹn ngào “Trời ơi. Sao để dại dột thế”. Máu từ cơ thể đang lạnh dần chảy ướt sũng cánh tay của chàng. Trong cơn hấp hối, Nãi thốt được một câu “Tha lỗi cho đệ” rồi thở hắt ra.

Phạm Thái không hề hay biết việc Trí Nãi tố giác mình là thám báo Đại Việt, cứ nghĩ rằng vì Nãi mặc áo Nguyên nên sợ mà chạy trốn. Điều ấy khiến chàng đau xót và cảm thấy ân hận khi không kịp ngăn chặn việc làm khờ khạo của cậu trai đồng tộc với Thanh Khê. Nãi thiệt mạng vì sự ám ảnh từ lỗi lầm cũ, nhưng kẻ chết rồi thì sạch nợ. Riêng Thái lại chuốc thêm một nỗi day dứt.

Khắp núi rừng ba quân hò reo đại thắng, binh sĩ thắp đuốc lửa sáng rực biên cương, đâu đâu cũng rộn rã tiếng cười giọng nói. Thái nhận lệnh của Hưng Vũ Vương khẩn cấp báo tiệp về Vạn Kiếp. Không có thời gian đi tìm kiếm nhà của Lô Viên Dụng, lòng dặn lòng đành chờ dịp khác, ngay trong đêm, chàng lầm lũi cưỡi ngựa lên đường, mang theo một khối sầu nặng trĩu.

Sang canh tý, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn vẫn chong đèn không ngủ, ngài cứ đi ra đi vào quẩn quanh giữa đại sảnh với hàng hiên, dáng vẻ bồn chồn ngóng đợi. Sau lần dẫn quân tập hậu bọn Thoát Hoan, vương viết thư dặn dò các tướng ngoài mặt trận rồi chuyển bản doanh về thái ấp. Thiên Thành phu nhân xuống núi hai ngày trước, nhưng hai người chưa có dịp hàn huyên. Chiến cuộc chưa dứt, quân cơ bận rộn, vương là tổng chỉ huy quân đội vì mải việc nước mà quên ăn kém ngủ nên bà chẳng đành lòng đòi hỏi tình cảm riêng tư. Đã hai lần nhắc chồng đi ngủ nhưng ông đều kiếm cớ né tránh, bà biết phu quân đang trông ngóng tin tức từ chiến trường, đừng nói chi vợ, thiên lôi có buộc ông cũng chả ngủ.

Sợ chồng thức khuya hại sức thì nhắc thế, thật ra phu nhân cũng chẳng ngủ được, hết nằm lại ngồi mà thắc thỏm về Quốc Nghiễn. Hai tên tiểu tử Quốc Tảng, Quốc Hiện đều vô sự, riêng cậu cả chưa có tin gì. Ông hay bà cũng vậy thôi, làm sao mà an giấc khi con trai đang đánh trận ngoài biên ải. Bà nghiệm thấy thành tâm tụng niệm luôn nhận được điều tốt lành, hai lần cầu Phật chưa dứt bài kinh đã nghe xôn xao bên ngoài tin mừng thắng trận của hai cậu con trai. Chiều nay bà tụng kinh suốt buổi, nhưng điều ấy không lặp lại. Trong lòng chẳng hề bất an, tức là không có linh cảm về những chuyện tồi tệ, bà chỉ cho rằng “Trời Phật cũng cần nghỉ ngơi. Có lẽ mình cầu không đúng lúc”. Thiên Thành phu nhân lại bật dậy, tất tả xách đèn lên điện Phật.

Nội Bàng, Động Bản đã thắng lớn, còn trận quyết chiến cuối cùng ở Khả Ly vẫn chưa có tin tức báo về. Theo suy luận của Đại Vương, giặc tất bại dưới tay Quốc Nghiễn, nhưng kết quả ra sao mới là điều quan trọng. Tính quãng đường giặc chạy từ Động Bản đến Khả Ly thì trận đánh đã diễn ra ngày hôm kia, nếu Quốc Nghiễn kết thúc sớm, quân hiệu phải về đến Vạn Kiếp chiều nay. Không lẽ cuộc chiến kéo dài hơn dự tính? Bọn tàn binh đói khát không thể có tinh thần và sức lực chống chọi dai dẳng với gần hai vạn quân sung sức và cường tráng, vốn được ngài tung lên biên giới từ nửa tháng trước để có đủ thời gian dung dưỡng binh lực. Như vậy có thể đã xảy ra các tình huống mà ngài chưa lường trước được. Nhưng nó là cái gì? Càng nghĩ vương càng sốt ruột.

