← Quay lại trang sách

Chương 7 Đón đầu giặc Vân Nam, Hà Tặc, Hà Chương ứng chiến
Đoạn hậu quân Mông Thát, Lý Hằng, Lý Quán bại vong

Ngày mười ba tháng năm, gần hai vạn binh mã của Nạp Tốc Lạt Đinh nhổ trại rời Bạch Hạc theo lộ trình ngược lên phía bắc đến Phù Ninh, men bờ sông Lô trực chỉ Vân Nam. Chúng chất đầy gần ba chục xe lương và lùa theo hơn trăm con trâu, đảm bảo lương thực cho đoàn quân về đến đất Nguyên.

Đi được một ngày đường, khi trời nhá nhem tối, đội tiên phong của giặc phát hiện phía trước có toàn quân cao lớn khác thường ẩn hiện trong rừng cọ. Giặc sinh nghi, không dám tiến lại gần, binh sĩ hoang mang lo sợ, cho rằng đây là giống người khổng lồ ở địa phương, đụng độ với họ ắt mang họa. Phần đông quân Vân Nam mang tư tưởng chán nản chiến tranh, chỉ muốn được về nhà bình yên, nên rủ nhau tháo chạy. Viên tiểu tướng Bạt Lư Xích hò hét binh lính quay lại nhưng bị chúng phớt lờ.

Bất chợt từ đồi tranh bên sườn phải có hàng loạt mũi tên vun vút lao đến hạ gục vô số bọn lính đang nhốn nháo bỏ trốn. Tiếng tù và bỗng rúc vang, từ hai phía xuất hiện mấy ngàn dân binh vận sắc phục đen tuyền xách mã tấu phăm phăm ào tới như gió lốc. Đao vung lên là giặc đổ gục, các chiến binh sơn cước tung hoành đánh giết bọn tháo chạy lẫn bọn liều mạng kháng cự. Bạt Lư Xích cùng đám kị binh Mông Cổ bị vây chặt trong một rừng đao mác. Chúng vùng vẫy chống trả hòng tìm cách thoát ra, song đã ở vào thế cùng, cả bọn bị giết không chừa một tên. Xích bị đao xả một nhát chí mạng từ vai xuống ngực, chết rũ xác cùng với hơn tám trăm đồng bọn. Các chiến binh thắng trận bắt được bảy mươi con chiến mã to khỏe thuộc giống ngựa thuần chủng phương Bắc.

Đội dân binh có người khổng lồ “trợ chiến” vốn thuộc quyền chỉ huy của thủ lĩnh dân tộc Tày tên gọi Hà Đặc cùng người em Hà Chương. Đặc cao lớn, mắt xếch râu hùm, được nhà Trần tín nhiệm giao chức Phụ đạo cai quản huyện Phù Ninh. Chương tầm thước nhưng khỏe có tiếng, không làm quan triều đình mà giúp sức với anh quản lý khu vực. Khi Mông Thát tràn ngập lãnh thổ, hai anh em họ Hà tuyển mộ dân binh rồi kéo lên núi Trĩ Sơn lập cứ địa chống giặc. Năm ngày trước, Đặc nhận được thư của Tiết chế, trong thư Hưng Đạo viết “Triều đình rất khâm phục tinh thần quyết chiến của ngài và bà con vùng cao. Nay bọn Nguyên thua to đang tìm đường thượng tẩu, một cánh quân của chúng có thể rút qua ngả sông Thao hoặc sông Lô để trở về Vân Nam. Đề nghị ngài theo dõi tình hình, nếu phát hiện địch quân thì tổ chức vây đánh, để chúng nhớ đời rằng trên lãnh thổ Đại Việt nơi đâu cũng có hào kiệt tiêu trừ lang sói”.

Hà Đặc mừng lắm, kéo quân xuống núi và tung người đi dò xét quanh vùng. Nghe tin thủ lĩnh tập hợp lực lượng đánh giặc, nhiều tráng đinh ở Bạch Hạc và Lập Thạch kéo đến tụ nghĩa. Họ căm phẫn bọn Nguyên Mông cướp giết và đốt phá tàn ác, nên đồng lòng rủ nhau gia nhập đội ngũ đòi giặc trả món nợ xương máu. Chỉ trong ba ngày, đoàn dân binh của họ Hà có thêm ba ngàn chiến sĩ.

Lại có người dân đến báo tin về việc mấy kẻ lạ mặt lai vãng bên bờ sông Lô hỏi đường lên thượng nguồn. Hà Đặc cho rằng bọn này là thám báo của Nguyên đi dò đường bôn tẩu về Vân Nam. Ông bàn bạc với người em:

– Quốc công Tiết chế quả là thao lược, ngài chỉ thị cho anh em ta canh chừng ngả sông Thao và sông Lô. Nhờ tai mắt của dân, nay đã thấy dấu hiệu giặc định chạy lên thượng nguồn Lô giang. Ta cần tổ chức chặn đánh chúng tại Phù Ninh.

Hà Chương nói:

– Theo thông tin có được, quân số giặc chừng hai vạn, trong khi ta chỉ có hơn bảy ngàn tráng sĩ, nhiều người mới đến, chưa quen đánh trận. Đệ nghĩ không nên đối đầu trực diện với chúng, cần dùng chiêu trò dọa dẫm để chúng mất tinh thần rồi phục kích đánh diệt.

Hà Đặc nói:

– Huynh cũng nghĩ vậy. Dù giặc đang thua chạy nhưng vẫn đông hơn ta gấp ba lần. Nên làm hình nhân cao lớn dọa ma nhát quỷ khiến cho chúng hồn xiêu phách tán, bấy giờ mới dễ đánh.

Họ sai quân chế tạo nhiều hình nộm bằng tre nứa cao lớn gấp đôi người thường, cho mặc quần áo rồi bày biện trong khu rừng cọ, khi giặc kéo tới thì cứ hai người khiêng một hình nộm di chuyển qua lại. Còn cho làm hàng loạt mũi tên to đùng, khoan nhiều lỗ trên các thân cây lớn mọc ven đường, cử người túc trực xung quanh, nếu thấy giặc quay đầu tháo chạy thì lấy mũi tên cắm vào lỗ.

Hơn một trăm quân tiên phong thoát chết chạy về trình báo với Bình chương:

– Bọn thổ dân liên kết với một giống người cao như cây sào đánh tan tác đội tiên phong. Tướng Bạt Lư Xích đã tử trận, đám tiểu nhân đánh không lại nên đành tháo lui, dọc đường bị chúng bắn tên to bằng cổ tay, cắm vào thân cây làm toắc cả thớ gỗ.

Nạp Tốc Lạt Định nạt lớn:

– Các ngươi chớ nói năng tầm sàm, làm gì có chuyện hoang đường như thế.

Tuy mắng vậy nhưng viên Bình chương cũng chột dạ, thấy trời đã tối, sợ hành quân ban đêm nhiều bất trắc, y bàn với Tôn Hựu cho dùng binh, lập trại nghỉ qua đêm. Từ trăm mấy cái miệng “mắt thấy tai nghe”, trong quân Vân Nam đồn đại râm ran về những người khổng lồ hung tợn, sử dụng cung tên thừa sức giết cả trâu mộng. Không khí hoảng loạn bao trùm khắp trại, nhiều tên không dám ngủ, cứ mở mắt thao láo canh chừng xung quanh.