Chợt ngoài công thái ấp vang tiếng hò reo. Hưng Đạo thấy lòng nghèn nghẹn, cảm giác bồi hồi xâm chiếm cơ thể làm vương nhớ lại cái đêm tháng mười năm ngoái, cũng ở chỗ này đây, ngài đón đợi thám báo trở về đem theo hung tin giặc Mông Thát động binh tiến đánh Đại Việt. Tiếng reo vui lớn dần, vương bủn rủn cả người, ngài ngồi bệt xuống thêm khóc nấc...

Phạm Thái cưỡi tuấn mã nước kiệu đi đầu, phía sau có hàng trăm khuôn mặt ngời ngời hào khí. Từ các nẻo trong thái ấp mọi người kéo đến nườm nượp, môn khách, gia tướng, tả hữu... chẳng thiếu một ai. Thiên Thành phu nhân cũng xuất hiện, đứng sau lưng chồng chẳng biết từ lúc nào. Thì ra mọi người không ngủ, ai cũng thức chờ đợi thời khắc trọng đại. Ngồi lọt thỏm giữa đám đông vây quanh, vương thấy mình nhỏ bé lắm nhưng cõi lòng thì nhẹ tênh khi chợt nghĩ “Họ là những người góp công lớn nhất trong kỳ tích vĩ đại này”, ngài ngước mắt nhìn lên, ánh đuốc sáng bùng soi tỏ bao mặt người nhòa lệ. Những dòng nước mắt mừng vui khải hoàn phải đánh đổi bằng suối máu.

Thái xuống ngựa, quỳ gối trước Đại Vương, hai tay vươn quá đầu dâng điệp thư đỏ rực, lặng im đợi lệnh. Bốn bề bặt tiếng lao xao, tất cả nén lòng chờ đợi, không gian im lìm như đang lắng nghe nhịp thở diệu huyền của thời khắc bất tử. Vẫn ngồi yên tại chỗ, vương phán truyền:

– Ngươi nói đi.

Chàng quân hiệu cất giọng sang sảng:

– Tiểu tốt Phạm Thái từ chiến trường biên ải trở về kính trình Quốc công Tiết chế thông điệp đại thắng của Hưng Vũ Vương. Giặc đã cuốn xéo khỏi nước Nam, một dải cương giới sạch bóng quân thù.

Vương bật dậy, ngửa mặt cười vang rồi hét lớn:

– Đại Việt thắng rồi, Mông Thát cút rồi, trời cao có mắt... ha ha ha...

Hơn ngàn cổ họng cùng hét vang điệp khúc “Đại Việt thắng rồi. Mông Thát cút rồi”. Vương mặc kệ mọi người thỏa thê bộc lộ niềm phấn khích vốn bị ức chế đã lâu ngày, ngài mở phong thư ra đọc rồi tủm tỉm cười suốt. Khi tiếng ồn dịu bớt, vương nói to để mọi người cùng nghe:

– Tướng sĩ Vạn Kiếp nghe đây. Chúng ta chờ đợi tin tức suốt chiều, nay đã biết nguyên do chậm trễ. Khi chủ soái giặc chạy thoát vẫn còn hàng ngàn tên lính tẩu tán khắp núi rừng buộc Hưng Vũ Vương phải chia quân lùng diệt. Điều này nằm ngoài tính toán của ta. Cho hay tướng sĩ ngoài sa trường dẫu phục tùng mệnh lệnh thượng cấp nhưng cần phải linh hoạt, chủ động đối phó với các tình huống bất ngờ. Đây là bài học quý, cả ta và các ngươi nên ghi nhớ.

Quân tướng muôn người cùng dạ ran. Vương nói với Phạm Thái:

– Nhớ ngày nào ngươi trở về mang thông điệp chiến tranh, nằm trên cáng đầm đìa máu đỏ. Nay vẫn là ngươi, hùng dũng trên tuấn mã với điệp thư đỏ chói... Thật không ngờ, không ngờ...

Thái thèn thẹn cúi mặt, miệng nói lí nhí:

– Tiểu nhân cũng chẳng biết tại sao lại như thế.

Vương mỉm cười, hỏi Thái:

– Thật đáng tiếc khi để Thoát Hoan chạy thoát. Trong thư không nói rõ, nếu ngươi chứng kiến, hãy kể lại cụ thể cách nó thoát hiểm?

Phạm Thái hào hứng trình bày:

– Khởi bẩm Đại Vương. Quân ta vây đánh quyết liệt lắm, các chiến binh chém giặc như chém chuối, tên tẩm độc bắn ra rào rào, Lý Hằng, Lý Quán phải bỏ mạng, nếu Thoát Hoan không chui vào cái rương đồng thì khó mà thoát được.