Thắng trận đấu, Hà Đặc hào hứng lắm, muốn tổ chức cướp trại giặc ở Cự Đà, ông nói với em:

– Giặc đang hoang mang phải co cụm phòng thủ, trời xui đất khiến lại đóng quân trên đất tổ của họ Hà. Đấy là dấu hiệu chúng sẽ chết dưới tay ta. Đêm nay phải cướp trại.

Chương đáp:

– Đang vào trung tuần, ánh trăng rọi hình nhân càng hư ảo, nên dùng tiếp chiêu này.

Đặc tán thành:

– Phải đấy, điều quân vận chuyển hình nhân bí mật áp sát trại giặc. Nửa đêm sẽ công kích.

Theo lệnh của thủ lĩnh, đoàn quân áo vải có hai canh giờ nghỉ ngơi, trước khi bước vào trận đánh tại quê hương của các vị hào kiệt núi rừng. Sang giờ hợi, đội ngũ âm thầm hành quân vào trận, các hình nộm được chất lên xe trâu chở đến địa điểm tập kết.

Vì cái tin đồn ác nghiệt, sợ bị đám khổng lồ tóm cổ vặn đôi người, bọn lính tuần canh chỉ quanh quẩn sát trại mà không dám đi quá vài chục bước chân nên chẳng hề phát hiện thấy cách chúng không đầy nửa tầm tên có nhiều bóng người đang bò trườn dưới đất, kéo theo những thân hình đồ sộ, lòng khòng và bất động.

Cuối giờ tý, tiếng thanh la nổi lên chói tai, những gã khổng lồ đồng loạt bật dậy chạy qua chạy lại, kịp lúc hàng trăm mũi tên lửa bay vùn vụt về phía dãy lều vải trong trại Nguyên. Bọn lính nháo nhác chạy ra, dưới ánh trăng lờ mờ thấy phía xa có đám khổng lồ đang rần rần chuyển động, lại thấy lửa cháy bốn bề, chúng hoảng loạn tột độ, giành nhau tìm đường thoát thân. Hà Đặc cưỡi ngựa chiến lợi phẩm dẫn quân xông vào trại. Nạp Tốc và Tôn Hựu hò hét tụ quân bảo vệ xe lương. Giặc trấn tĩnh lại, lập đội hình hàng ngang đánh trả. Hai bên quần thảo dữ dội. Lửa, máu, binh khí và xác người khắc họa nên một cảnh tượng giết chóc kinh khủng.

Hà Chương tung quân bao vây vòng ngoài tiêu diệt những tên lính cố thoát ra. Nhiều đứa không kịp mang theo vũ khí, chỉ còn biết lấy hai tay đỡ dao mác của dân binh bổ xả, thân gục xuống, tay rụng la liệt. Một cánh quân xông vào đám lính canh giữ đàn trâu, chúng tháo chạy tán loạn. Quân ta xua trâu thoát khỏi vùng chiến địa.

Lửa cháy quá to, sức nóng hầm hập như trong lò thiêu, buộc hai bên phải hưu chiến, cùng tháo lui. Hà Đặc rút quân chớp nhoáng, trong chốc lát đội chiến binh mất hút vào bóng đêm. Tuy ta thắng lớn nhưng thiệt hại cũng đáng kể, hơn một ngàn con em núi rừng đã bỏ mình trên mảnh đất bỏng rẫy.

Chẳng còn lại bao nhiêu để mà thu vén, Nạp Tốc Lạt Định buộc phải rời trại, ngay trong đêm dẫn quân chạy dọc theo triền sông lên bắc. Đàn trâu bị mất sạch, lương chỉ còn mười hai xe, quân thiệt thêm bốn ngàn người bao gồm bọn bị giết và những kẻ chạy trốn tản mát khắp núi rừng, gã Bình chương hậm hực lắm, trên đường đi không tiếc lời trách cứ Tôn Hựu:

– Bất tài quá. Ta tưởng ngươi đã điều nghiên kỹ càng mới chấp thuận về theo ngả này. Hóa ra đây là đường xương máu, mới khởi hành được một ngày đã thua thiệt nặng nề, chẳng biết phía trước còn cạm bẫy nào nữa? Về theo lối cũ biết đâu lại an toàn, chỉ vì cả tin ở ngươi nên mới ra nông nỗi, bây giờ ân hận thì đã muộn.

Tôn Hựu nín thinh, y biết Bình chương đang giận dữ nên đành nhẫn nhịn, tuy trong bụng vẫn rủa thầm “Chỉ giỏi khinh lờn người khác, tài cán gì mà lên mặt với ta? Ở xứ An Nam này chỗ nào mà chẳng có cạm bẫy, về theo đường sông Thao có khi còn gặp bẫy lớn hơn. Thôi kệ, nếu có cơ hội thì ta bỏ mặc, chẳng dại chờ đợi như trước”.

Nạp Tốc Lạt Đinh tiếc đứt ruột vì mất đàn trâu, nguồn thức ăn bị hụt đáng kể, tuy quân số thiệt một phần tư, nhưng lương thực còn lại chỉ đủ ăn trong bốn ngày, nếu hành binh chậm trễ ắt gặp họa đói khát. Song điều đáng sợ nhất là đòn truy kích của đối phương, cần tìm cách né tránh để giảm thiểu tổn thất. Y sai Tôn Hựu kêu bọn trinh sát từng điều nghiên sông Lô đến để hỏi han về địa hình.

Một tên thám báo cho biết:

– Nơi này gọi là A Lạp, vài chục dặm phía trước con sông dịch chuyển ngoằn ngoèo sang hướng tây bắc, men theo bờ mà đi sẽ mất nhiều thời gian. Nếu vượt sông sang bờ phải rồi hành binh lên phía bắc hơn trăm dặm sẽ gặp lại sông Lô. Bấy giờ chỉ còn cách biên giới chừng bốn ngày đường.

Nạp Tốc chỉ thị cho Tôn Hựu:

– Ngươi huy động quân chặt tre làm bè qua sông. Như vậy vừa xóa được dấu vết vừa đi đúng hướng.

Tôn Hựu đề nghị:

– Theo cách tính của bọn thám báo, không gặp trở ngại thì sáu ngày nữa mới đến được đất Nguyên. Lương án thiếu hụt, có nên tổ chức càn quét thu gom thêm không?

Nạp Tốc gắt:

– Cướp bóc gì nữa đây? Địch đang đuổi sát gót, khẩn trương rời xa mới là thượng sách. Lương còn đủ mấy ngày, đến đâu hay đến đó. Thoát được chúng rồi hẵng tính chuyện kiếm ăn.

Tôn Hựu lại thắc mắc:

– Nếu đã làm bè thì nối lại thành cầu có tiện lợi hơn không? Quân sang một lèo, đỡ phải chèo qua chèo lại, tốn rất nhiều thời gian.

Nạp Tốc dè bỉu thuộc tướng:

– Ngươi biết một mà không biết hai. Làm cầu sẽ qua nhanh nhưng khó giấu tung tích. Để lại cầu thì khác nào bày đường cho địch thuận tiện vượt sông đánh đuổi, phá đi thì mất thời gian lại còn vương vãi phế tích, giống như bảo với chúng “bọn ta vừa qua sông ở đây”.

Tôn Hựu đuối lý, lẳng lặng chấp hành mệnh lệnh. Y dẫn quân vào rừng chặt tre, bó lại mang ra bờ cát cột thành các mảng to rồi khiêng xuống sông. Khúc sông không rộng, với hơn trăm chiếc bè, mỗi chiếc chở được năm mươi người, chỉ sau ba chuyến đã đưa toàn bộ một vạn bốn ngàn binh mã Vân Nam sang bờ bên kia. Toàn quân vượt sông an toàn, theo lệnh chủ tướng, bọn lính khiêng bè đi cách bờ sông nửa dặm mới quăng bỏ.

Sau khi ổn định quân tình, anh em Hà Đặc tiếp tục dẫn quân truy kích giặc. Họ đi ngang khúc sông bọn Mông Thát vượt qua mà không phát hiện ra dấu vết của chúng, cho đến khi gặp được một lão tiều phu đang công củi về bản. Hà Đặc hỏi:

– Ông có thấy quân Nguyên chạy qua đây không?

Lão nói:

– Thủ lĩnh dẫn quân quay lại đi. Giặc vượt sông ở A Lạp đấy.

Hà Đặc lại hỏi:

– Ông có nhìn tận mắt không?

Lão đáp:

– Sáng nay lão thấy quân Nguyên kéo từng đoàn vào rừng chặt tre rồi vác ra bờ sông. Sợ chúng phát hiện, lão trốn vào bụi rậm, khi êm ắng mới chui ra, nhìn quanh chẳng còn tên lính nào, phía bờ sông cũng vắng lặng. Giặc không thể bay như chim, nên chắc rằng chúng đã đóng bè vượt sông.

Hà Đặc, Hà Chương cảm tạ ông lão đốn củi rồi kéo quân quay về A Lạp. Dọc theo triền sông chẳng thấy cầu, bè nào cả, mọi người ông khỏi nghi hoặc về hiện tượng mất tăm của một đạo quân hơn vạn người, chợt Hà Chương nhặt ở dưới đất lên mấy sợi lạt vương vãi trên cát rồi nói với anh:

– Có người chẻ lạt làm dây cột. Giặc đóng bè vượt qua chỗ này.

Hà Đặc nói:

– Tướng Nguyên dù khôn ngoan nhưng không thể xóa sạch dấu vết. Chúng đóng bè qua sông rồi khiêng đi xa để ta khó phát hiện. Giặc sợ lộ không dám làm cầu, ta làm cầu để qua cho nhanh.

Ông cho người chặt tre ghép thành từng mảng to đem xuống sông, mảng sau cột nối với mảng trước, cứ thế kéo dài ra thành chiếc cầu phao vắt vẻo ngang mặt nước. Quân ta xếp hàng bốn qua cầu, chẳng mấy chốc hơn sáu ngàn tráng sĩ đã tề tựu bên bờ tả ngạn sông Lô. Tranh thủ thời gian, Hà Đặc cho hành binh gấp rút bám theo lũ Mông Thát đang bôn tẩu về Vân Nam. Những bè mảng bị quân Nguyên vật chỏng chơ dọc đường trở thành dấu hiệu chỉ hướng đi của giặc.

Đến giờ dậu, phát hiện thấy khói bốc từ xa, Hà Đặc ra lệnh dừng binh, cử trinh sát đi thám thính. Nửa canh giờ sau, thám tử trở về thông báo “Giặc nghỉ chân nấu cơm chiều, bọn lính đói mệt nằm ngồi rải rác khắp sườn đồi”. Cho rằng thời cơ thuận lợi, Đặc muốn tiến đánh. Ông nói:

– Bọn Nguyên tưởng ta không tìm ra dấu vết của chúng nên chủ quan, không phòng bị. Giờ đã xế bóng, chúng lại sắp ăn cơm, ta bí mật áp sát, bất ngờ ào tới đánh giết, giặc tất thua to.

Chương còn nghi ngại bèn đề nghị với huynh trưởng:

– Trời mùa hạ lâu tối, ta xông lên dễ bị phát hiện từ xa, như vậy đánh không hiệu quả. Nên chờ đêm xuống, bấy giờ có thể tiếp cận được chúng, lúc ấy mặc sức mà đánh giết.

Đặc không chịu, cho rằng:

– Lỡ giặc ăn xong không nghỉ lại mà đi tiếp thì mất cơ hội. Đêm tối sẽ là đồng minh của bạn Nguyên. Khi chúng chạy quá xa, quân ta cũng không còn sức mà đuổi đánh.

Chương đành chấp nhận chủ ý của anh. Đoàn quân được lệnh im hơi lặng tiếng, chia làm hai cánh tiến về phía quân Thát. Quả nhiên, lúc các chiến binh sơn cước đến cách giặc chừng hai chục trường, trong ánh chiều nhá nhem, bọn lính Nguyên phát hiện thấy những bóng người đen kịt đang sấn sổ lại gần, chúng hô hoán báo động, quân tướng giặc buông đồ ăn, vớ binh khí, lập đội hình chiến đấu.

Trong tình thế không thể lùi bước, Hà Đặc giục quân xốc tới, hai cánh quân của ta lao vào đội hình Mông Thát như húc phải bức tường thành tua tủa giáo nhọn. Nhiều chiến sĩ tử vong khi chưa xáp giặc, Đặc hùng hổ vũng mã tấu chém đông phạt tây, hai trăm tráng sĩ theo chân chủ tướng xông vào giữa thê đội giặc mà trút hờn căm lên thân xác kẻ thù. Tôn Hựu hò hét vây diệt địch quân. Chém xả tơi bời, dao đã cùn, mác đã mẻ, toàn thân nhuốm máu, các chiến binh tây bắc bị giết từng người một. Vị thủ lĩnh anh hùng của dân tộc Tày bị tên Tổng bả Triệu Vinh dùng giáo đâm thủng lồng ngực, chết trong tư thế ngồi khụy chân, hai tay nắm chặt thanh mã tấu cắm lưỡi xuống đất.

Cánh quân của Hà Chương cũng rơi vào hoàn cảnh bất lợi. Mũi tiến công của ta bị bẻ gãy, còn bị giặc phản đòn chia cắt đội hình, một nửa bị vây chặt, nửa còn lại bị đánh dạt xuống chân đồi. Chương cùng đồng đội xông xáo vượt qua tình thế hiểm nghèo, nhưng giặc quá đông, khó bề thoát nổi. Chấp nhận số phận, các chiến binh nước Nam co cụm lại chống trả quyết liệt, vòng vây càng khép chặt những kẻ địch nào xáp lại gần đều phải trả giá bằng máu thịt. Cố cứu vãn những người còn khả năng sống sót, Hà Chương lấy tù và cài bên hông thổi hiệu lui quân. Ông hi vọng các chiến hữu ở bên ngoài không cố đánh lên để giải vây cho đồng đội mà nhanh chóng rút khỏi chiến trường theo lệnh của thủ lĩnh.

Tiếng tù và rúc inh ỏi khiến quân giặc giật mình, Nạp Tốc Lạt Đinh sợ đối phương kéo binh đến tiếp ứng, vội chia quân lập tuyến phòng thủ vòng ngoài. Trận đánh bên phía Tôn Hựu đã kết thúc, y dẫn quân sang trợ chiến cho chủ tướng. Trời đã tối hẳn, viên Bình chương sai đốt đuốc hàng ngăn chặn địch quân lợi dụng bóng tối phá vây.