Hưng Đạo ngạc nhiên, ngài giơ tay ra hiệu im lặng rồi hỏi lại:

– Rương đồng à, Thoát Hoan đi đánh trận mang theo rương đồng để làm gì, nó như thế nào, ở đâu ra?

Thái đáp:

– Là một món đồng thau chở trên xe ngựa theo quân Nguyên bôn tẩu. Lúc nguy cấp bọn lính nhét Thoát Hoan vào đấy, nhiều mũi tên bắn trúng nhưng không xuyên được vào sâu. Không biết nó ở đâu ra, vốn là cái gì, khi nhìn thoáng qua thì trông như quan tài, tiểu nhân nói văn vẻ là cái rương.

Mọi người cười ầm lên, Hưng Đạo cũng vui đùa “Thì ra quan tài nói văn vẻ là cái rương”. Ai ai cũng đắc ý khi nghe câu chuyện Trấn Nam Vương Thoát Hoan, con trai của thiên tử Hốt Tất Liệt, thua trận liếng xiểng phải chui vào cái rương đồng trốn chạy khỏi nước Nam. Chờ cho tiếng cười lắng xuống, Hưng Đạo Vương truyền lệnh:

– Tùy tướng Nguyễn Hòa tập hợp quân hiệu cưỡi ngựa tỏa khắp bốn phương, dùng loa thông báo với người dân trong nước tin tức Đại Việt toàn thắng, quân giặc đã bị quét sạch khỏi bờ cõi. Cử liên lạc về Thăng Long, đến Thiên Trường, vào Hoan Ái báo tin thắng trận. Đích thân người cầm tấu sớ của ta đến Khoái Châu dâng lên nhị hoàng, hẹn ngày đón Thượng hoàng và Quan gia hoàn kinh.

Nửa canh giờ sau, một dòng suối đuốc sáng rực từ thái ấp Vạn Kiếp theo vó ngựa dập dồn lan tỏa đi muôn hướng. Tám tháng trước, vào một đêm mưa gió lạnh lùng, cũng từ nơi này đoàn quân hiệu của Hưng Đạo Vương lầm lũi ra đi trong tăm tối đến mọi miền của Tổ quốc truyền tin giặc động binh. Vẫn những chàng trai ấy lên đường hôm nay, mang theo tâm thế của người chiến thắng đem tin vui tới mọi nhà, vực dậy những cơ thể quằn quại thương tích đang mỏi mòn ngóng đợi ngày mới.

Tiếng loa ngân vang khắp làng trên xóm dưới, biết mấy phận người bừng tỉnh cơn bị thiết, cùng vỡ òa niềm hân hoan. Phía hùng đông, ánh bình minh le lói, báo hiệu một ngày nắng đẹp trời trong.

Báo tiệp của Hưng Đạo Vương được nhị hoàng đón nhận tại quân doanh đóng bên tả ngạn sông Hồng. Lê Văn Hưu thừa lệnh đọc tấu điệp trong tiếng khóc nghẹn ngào của hai vua, những dòng lệ từ cõi lòng chất ngất niềm vui cứ mặc nhiên ướt nhòa trên gương mặt đế vương mà chẳng cần che đậy trước bá quan văn võ. Quần thần cũng rưng rưng lệ mừng, họ chờ đợi ngày này bằng nỗi niềm khát khao mãnh liệt khi dấn bước phò vua trên các nẻo đường chinh chiến. Đã có lúc mọi người tuyệt vọng nhìn thế nước chông chênh trên bờ vực, quân thần bị giặc vây bủa bốn bề, bọn đớn hèn hùa nhau phản loạn, người trung nghĩa nghiến răng cắn môi, xiết chặt lưng quần dẫn binh ra trận mà không hẹn ngày về. Bao nhiêu tướng đã tử chiến sa trường, bao nhiêu quân đã vùi thân ba tấc đất... nhiều lắm, không bút nào tả xiết những số phận đứt lìa bởi dâng trọn cuộc đời cho núi sông. Rồi hy vọng lại bùng lên, khi vua tôi sau trước vẫn đồng lòng, quân dân xuôi ngược vẫn bền chí, đợi giặc có dấu hiệu suy nhược là nhất loạt phất cờ, bốn phương vây đánh, đuổi chúng chạy dài về phương Bắc. Đáng khóc mừng lắm chứ, mỗi dặm trường chinh tiến về đích toàn thắng là mỗi dặm chồng chất xương thịt của dân Nam...

Thượng hoàng Thánh Tông mặc khuôn mặt còn lem nhem nước, sảng khoái cười vui với bá quan:

– Ta cứ tưởng nước mắt khổ đau thì mặn đắng, hóa ra nước mắt mừng vui cũng mặn chát.

Hoàng thượng Nhân Tông bùi ngùi:

– Thưa phụ hoàng, một giọt lệ mừng phải đổi bằng một bát máu của quân dân. Trong niềm vui đại thắng con thấy lòng vẫn vương vấn chua cay.

Đinh Củng Viên vội vàng can gián:

– Thần xin nhị vị chí tôn đừng bộc lộ sự mủi lòng kẻo ba quân lại ngậm ngùi theo, làm giảm đi ý nghĩa của niềm hân hoan chiến thắng.

Thánh Tông phân bua:

– Ở đây chỉ có quân thần đương triều thì ta cứ bày tỏ tí chút nỗi niềm. Đứng trước quân sĩ ai lại khóc nhè như lúc nãy.

Vua tôi mặc sức cười vang. Mọi người phấn khởi chỉnh trang mặt mũi, y phục rồi cùng bước ra trước quân doanh trong tiếng hò reo dậy trời của ba quân tướng sĩ.

Buổi chiều hôm ấy, hoàng đế Nhân Tông thảo lệnh gửi các đạo quân, hẹn ngày dẫn binh về Thăng Long. Riêng Nguyễn Thuyên được đặc cách thay mặt Quan gia lên vùng núi miền tây đón hậu cung của ngài hồi kinh. Ngài còn bàn bạc với vua cha:

– Sau chiến thắng, lịch sử nước nhà sang trang mới. Con muốn đợi ngày lành tháng tốt sẽ đổi niên hiệu Thiệu Bảo sang niên hiệu Trùng Hưng. Ý của phụ hoàng thế nào?

Thánh Tông hồ hởi nói:

– Nghĩa hay ý đẹp, bệ hạ nên tiến hành. Coi như sự khởi đầu công cuộc khôi phục sơn hà xã tắc bị chiến tranh tàn phá.

Nghe quân vào báo có Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải và Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật xin được cấu kiến. Hai vua cười rạng rỡ, cùng bước ra chào đón những người ruột thịt. Lễ nghĩa quân thần chẳng hề là điều ràng buộc, tình anh em, chú cháu như chén rượu đầy chuốc say mối giao hòa huyết thống trong buổi chiều chếnh choáng men chiến thắng.

Chiêu Minh kể lể:

– Nhận được điệp văn khải hoàn của Hưng Đạo, thần bàn với Chiêu Văn cấp tốc đến đón nhị hoàng hồi kinh. Dọc đường huynh đệ bảo nhau “Cái lão Tiết chế này đoán việc như thánh. Y nói giữa hè sẽ đuổi sạch Mông Thát về nước. Quả nhiên đúng thật”.

Các vua và hai vương cùng cười ròn rã, Thánh Tông sảng khoái mà rằng:

– Ta thấy Quốc Tuấn vẫn đoán chệch một chút. Giết sạch quân Mông Thát mới chính xác. Chúng kéo sang năm mươi vạn, lúc trốn chạy về Nguyên chỉ còn mấy nghìn quân tàn tạ có khác gì bị tiêu diệt hết.

Nhân Tông nói:

– Các đạo quân báo về, binh sĩ giặc bị bắt sống cũng đến vài vạn. Theo Thái sư, nên xử trí ra sao?

Chiêu Minh đáp:

– Thể nào Hốt Tất Liệt cũng đòi người. Chúng là hàng binh thì cũng nên đối xử cho tử tế, khi cần sẽ dùng bọn này làm con bài thương lượng buộc Nguyên triều phải giảm yêu sách đối với Đại Việt.

Chiêu Văn góp vui:

– Lại phải nuôi tốn cơm đây, mấy vạn cái miệng chứ ít ỏi gì. Theo thần, nếu có tha cho về thì bắt chúng vạch lưng ra, thích cho mỗi đứa mấy chữ Nhập Việt tất tử , thế là cạch đến già.

Thánh Tông cười ra nước mắt, ngài bảo:

– Vui quá. Thì ra Nhật Duật cũng hay đùa.

Nhân Tông bụm môi cười mà nói như thật:

– Chiêu Văn chắc không đùa đâu. Vậy để trẫm ban chiếu giao cho ngài thêm chức Tổng quản thích bối phụ trách công việc thích chữ vào lưng bọn tù binh.

Nhật Duật cũng đáp như thật:

– Ối, đi! Thần xin khiếu. Thích cho hết vài vạn tên, làm đến già cũng chưa xong.