Không quên lời nhiếc móc của Nạp Tốc, Tôn Hựu lên giọng nói xỏ:

– Bọn giặc có không biết đánh trận, bị tại hạ giết sạch không còn một mống. Tên chỉ huy của chúng trốn dưới mấy cái xác, lúc bị giáo đâm nằm giãy đành đạch như một thằng phải gió, ngáp mấy cái rồi tắt thở. Nếu ngài muốn giải quyết cho nhanh đám kia, nhường tại hạ ra tay lần này, chỉ chốc lát là xong thôi.

Nạp Tốc tức lộn ruột nhưng phải ra vẻ cao mưu:

– Ngươi chớ nóng nảy, ta chưa muốn giết vì có kế khác.

Y thúc ngựa tiến lại gần các chiến binh nước Nam, lớn tiếng dụ dỗ:

– Nếu chấp nhận buông khí giới chịu trói thì ta sẽ tha mạng. Đừng chết uống như thủ lĩnh của các ngươi, kẻo vợ góa con côi đành sống đời buồn tủi. Hãy quyết định cho sớm, ta không chờ đợi được đâu.

Nghe tin anh tử trận, Hà Chương cắn chặt vành môi để khỏi bật ra tiếng than khóc, đôi mắt rực lửa căm hờn, bàn tay nắm chặt mã tấu, định xông tới tên tướng giặc mà đòi nợ máu. Nhưng ông kịp nén cơn giận dữ, trong đầu lóe lên ý nghĩ “Ta chấp nhận chết, song còn hơn năm trăm anh em ở đây đâu cần thiết phải liều mạng. Nếu giúp nhau thoát hiểm thì sá gì thủ đoạn”. Chương thầm thì với các chiến hữu, rồi người này truyền tai với người kia chủ ý của thủ lĩnh.

Hà Chương tiến lên phía trước, dõng dạc nói:

– Nếu chúng tôi chấp nhận hạ vũ khí, làm sao tin được ngài không giết hại?

Nạp Tốc hứa hẹn:

– Ta lấy uy danh của đại tướng Bình chương Chính sự thiện triều thề rằng không tàn sát kẻ quy hàng.

Nghr chủ tướng nói Tôn Hựu bèn nghĩ bụng “Lão Bình chương đúng là rồ dại, đánh nhau với kẻ thù mà còn sợ mất uy tín. Bọn An Nam không đáng tin, phải cảnh giác phòng ngừa chúng tráo trở”.

Hơn năm trăm dân binh sơn cước xếp hàng nộp khí giới rồi bị giặc tập trung vào một bãi đất trống, dưới sự canh giữ cẩn mật của hàng ngàn tên lính Nguyên. Riêng Hà Chương được dẫn giải tới quân doanh của chủ tướng Mông Thát.

Nạp Tốc hỏi Chương:

– Ngươi hãy thành thật khai báo tên tuổi, quân hiệu, chức danh, các mối liên hệ với triều đình An Nam?

Chương trả lời:

– Tiểu nhân tên Hà Chương, là phó tướng trong đội dân binh của thủ lĩnh Hà Đặc. Không nhận chức danh gì của triều đình An Nam.

Nạp Tốc lại hỏi:

– Ngươi họ Hà, thủ lĩnh của ngươi cũng họ Hà, hai người có quan hệ ruột thịt không?

Chương đáp:

– Tiểu nhân và các dân binh đều là người Tày. Dân tộc Tày ít họ lắm, tuy cùng họ Hà nhưng tiểu nhân không có quan hệ ruột thịt với Hà Đặc.

Nạp Tốc cật vấn:

– Tại sao bọn người chấp nhận về hàng mà không cố đánh đến chết để tỏ lòng trung quân ái quốc?

Chương phân trần:

– Đại nhân chưa hiểu rõ nội tình nước tôi nên mới hỏi vậy. Chúng tôi là tộc thiểu số ở An Nam, triều đình là của người Keo, ngoài một vài vị chức sắc trong tộc được vua quan o bế, phần đông vẫn chịu cảnh ức hiếp. Hà Đặc làm tộc trưởng được hưởng nhiều bổng lộc của họ nên có ý trung thành. Còn chúng tôi đâu nhất thiết phải vậy. Khi đại quân kéo qua, tiểu nhân đã khuyên thủ lĩnh không nên chống đối nhưng ông ta không nghe, nay phải trả giá thê thảm. Bây giờ thuận dịp được về với chính nghĩa thiên triều, mong đại nhân soi xét.

Nạp Tốc nói:

– Ngươi nói vậy thì ta biết vậy, nhưng ta cảnh báo trước, nếu thật lòng quy thuận thì sẽ được đối đãi tử tế, nhược bằng xảo trá sẽ giết sạch không tha.

Chương tỏ vẻ khiếp sợ, mà rằng:

– Bọn tiểu nhân đời nào dám dối trá, thời gian sẽ cho ngài thấy lòng thành của Hà Chương này. Đường sang Vân Nam có nhiều chỗ hiểm ác, tiểu nhân sẽ tình nguyện dẫn đại quân của ngài vượt qua để chứng tỏ tâm can của mình.

Nạp Tốc nói:

– Thôi được rồi. Cho người về nghỉ với quân dưới quyền. Mai ta sẽ quyết phải làm gì.

Hà Chương được dẫn đi. Bấy giờ Tôn Hựu lên tiếng:

– Tại hạ thấy tên này chưa đáng tin, đề nghị ngài cho phép dò xét tâm địa của chúng bằng cách khác.

Nạp Tốc chấp thuận:

– Ngươi cứ tiến hành. Ta cũng muốn biết bọn này có mưu mô gì không?

Tôn Hựu ghé tai nói nhỏ với Tổng bả Triệu Vinh. Viên tiểu tướng thừa lệnh ra ngoài làm công vụ. Chốc lát sau y giải đến bản doanh một người hàng binh lớn tuổi. Tôn Hựu chẳng nói chẳng rằng sai quân nọc đối tượng ra đánh một trận tơi bời. Khi máu chảy đỏ lòm mặt đất, gã Vạn hộ mới cho dừng tay rồi bắt đầu đe nẹt, tra xét.

Người chiến binh sơn cước trung kiên nhất mực khai báo chẳng có mưu mô nào cả, rằng người Tày chẳng ưa gì triều đình An Nam, rằng Hà Chương không phải ruột thịt của Hà Đặc, rằng bất đắc dĩ phải theo thủ lĩnh Hà Đặc chứ thực lòng không muốn chống Nguyên...

Không khai thác được điều gì trái ngược với lời khai của Hà Chương, Tôn Hựu hậm hực sai quân khiêng người dân binh thương tích đầy mình về nơi giam giữ, rồi lại cho giải vào quân doanh một hàng binh trẻ tuổi.

Chàng trai cũng bị đánh đập tàn bạo nhưng chẳng hé răng một lời có thể khiến cho mưu kế của Hà Chương bị bại lộ. Biện pháp tra tấn không đem lại hiệu quả như ý muốn, dù trong bụng chưa hết nghi hoặc, song ngoài cửa miệng Tôn Hựu đành thừa nhận việc chủ tướng thu phục hàng binh không có gì đáng lo ngại.