Quang Khải tủm tỉm cười, mà rằng:

– Rõ thật tên này. Thỉnh cầu rồi được quan gia giao việc lại chối từ.

Rạng sáng ngày mồng sáu tháng sáu, nhị hoàng cùng bá quan văn võ khởi hành về kinh sư. Cờ xí rợp trời, ngựa xe chật lối, quân trẩy như lớp lớp sóng triều vắt từ Khoái Châu qua cầu phao đến tận Thượng Phúc. Đoàn người đi tới đâu cũng thấy trăm họ nô nức đón mừng, nam phụ lão ấu quỳ bên đường bái vọng vua ta, tiếng hò reo “Nhị hoàng vạn tuế. Đại Việt vạn đại” rền vang cả chục dặm. Hai vua mặc hoàng bào, ngồi xe lọng vàng không buông rèm, thần thái tươi roi rói, cười rạng rỡ vẫy chào dân chúng. Hơn trăm quan tướng y phục oai phong, dáng vẻ lẫm liệt, cưỡi ngựa tháp tùng chí tôn khải hoàn. Trong niềm phấn khích tột độ, Thái sư Trần Quang Khải tức sự thành thơ, được ngài lấy tựa đề là Tụng giá hoàn kinh .

Chương Dương cướp giáo giặc

Hàm Tử bắt quân thù

Thái bình nên gắng sức

Non nước ấy ngàn thu.

Xa giá càng về gần Thăng Long, dân chúng kéo ra đường lạy mừng càng đông đúc. Nhân Tông đánh tiếng với Thượng hoàng:

– Đã xế chiều rồi, nắng không còn gắt. Từ đây đến kinh thành chỉ cách sáu, bảy dặm, con muốn xuống xe đi bộ, để quân dân có dịp giao cảm khí thế “nhất quốc đồng tâm”, mọi người cùng nhau chia sẻ niềm vui đại thắng. Phụ hoàng tuổi cao, không tiện bộ hành, người cứ ngồi trên xe nhé.

Thánh Tông nhăn nhó, mà rằng:

– Đâu có được. Bệ hạ đi bộ, ta lại ngồi xe thì chướng quá. Ngài chớ xem thường sức khỏe ông bố này. Có mấy dặm ngắn ngủi, chẳng đáng lo. Ngồi lâu cũng mỏi lưng lắm.

Nhân Tông phân bua:

– Hoàng nhi nói vậy thôi chứ không có ý gì. Cùng phụ hoàng bách bộ, con càng vui.

Thánh Tông cười khì:

– Có thể chứ.

Hoàng thượng ra lệnh dừng xe. Hai vua rời cỗ tam mã tiến về phía người dân. Quang Khải, Nhật Duật cùng bá quan thảy đều sửng sốt, họ vội vàng rời yên ngựa, hấp tấp chạy theo tháp tùng đế vương.?️

Các vua và quần thần thăm già hỏi trẻ tíu tít như người một nhà trong buổi đoàn viên, chan hòa và nồng hậu, chân tình và sảng khoái, cái khoảng cách giữa ngôi cao chín bệ với thần dân thấp cổ bé họng chưa bao giờ gần gũi đến thế. Biết bao người khóc vì vui sướng, lần đầu tiên trong đời họ được đế vương ân cần hỏi han. Trương Hiển cũng tham gia đoàn quân chiến thắng phò vua về kinh, chứng kiến cảnh tượng ấy mà rơm rớm nước mắt, ông nghĩ “Vua nước Nam cao đẹp quá, dân nước Nam trung nghĩa quá. Họ thắng là phải, ta về theo họ là phải”.

Vua quan đi dăm chục bước lại dừng, cuộc chia sẻ giữa người trên kẻ dưới kéo dài suốt mấy dặm, cho đến khi bóng chiều nhá nhem. Ở phía trước đã thấy trống kèn rộn rã, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cùng các chiến tướng đội ngũ chỉnh tề, binh giáp oai phong đón đợi nhị hoàng bên bờ Tô Lịch.

Tháng bảy dầm dề mưa ngâu hết ngày sang tối, trời đất thì cũng nước còn cuộc sống lại càng như dây đàn khi con người ta phải lên gân chống chọi với đủ mọi thách thức thời hậu chiến. Những trận đánh triền miên ảnh hưởng đến việc canh tác nông nghiệp, ở nhiều nơi nhà nông không thể cày cấy đúng thời vụ. Hàng chục vạn tráng đinh vĩnh viễn không trở về, một số lượng tương đương bị thương tích tàn phế, trâu bò cũng mất mát nhiều, tình trạng thiếu hụt lao động trở thành phổ biến ở các làng thôn, sức sản xuất từ đấy mà suy giảm.