Buổi sáng hôm sau, Nạp Tốc Lạt Đinh bắt Hà Chương và các chiến hữu của ông đi trước dẫn đường, dưới sự giám sát của đội kị mã do Tổng bả Triệu Vinh chỉ huy. Để xua tan mối nghi ngờ của giặc, Chương chỉ ngọn núi xanh rì trước mặt, nói với mấy tướng Nguyên:

– Nếu các ngài tin tưởng, hãy theo tôi vượt qua ngọn núi bằng lối mòn. Tuy cực một chút nhưng sẽ rút ngắn được hơn một ngày đường. Khi xuống sườn núi bên kia là thấy lại sông Lô, bấy giờ chỉ cần đi thêm ba ngày là đến biên giới.

Nạp Tốc dò xét:

– Ta thấy rừng phủ kín, đường rộng hẹp ra sao, có cạm bẫy không?

Chương trả lời:

– Đường rừng không rộng nhưng vẫn đủ chỗ để ba, bốn người đi hàng ngang, tuy cũng có vài đoạn chỉ qua lọt hai người. Còn cạm bẫy thì không ai bày đặt trên đấy, cây rừng nhiều như thế, các ngài thừa chỗ ẩn nấp để đánh trả. Có chúng tôi đi trước, nếu sập bẫy thì chúng tôi chết trước.

Tôn Hựu hỏi:

– Đi vòng tránh núi thì sao, có trở ngại gì không?

Chương đáp:

– Ngoài xa xôi còn phải qua đất bản địa của con cháu Nông Trí Cao. Họ là những người táo tợn, nên lành dữ ra sao tôi không dám chắc. Nếu đi vòng thì cần hành quân cả đêm, may ra sáng mốt mới tới được dòng sông. Nếu vượt núi thì tối nay đã đến nơi.

Bọn tướng giặc bàn bạc riêng với nhau. Việc rút ngắn quãng đường sẽ giải quyết được tình trạng thiếu lương, lại tránh phải đương đầu với một tộc người có quá khứ nổi loạn. Nạp Tốc Lạt Đinh quyết định đi lối tắt, không quên dặn dò Triệu Vinh giám sát Hà Chương chặt chẽ, nếu đối tượng có ý đồ tráo trở, hạ thủ tức khắc. Thấy tướng giặc thuận ý, Chương yêu cầu:

– Vượt núi rất tốn sức lực, từ hôm qua đến nay chúng tôi chưa được ăn uống gì. Xin ngài cấp cho một ít lương chống đói.

Nạp Tốc không thể từ chối, bèn sai người chia bớt một phần cơm mới nấu buổi sáng cho hàng binh. Đầu giờ thìn, đoàn quân Vân Nam bắt đầu vượt núi. Đội ngũ của Hà Chương tay không tác sắt, lầm lũi gióng hàng ba mở đường. Áp sát họ là những tên lính Mông Thát lực lưỡng, tay lăm lăm gươm sắc giáo nhọn, sẵn sàng chém giết những kẻ có dấu hiệu khả nghi. Đi được một đoạn, gặp dốc cao xe lương không thể vượt qua, buộc giặc phải dỡ lương chia vào các bao nhỏ, bắt hàng binh địu trên lưng.

Đến khúc đường mòn chênh vênh sườn núi, đội hình chuyển sang hàng hai, là lúc xảy ra sự cố. Một hàng binh trượt chân ngã lăn rồi vướng vào gốc cây nên không bị rơi xuống vực. Lợi dụng lúc đoàn người nhốn nháo hoảng hốt khiến mọi con mắt đổ dồn về phía bị nạn, ba tráng sĩ lách mình qua khe đá, mất hút sau khoảng hẹp tối om. Hà Chương xin tưởng giặc cho người xuống kéo nạn nhân lên. May mắn thay kẻ bị ngã vẫn lành lặn, ngoài mấy vết trầy xước rớm máu.

Khi đổ dốc xuống núi, phóng tầm mắt từ trên cao đã thấy dòng sông uốn lượn phía xa xa, Nạp Tốc nói với Tôn Hựu:

– Bọn này không dối gạt. Có thể dùng được.

Tôn Hựu đáp:

– Đại nhân vẫn nên đề phòng. Cẩn thận không thừa đâu.

Tối mịt mới đến được bờ sông, Nạp Tốc Lạt Đinh cho quân dừng chân, lập trại nghỉ qua đêm. Y gọi Hà Chương đến, bảo rằng:

– Ngày hôm nay đã chứng tỏ ngươi có lòng quy thuận. Khi về đến đất Nguyên ta sẽ tấu lên triều đình để khen thưởng. Ngày mai chúng ta nên đi hướng nào?

Chương nói:

– Đa tạ thành ý của đại nhân. Sớm mai cần tổ chức vượt sông sang bờ trái rồi nhắm hướng bắc mà đi thì ba ngày sau sẽ đến biên giới.

Nạp Tốc mừng lắm, như vậy sẽ không phải lo thiếu lương. Y hạ lệnh cho bọn hậu cần cung cấp đầy đủ cơm nước cho hàng binh. Bọn lính Nguyên thấy đám hàng binh cư xử đúng mực, không có biểu hiện nghi vấn nên có phần chểnh mảng canh giữ.

Sau một đêm bình yên, sáng sớm Nạp Tốc cho quân vào rừng chặt tre nứa làm cầu vượt sông. Hàng binh cũng xăng xái tham gia khuân vác, khiến tướng sĩ Nguyên thấy an tâm hơn về những kẻ khác máu tồn tại trong đội ngũ của chúng. Sông hẹp, nước không xiết, việc vượt qua không tốn quá nhiều thời gian. Sang đến hữu ngạn Lô giang, theo sự hướng dẫn của Hà Chương, binh đoàn Vân Nam tiếp tục hành quân lên phía bắc. Đến thung lũng Đá Bàn thì trời sập tối, tướng giặc cho dừng binh, dựng trại nghỉ chân. Tôn Hựu nói với chủ tướng:

– Ta đang ở chỗ thấp, xung quanh có nhiều đồi cao, tại hạ sẽ cho quân kiểm tra xem sao.

Nạp Tốc chấp thuận. Tôn Hựu dẫn hai ngàn kị bộ kéo nhau đi lùng sục tứ phía. Tuy không phát hiện được điều gì khả nghi, viên Vạn hộ vẫn đề phòng bất trắc nên quyết định cắm chốt ở đầu thung lũng, cách trại bịnh của Nạp Tốc chừng nửa dặm.

Tới đầu canh tư, khi những đống lửa trại tàn lụi, quân tướng Vân Nam chìm vào giấc ngủ mê mệt, bọn tuần canh nằm ngồi ngả ngớn, vài ba đứa dựa vào gốc cây cố chống chọi lại cơn buồn ngủ kéo sụp mi mắt, trong màn đêm sâu thẳm chợt vọng lại tiếng chim cú lợn rúc vang bảy tiếng. Giờ khởi sự đã điểm, theo sự phân công của thủ lĩnh, các chiến binh trườn mình dưới đất tỏa ra mấy hướng tiếp cận bọn canh gác, dùng dây bện từ vải áo xé ra xiết cổ những tên lính ngủ gà ngủ gật, đoạt vũ khí và hạ thủ gọn ghẽ đám lính còn say giấc. Hà Chương cùng hai thủ túc bò đến sát bên Tổng bả Triệu Vinh đang nằm ngay o o trên miếng vải lều rách bươm trải lên thảm cỏ. Bất thình lình, ba chiến binh nhoài người nằm đè lên cái thân hình hộ pháp của tên giặc, Chương dùng cánh tay thít ngang cổ họng viên tướng Nguyên rồi nói nhỏ vào tai hắn “Người giết huynh trưởng của ta, bây giờ phải đền mạng”. Vinh mở mắt nhìn, há miệng muốn kêu thét nhưng họng tắc nghẹn, hắn ra sức quẫy đạp vẫn không thoát được lực đè của các trang đinh sơn cước. Gã Tổng bả ngạt thở mà chết.