Để vượt qua khó khăn do chiến tranh để lại, triều đình khuyến cáo dân chúng trồng rau củ chống đói. Người dân xắn tay dựng nhà sửa cửa và gồng mình vỡ đất hoang hóa. Nhà vua giảm thuế và đại xá thiên hạ. Vương hầu giảm tô và giãn quân, chuyển một bộ phận dân binh sang làm nông. Tại điền trang Vạn Kiếp, Hưng Đạo Vương chỉ giữ lại năm trăm chiến binh cốt cán, số còn lại cho về nhà tham gia khôi phục sản xuất. Ngài huấn thị binh sĩ:

– Giặc giã không còn, nay cho các ngươi hồi gia để thêm sức mà nuôi sống ruột thịt. Nhưng bọn Mông Thát chưa từ bỏ tham vọng đâu, chúng sẽ tập hợp binh lực, chí ít ba năm nữa lại kiếm cớ đánh Đại Việt. Nếu nước nhà nguy biến, ta sẽ hiệu triệu các ngươi quay về đội ngũ, góp sức với triều đình phò vua giữ nước.

Phạm Thái không được hồi gia, vì không có nhà để về, lại nằm trong số người được Đại Vương tin dùng. Điều này khiến chàng trăn trở mãi, khi ước nguyện nghĩa tình chưa thể thực hiện. Sau nhiều ngày lấn cấn, Thái mạnh dạn đề đạt nguyện vọng với Hưng Đạo. Vương tự lự một hồi rồi bảo:

– Có mấy đứa xin về thăm nhà, ta chỉ cho thời hạn một tháng. Riêng ngươi nặng nợ nhân tình, lại phải đi nhiều nơi nên ta cho hạn sáu tháng. Đi rồi nhớ mà về, việc binh còn nhiều cái phải lo, chờ người về ta sẽ giao phó.

Thái mừng quá, bái chào Đại Vương để thu xếp lên đường. Vừa lui gót, chàng lại được ngài nhắn nhủ:

– Mà này, nếu ngươi muốn kết duyên cầm sắt với ai thì cứ dẫn về đây, ta sẽ cấp cho một mảnh đất để dựng nhà.

Lòng nghẹn ngào bởi sự bao dung của chủ soái, Thái quỳ gối trước bậu cửa mà thốt lên những lời chan chứa cảm xúc:

– Tiểu nhân xin đa tạ Đại Vương. Được chủ nhân chăm lo như ruột thịt, tôi tớ nguyện ở dưới trướng trọn kiếp để báo đáp ân tình của người.

Vương cười mà rằng:

– Vậy sớm sớm cưới vợ đẻ con rồi rèn giũa cho nó chí khí trung quân ái quốc thì coi như báo đáp ta rồi.

Thái lên đường trong một ngày u ám. Một người, một ngựa và một tay nải đơn sơ, chàng ruổi tuấn mã nhắm hướng kinh thành phi nước đại. Mưa dai dẳng ngập trời ủng đất, nước ngấm qua chiếc áo tới khiến cơ thể cứng cáp cũng dúm đó vì lạnh, nhưng ý nguyện chân thành là động lực giúp chàng trai chẳng một chút nề hà. Đích đến của Thái là phường Cơ Xá, nơi chàng dự định ở lại nửa tháng để thay mặt Đỗ Thành báo hiếu cha mẹ, giúp họ sửa chữa lại nhà cửa có lẽ đã chẳng còn lành lặn, thu vén phần nào cái ăn cái mặc cho hai bậc cao niên vượt qua thời buổi khốn khó.

Về đến Cơ Xá lúc trời xế chiều, nhìn quang cảnh tàn tạ, người tráng sĩ kiên gan không khỏi xót lòng trước chứng tích binh đao loạn lạc. Cuộc chiến kết thúc một tháng rồi mà xóm phường vẫn hiu hắt bóng người, chỉ lác đác đây đó có mái tranh đỏ bếp. Nhiều ngôi nhà vẫn bỏ hoang, không ít căn nhà chỉ còn cái mái với mấy cây cột khẳng khiu nằm trơ vơ giữa không gian ngập đầy cỏ dại, nước mưa và tiếng côn trùng não nuột.

Dừng ngựa bên cổng nhà nghĩa phụ, Phạm Thái rưng rưng nước mắt trước cảnh tượng tiêu điều của một nơi chốn từng rộn rã tiếng trẻ thơ học chữ. Có ai đó đã phá tan hoang cơ ngơi của gia đình ông đồ, cửa nẻo chẳng còn, vách ngăn cũng đổ nát, đến kèo cột cũng bị dỡ đi làm mái sập xuống, để lại dưới nền nhà toàn ngói vỡ. Vườn tược bị chặt phá xơ xác, duy mấy khóm mộc cận vẫn vô tư nở hoa đỏ rực trước cổng.