Kịp lúc hai cánh quân áo đen ào tới, xông thẳng trại giặc vung dao mác chém xả đám lính còn đang ngái ngủ. Đội ngũ của Hà Chương dùng vũ khí đoạt của giặc đánh thốc từ trong ra. Bọn lính Vân Nam kinh hoàng tỉnh giấc, nháo nhào tháo chạy. Nạp Tốc Lạt Định hò hét binh sĩ tụ tập phản công, tiếng của y chìm nghỉm giữa thanh âm náo loạn, ngoảnh đi ngoảnh lại chẳng được mấy kẻ đáp ứng. Thấy tình thế khó bề cứu vãn, viên Bình chương cùng với vài chục thủ hạ thân tin nhảy lên ngựa vung gươm dẹp đường vượt qua tử địa. Chạy quá vài dặm, Nạp Tốc gom được gần ngàn quân, gồm những kẻ may mắn thoát hiểm và một nhóm kị binh nhanh chân chạy trước, nhưng nhìn quanh không thấy bóng dáng Tôn Hựu đâu cả.

Tiếng hò la vọng tới làm Tôn Hựu tỉnh giấc, y đoán chắc Nạp Tốc bị cướp trại nhưng vốn sẵn tâm địa thù ghét chủ tướng nên quyết không cứu. Lệnh cho binh sĩ khẩn cấp rời đi, gã Vạn hộ bạc bẽo dẫn hai ngàn quân dong thẳng lên hướng bắc. Song thiên địa luôn có mắt, hai ngày sau, khi tới cách biên giới không đầy bảy chục dặm, bọn Tôn Hựu đang đói lả lại gặp mưa lớn, rồi một trận lũ quét bất ngờ ập đến cuốn trôi hàng trăm tên giặc đã tàn sinh lực.

Nghe nói, bọn Nạp Tốc Lạt Đinh cũng lần mò về tới Vân Nam trong tình trạng xác xơ tiều tụy. Lương thực mất sạch, buộc chúng phải giết dần ngựa để có cái ăn. Sợ bị đối phương phát hiện, đám quân tướng tránh xa các làng bản, lếch thếch cuốc bộ qua vùng rừng núi hẻo lánh.

Ngoài số giặc bị giết tại trận, các chiến binh miền núi còn bắt sống hơn một ngàn tên rồi giao nộp cho triều đình để thả về Nguyên. Khi hết chiến tranh, bà con dân tộc đi rừng hay bắt gặp xác người ở nơi lam sơn chướng khí. Họ là những người lính Vân Nam tháo chạy từ Đá Bàn, bị mất phương hướng, lạc nẻo giữa rừng thiêng nước độc rồi kiệt sức mà chết. Cám cảnh những kiếp người phơi thây giữa núi rừng hoang lạnh, đồng bào mình thường đào hố chôn cất tử tế.

Sự kết hợp ăn ý giữa lực lượng tập kích và đội ngũ trả hàng trước sau đều do một tay Hà Chương sắp đặt. Để trả thù cho anh trai và cứu mạng hơn năm trăm binh sĩ bị bao vây, ông thống nhất với đồng đội hạ khí giới đầu hàng và không hé lộ cho giặc biết về mối quan hệ ruột thịt với thủ lĩnh Hà Đặc. Tổ chức cho ba chiến binh trốn thoát để trở về tập hợp lực lượng, giao ước địa điểm hành sự và giả vờ thành thật với giặc, mọi việc đều tiến hành trôi chảy. Lời hô hào liên kết giải cứu tù binh và đánh đuổi bọn Mông Thát của các chiến binh đào thoát đã được đồng bào sơn cước đồng lòng hưởng ứng. Trong số hơn sáu nghìn dân quân tham gia cướp trại giặc ở Đá Bàn có gần hai nghìn tráng sĩ người Nùng quần cư dưới chân núi mà Hà Chương từng dọa giặc nên tránh xa những người “táo tợn”.

Thoát khỏi chiến địa Vạn Kiếp, bọn Giảo Kỳ dẫn theo hai nghìn tàn binh tháo chạy về hướng đông bắc. Đang hối hả bôn tẩu cho xa cái lãnh thổ quỷ quái, Lưu Thế Anh chợt kìm cương ngựa, nói với gã thân vương Mông Thát bấy giờ còn chưa hoàn hồn:

– Hướng này dẫn đến Nội Bàng trước kia là cứ địa của Quốc Tuấn, tất y sẽ tận dụng hào lũy cũ để tổ chức đánh chặn. Ta nên đổi sang hướng tây bắc mà về Nguyên qua ngả Chi Lăng, tuy quãng đường xa hơn nhưng sẽ an toàn hơn.

Cưỡi ngựa bám theo ở phía sau, nghe nhắc đến Chi Lăng, Trần Ích Tắc co rúm cả người lại, bảo rằng:

– Không nên. Đấy là cạm bẫy chết người. Tại hạ có thằng tiểu tử từng theo đoàn nội phụ sang Nguyên bị bọn dân binh phục kích ở Chi Lăng làm thương vong vô số kể, nó mạng lớn nên mới thoát được.

Thế Anh hỏi vặn:

– Từ đây đến biên giới chỗ nào cũng đầy cạm bẫy, vậy ngài chọn cạm bẫy của dân binh hay cạm bẫy của Quốc Tuấn?

Toàn thân bủn rủn, Ích Tắc ú ớ cái miệng mà không thốt nổi một câu. Trong đầu y lơ mơ viễn cảnh nằm giãy giụa trên vũng máu trước sự hể hả của người anh họ Hưng Đạo Vương. Giảo Kỳ líu cả lưỡi khi phải lựa chọn giữa chỗ dễ chết và chỗ chắc chết:

– Đường... đường nào... cũng... cũng là tử lộ. Bọn Quốc Tuấn thiện chiến hơn dân binh, thôi đi... đi... Chi Lăng vậy.

Đám tàn quân chuyển hướng chạy về Chi Lăng. Để giấu tung tích, trên đường đi chúng tránh xa những nơi có người ở, ăn củ rừng, uống nước khe, chấp nhận vật vờ đói khát miễn sao giữ được mạng sống.

Sau hai ngày bằng rừng vượt núi, chúng dừng chân trước ải Chi Lăng. Giảo Kỳ muốn cử đội kị binh đi trước thám thính. Thế Anh can gián:

– Vô ích thôi, có địch hay không cũng phải băng qua nơi này mới về được Nguyên. Nếu không thì phải leo rặng núi trùng điệp phía trước, rồi kiệt sức mà chết hết. Chi bằng cứ kết thành một khối, gặp địch thì đánh tràn, vượt qua được thì coi như đã về đến cửa nhà.