Thái bần thần cả người mà chẳng biết nên làm gì, riêng niềm chua xót ngập ú trong lòng khi mục đích báo hiếu nghĩa phụ nghĩa mẫu đã không thể thực hiện. Nay họ đang ở đâu, sao chưa quay về gia hương mà kiến tạo lại cuộc sống? Khói lửa nguội rồi, nếu hai người vô sự thì đã về rồi, tại sao? Tại sao?

Những câu hỏi đau đáu tâm can, nhưng tìm đâu lời giải giữa chốn hoang phế này, Thái bước ra cổng nhìn quanh. Thấy xa xa có một ngôi nhà lên đèn, chàng dắt ngựa tiến đến. Được khách lạ hỏi thăm về vợ chồng thầy đồ họ Đỗ, người đàn ông trung niên cho biết:

– Tôi mới về được dăm ngày, nghe ngóng tình hình rồi mới đưa vợ con về, từ hôm ấy đến giờ không thấy bóng dáng nhà ông Đỗ. Ở đây điêu tàn quá, nhà cửa hư nát, kế sinh nhai chưa có nên nhiều người về rồi lại đi.

Thái lại hỏi:

– Căn nhà cụ đồ bị đổ sập, bác có nghe nói do ai phá không?

Người đàn ông đáp:

– Giặc Nguyên chứ ai, không riêng gì nhà ông đồ, chúng còn cướp phá vô khối nhà ở Cơ Xá. Có mấy người không chạy giặc mà sống lén lút trong nhà, họ chứng kiến quân Thát kéo đến các nhà có gỗ tốt đập phá để lấy ván bắc thuyền làm cầu phao, giường tủ cũng cướp sạch, cây trong vườn bị chặt còn quả thì vặt hết. Ác quá nên trời không dung, đất chẳng tha, cái cầu của lũ kẻ cướp bị gió bão đánh tan, xác trôi đầy sông.

Thái xin tá túc trong căn nhà tranh của người đàn ông. Chủ khách ăn với nhau một bữa cơm đạm bạc, chỉ có bát canh bầu nấu suông và đĩa rau rền chấm muối. Sáng sớm chàng cáo từ ra đi, không quên gửi lời nhắn nhủ gia đình cụ đồ “Nghĩa tử sẽ quay về vào một ngày khác”.

Dừng chân tại biên ải Lộc Châu khi trời đã tối mịt, Thái ăn ngủ nhờ tại của quan do triều đình mới thiết lập lại. Sang ngày mới, chàng hỏi đường về trại của thủ lĩnh Lô Viên Tả, vị chỉ huy quan ải nói:

– Ta mới được bổ nhiệm về đây nên không rành rẽ cho lắm. Có một bản của người Tày cách chừng năm dặm, nghe nói ngày quân Nguyên kéo sang, nhiều tráng đinh tham gia chặn giặc ở Khâu Cấp Lĩnh, có mấy chục người của bản tử trận. Không biết người mà huynh đệ cần tìm có nằm trong số ấy?

Lần mò đến bản khi mặt trời đã lên quá ngọn tre, nhìn những mái nhà sàn đìu hiu dưới chân núi mà chẳng thấy bóng dáng đàn ông, Thái dừng chân trước một bà mế địu đứa trẻ nhỏ xíu sau lưng, đang lúi húi rửa củ mài bên máng nước. Chàng cất lời thưa gửi:

– Chào bà. Cháu muốn hỏi nhà trại trưởng Lô Viên Tả?

Bà mê già ngước nhìn kẻ lạ bằng ánh mắt ngờ vực, rồi chẳng nói năng gì mà tiếp tục công việc của mình. Thái nhanh trí đổi hướng tiếp cận:

– Thằng bé ngheo đầu ngủ trông dễ thương quá. Bà giữ cháu cho bố mẹ nó lên nương à?

Lão bà nhăn mặt, đáp nhấm nhẳng như bất đắc dĩ phải trả lời:

– Cha nó chết trận ở Khâu Cấp Lĩnh, mẹ nó bị lính Thát bắt đi hầu hạ. Cậu là ai mà hỏi lắm thế, tìm nhà trại chủ để làm gì?

Biết mình động vào nỗi đau của bà mẹ sơn cước, chàng vội sửa sai:

– Cháu thành thật xin lỗi, vì không biết nên lỡ lời. Cháu là bạn chiến đấu của Lô Viên Dụng, muốn ghé thăm cha cậu ấy.