Chẳng còn gì để mất, bọn Giảo Kỳ lập đội hình hàng năm, gươm giáo lăm lăm, lò dò bước vào hẻm núi. Đám hàng Nguyên mặt xanh như lá chuối, đứa nào đứa nấy cố thu mình lại cho nhỏ bớt, như thể tránh né hòn tên bất ngờ bay tới. Mùi tử khí ghê rợn bám vào khứu giác nhạy cảm của những thân xác đói mòn vốn thường trực hóng gió theo bản năng để tìm hương vị của thức ăn, khiến quân tướng Mông Thát thảy đều rùng mình khiếp hãi. Đi được một đoạn trong không gian êm ắng chỉ nghe văng vẳng tiếng con chim chích chòe đang líu lo quyến rũ bạn tình, lũ bại binh bắt đầu mừng khấp khởi. Chúng thầm mong không bị mai phục.

Hy vọng tắt ngóm khi trống trận vang rền, từ trên cao vô vàn mũi tên bay xuống cắm vào da thịt bọn người bôn tẩu, quân tướng giặc co giò thục mạng, đội ngũ hỗn loạn đạp lên xác nhau để chạy. Tiếng hò reo “Sát Thát” dội vào vách đá tựa sấm sét nổ ong đầu, càng làm cho hồn vía Nguyên Mông chối chết. Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn Truyền đổ quân xuống chia cắt đoàn giặc làm nhiều khúc mà đánh giết. Nguyễn Địa Lô dẫn quân chặn đầu, các tráng sĩ nước Nam dùng mã tấu chặt chém lia lịa bất kể người hay ngựa phóng qua. Lưu Thế Anh trốn giữa đám kị binh, miệng hò hét quyết chiến, còn thân cúi rạp xuống lưng ngựa né đòn. Giảo Kỳ cưỡi chiến mã Ả Rập, tay nắm dây cương con ngựa chở hòm châu báu; bị một chiến binh vung mác bổ tới, y thúc ngựa vọt lên, lưỡi mác cắm phập vào mông ngựa thồ làm nó ngã khụy kéo tuột dây cương trên tay chủ, chiếc hòm bung ra, vàng ngọc văng tung tóe. Kỳ vừa chạy vừa ngoái nhìn nuối tiếc đồng châu báu “của thiên trả địa”.?️

Trần Ích Tắc cùng bọn Trịnh Long, Phạm Cự Địa loay hoay không lối thoát giữa đám loạn đả, thân xác bải hoài như kẻ mất hồn bị mặt đất níu lại đòi trả đủ món nợ ô nhục với nước non. Khi vàng ngọc của Giảo Kỳ văng ra làm mọi con mắt trợn tròn kinh ngạc, Tắc bừng tỉnh cơn mê, chớp thời cơ thúc ngựa vọt lên, đồng bọn bám theo sau, ra roi chạy thục mạng mà không kẻ nào muốn ngoảnh cổ nhìn phía sau xem ai còn ai mất. Chạy đến Khâu Ôn thì bắt kịp bọn Giảo Kỳ và Lưu Thế Anh, bấy giờ Ích Tắc mới bình tâm, kiểm đếm bầu đoàn thấy hụt quá nửa. Ngoài đám thủ túc, thuộc hạ chạy bộ hoặc cưỡi ngựa già, ngựa yếu bị rơi rớt lại, gia quyến của các đầu sỏ phản nghịch cũng không toàn vẹn, kẻ mất vợ con, người thiếu cha mẹ, khiến cảnh tượng nối đuôi nhau qua đất Nguyên của lũ phản quốc trông thê thảm như một đám ma trùng tang. Riêng Lê Điền mất sạch thân thích ruột thịt, trên đường tháo chạy y sợ đến nỗi vãi tiểu ra quần thì làm sao còn tâm trí mà lo nghĩ đến người khác, giờ lẻ loi trong đoàn người bỏ nước, Điền hóa dại, hóa điên.

Bình chương A Lý Hải Nha và bọn chiến tướng Sát Tháp Nhi Đài, Nạp Hải, Lý Bang Hiến bỏ rơi Trấn Nam Vương đang lâm nạn ở phía sau, dẫn hơn một vạn tàn quân cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng theo hướng lên Nội Bàng. Thấy phía trước có đám bụi mù chuyển động sang hướng tây bắc, Nạp Hải nhanh nhảu thưa thốt Với chủ tướng:

– Có lẽ là quân của Giảo Kỳ, y chưa từng qua vùng này nên rất dễ lạc hướng. Hay là cho người đuổi theo gọi lại?

A Lý gắt ỏm tỏi:

– Đừng mua việc vào mình. Giảo Kỳ gian ngoan lo chạy thoát thân có ngó ngàng đến ai đâu. Giờ kêu quay lại chỉ thêm chật đường chứ có ích lợi gì, kệ chúng đi.

Sát Tháp Nhi Đài hùa theo phản ứng:

– Phải đấy. Lão thân vương còn đèo bòng thêm bọn chiêu hàng, chắc ăn của đút nên đành gánh vác lũ An Nam vô dụng, đám này theo ta chỉ tổ vướng cẳng.

Thế là đoàn đại binh của viên Bình chương vì lo sợ đông quân chật đường nên mặc kệ bọn Giảo Kỳ mà chúng tưởng rằng đang lạc lối, để rộng đường bôn tẩu qua Nội Bàng trở về Nguyên cho sớm sủa.

Sau một ngày bỏ chạy ê chề, đến tối mịt, A Lý mới cho dừng chân tạm nghỉ. Mặc dù rất mệt mỏi, song quân tướng Mông Thát chỉ ngủ vật vờ được vài canh giờ giữa đồi hoang trảng cỏ. Bụng đói cồn cào, da dẻ ngứa ngáy vì muỗi đốt, tâm địa thì thấp thỏm lo sợ bị đánh úp, mấy gã chiến tướng chẳng còn lòng dạ nào nghĩ tới chủ soái Thoát Hoan đã toi mạng hay còn sống dở, mà chỉ mong trời chóng sáng để thoát cho mau khỏi vùng đất đầy rẫy chết chóc.

Sáng hôm sau, A Lý Hải Nha giục quân khẩn cấp lên đường. Đi được vài chục dặm đã thấy thành lũy Nội Bàng sừng sững trước mặt. Phía trước thành tinh kỳ phất phới, một đạo quân gươm giáo hiên ngang như muốn tỏ rõ ý đồ sẵn sàng nghênh chiến. Đám tướng Nguyên chột dạ, như vậy là quân Trần không thèm bố trận mai phục mà bày binh thách thức, đủ thấy họ đáng sợ biết nhường nào. Chưa đánh đã mềm lòng, chúng bàn nhau thoái lui, nhưng lại chẳng biết nên đi nẻo nào khác để về Nguyên. Chợt phía sau có tiếng ầm ầm như thác đổ, ngoái đầu lại thấy một đạo quân đông như kiến đang ào ạt kéo tới, bọn tướng giặc rụng rời khiếp vía, tiền hậu thọ địch, có độn thổ cũng khó thoát. Chẳng lẽ khoanh tay chịu trận, A Lý Cố ghìm cơn hoảng hốt, hò hét ba quân “Hèn nhát là chết. Muốn sống thì theo ta xông lên”. Bọn giặc tuốt gươm vung giáo theo chủ tướng lao về phía đối phương.

Lực lượng cản giặc ở Nội Bàng là quân của Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng. Chiều hôm trước, Tảng nhận được thư của phụ vương, trong thư Hưng Đạo dặn dò con trai “Giặc thua to ở Vạn Kiếp tất kéo nhau chạy về Nội Bàng. Lực lượng truy kích đã lên đường khiến giặc càng thêm hoảng loạn. Có thể binh mã Thát sẽ đi thành nhiều đoàn, con hãy dàn quân đánh cho chúng khiếp đảm khí phách của ta. Kẻ nào vượt qua trận tuyến thì thôi, không cố đuổi theo mà hãy giữ binh lực để nghênh chiến với bọn đi sau”.