Đôi mắt lão bà dịu lại, nụ cười lóe lên chốc lát rồi lại tắt ngóm trên gương mặt già nua khốn khổ. Bà chẳng nói chẳng rằng, chỉ khoát tay ra hiệu như có ý bảo với chàng trai “Đi theo ta”. Thái dắt ngựa theo bà bước trên con đường ngập bùn nhão, có mấy người đứng nhìn theo, bà nói với họ “Bạn của thiếu gia nhà trại trưởng”. Mọi người hấp tấp rời nhà theo chân bà mế, toàn đàn bà và con trẻ. Họ dừng bước tại một ngôi nhà bề thế nhất bản, tuy cửa đóng then cài nhưng có vẻ ngoài tinh tươm sạch sẽ. Trong đầu Thái gợi nhớ vài chi tiết quen quen mà không tài nào định hình rõ nét.

Mười mấy con người lặng im đứng quanh chàng trai lạ. Thái phân vân lặng nhìn ngôi nhà vắng chủ. Như hiểu được tâm trạng của anh chàng, bà mẹ lên tiếng:

– Ngày quân Nguyên kéo sang, cả bản đã chạy lên núi. Trại chủ bị thương tích nhưng không muốn ngồi một chỗ, ngài tập hợp đàn ông trong bản cùng với nhiều người ở bản khác kéo nhau về Khâu Cấp đánh giặc. Riêng bản này có ba mươi tám người tử trận cùng thủ lĩnh của họ. Từ ngày ngài khuất núi, dân bản vẫn giữ gìn cơ ngơi của họ Lô, chờ con trai của người về tiếp quản.

Mọi người nhao nhao hỏi “Cậu là bạn của Viện Dụng à? Thiếu chủ có lành mạnh không? Hết chiến tranh rồi sao chưa về?”. Thái chết điếng cả người, sợ làm tắt niềm hy vọng của họ, chàng cố nén cảm xúc, nói với các bà các chị mà mắt lại nhìn đi chỗ khác:

– Dụng đang làm công vụ đặc biệt cho Hưng Đạo Đại Vương nên chưa thể về được.

Bà con có vẻ an lòng, mế già nói:

– Vậy là bản ta đã có thủ lĩnh. Cậu phải ở lại đây để tụi đàn ông thiết đãi rượu thịt. Chẳng còn thanh niên đâu, chỉ toàn người lớn tuổi thôi. Họ lên rùng, lên nương cả rồi, tối mới về.

Giấu giếm đàn bà dễ hơn đối mặt với cánh đàn ông, Thái sợ phải nói thật với họ về cái chết của Lô Viên Dụng. Chàng khước từ:

– Cám ơn các bà, các mế thịnh tình đón tiếp, nhưng cháu không thể ở lại vì còn việc phải làm gấp. Dịp khác cháu sẽ quay về thăm bà con.

Thái hỏi đường đến Tà Pạc Nầm. Dân bản gói cho chàng một bọc cơm lam và thịt rừng sấy khô. Từ biệt mọi người, Thái tuổi ngựa nhắm hướng tây bắc, tìm lại nơi hai đồng đội đã ngã xuống để chàng đem những thông tin quý giá về dâng lên đất mẹ, nơi các chiến binh miền xuôi và dân quân sơn cước đã quyết liệt tranh đấu bảo vệ mạng sống của chàng trước nanh vuốt của kẻ thù phương Bắc, nơi lần đầu tiên trong trận chiến chống xâm lăng vang rền tiếng hô “Sát Thát”...

Thế là hai việc đáp đền đã không thành. Phía trước là dòng Bản Thí, phải vượt qua để xâm nhập vào đất Nguyên mà đến với thôn Mai Lâm quen thuộc, nơi có nàng thiếu nữ xinh đẹp đang mòn mỏi đợi chờ người trai từ nước Việt xa xôi. Thái không biết ngày mai sẽ xảy ra chuyện gì, nhưng phải đi thì mới biết, con tim nồng nàn và khối óc tỉnh táo thúc giục chàng dấn bước...

Mân mê chiếc bùa hộ mệnh đeo trên cổ, Thái ngồi trú mưa dưới tán cây rừng, đau đáu nhìn mây mù giăng kín bầu trời của lãnh thổ phương Bắc. Đêm nay chàng sẽ vượt biên giới, tiếng gọi ơn nghĩa và tình yêu vô bờ đã tiếp cho chàng đủ đầy nghị lực để chấp nhận thách thức mà tìm về bến đợi thân thương.