Theo lệnh chủ tướng, đội cung thủ đồng loạt buông tiễn, những mũi tên xé gió hạ gục vô số toán lính đi đầu. Bị bắn xuyên qua lớp da thái dương, Sát Tháp Nhi Đài thò tay giật mạnh mũi tên lủng lẳng trên đầu làm máu chảy tối mày tối mặt, y đành thúc ngựa lao bừa, bất chấp đao kiếm phía trước. Giặc còn đông quân, chúng cố xáp lại gần hòng mở đường vượt qua ải lũy. Quốc Tảng vung long đao dẫn đoàn kị mã ào lên tiếp chiến, phía sau là gần vạn tinh binh hùng dũng vốn được dưỡng sức đã nhiều ngày. Nhìn thấy Lý Bang Hiến đang chĩa thương đâm xỉa các chiến binh Đại Việt ngáng đường, Tảng quất ngựa vọt tới, hét to:

– Thằng Hán tặc chớ chạy. Người từng đuổi đánh ta ở bãi sông Lục Nam, nay có giỏi thì tiếp chiêu này.

Tảng vung đao bổ một nhát xuống đầu Hiến, viên tướng giặc kinh hoàng vội dùng cả hai tay nâng cán thương cản lại. Chiếc thương bị gãy, Hiến cầm hai mẩu gỗ ra sức chống trả, miệng gào lên kể lể:

– Lần trước ta không đuổi tận. Ngươi cũng nên nương tay.

Tảng quát lại:

– Đừng nhiều lời vô ích. Kẻ nào phạm cõi nước Nam đều phải trả giá.

Nói rồi, Tảng dùng đao phạt ngang vào cổ tướng giặc, Hiến nghiêng đầu né đòn làm văng chiếc mũ, tóc xổ ra rũ rượi. Ba tên thủ túc thấy chủ lâm nguy vội lăn xả đến giải cứu. Tảng khua đao chặt đôi một thằng. Lý Bang Hiến thừa cơ quất ngựa vọt qua chiến lũy chạy mất.

Giặc bị quân của Quốc Tảng cản lại, tạo điều kiện cho Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư dẫn lực lượng áp sát phía sau tàn quân của A Lý Hải Nha. Được giao phó trọng trách dùng binh thuyền vượt sông Thương qua sông Lục Nam tiếp ứng cho Nội Bàng, Dư khẩn cấp di chuyển bất kể ngày đêm. Khi phát hiện bọn giặc ở phía trước, ông điều quân lên bộ trực tiếp chỉ huy tập hậu kẻ địch. Giặc không đủ binh lực để quay lại ứng chiến, chỉ cố mở đường máu vượt lên phía trước nên bị quân của Khánh Dư mặc sức đánh giết, xác chết ngổn ngang chật đất, gần hai ngàn tên đuối sức, chấp nhận giơ tay chịu trói.

Lý Hải Nha được ba trăm kị binh hộ vệ cố vượt qua chiến lũy bằng những con tuấn mã dai sức. Nạp Hải bám đít chủ tướng, chen giữa đám Mông Cổ to cao nên không bị thương tổn. Các chiến binh Đại Việt dùng câu liêm móc vó ngựa làm nhiều tên ngã nhoài xuống đất rồi lĩnh đủ đao kiếm sắc nhọn. Song ngựa giặc lướt nhanh quá nên viên đầu lĩnh còn giữ được mạng. Chạy khỏi Nội Bàng, không thấy bị đối phương truy đuổi, A Lý dừng binh để kiểm đếm quân số, lúc bấy giờ mới biết trong tay chỉ còn hơn ba ngàn tên lính đã hoàn toàn suy kiệt. Nhưng đường về của chúng chưa yên ổn. Tại Động Bản, bọn A Lý lọt vào ổ phục kích của Tuấn Thọ. Chỉ với hơn một ngàn quân, người gia tướng bản lĩnh của Hưng Đạo Vương đã tiêu diệt và tóm sống số lượng địch quân tương đương đội ngũ của mình. Sức đã cùng lực đã kiệt, binh khí hư hao nhiều, nhuệ khí cũng chẳng còn, quân tướng bại trận của gã Bình chương hễ gặp đối phương là chỉ lo tháo chạy. Việc diệt thù của các chiến binh Đại Việt trên vùng biên giới không khác mấy chuyện săn cáo đuổi chồn.

Chạy khỏi Động Bản, A Lý Hải Nha bàn bạc với các tướng không nên qua Khả Ly, nếu bị vây đánh một trận nữa thì chẳng ai còn mạng. Chúng chấp nhận vượt núi về Nguyên. Tuy chậm nhưng an toàn hơn, cực nhọc đói khát mà giữ được mạng sống còn hơn liều lĩnh vượt ải để rồi bỏ xác nơi đất khách quê người.

Khoan Triệt dẫn theo hai ngàn binh mã chạy trước khiến Thoát Hoan nổi đóa, cứ lầm rầm chửi từ sáng chế tối tên mặt choắt bội bạc. Chửi Khoan Triệt chưa đã, Hoan lại quay sang chửi A Lý Hải Nha là đồ con lợn bạc nhược và hèn kém. Nhìn quanh chỉ còn hai viên Tả thừa là Lý Hằng và Đường Ngột Đãi, viễn thống soái đạo quân xâm lược than thở với bọn chúng:

– Khi thống lĩnh đại quân từ ba hướng kéo vào chinh phạt An Nam, trong tay ta có hơn năm chục vạn binh mã và vài trăm chiến tướng dày dạn trận mạc, nay hồi binh về nước còn không đầy ba vạn quân cùng với hai viên đại tướng trung cang và mấy thằng thủ tục cục mịch. Nhục nhã quá. Thất trận lần này cũng do ta chọn nhầm toàn đứa nhu nhược và tráo trở. Về tới Nguyên ta sẽ xin thiên tử truất binh quyền của chúng tôi đề cử các ngươi nắm chức Bình chương phò tá ta quay lại phục thù.

Lý Hằng nghe chủ tướng nói vậy mà thấy ớn lạnh xương sống, nghĩ bụng “Lần này chưa chắc đã toàn mạng nói gì đến chuyện báo thù. Nếu Thoát Hoan tổ chức đạo quân khác kéo sang đây thì ta nhất quyết lập bệnh xin khiếu”. Đường Ngột Đãi cười toe toét ra cái điều tâm đắc với chủ ý của Trấn Nam Vương, nhưng trong lòng thì chất đầy sự oán thán “Chỉ vì cái việc tải lương khiến ta suýt chết đuối nên mới rớt lại. Phải chi binh mã gọn nhẹ như bọn A Lý, Khoan Triệt thì ta cũng nhanh chân đi trước, ở đấy mà nói chuyện trung can với phò tá quay sang phục thù”.

Thực tại tăm tối như hũ nút càng thôi thúc Đường Ngột Đãi tính kế thoát thân. Y cho rằng chủ soái Thoát Hoan là đối tượng săn đuổi hàng đầu của Quốc Tuấn, nên tránh càng xa càng tốt. Viên Tả thừa xảo quyệt xum xoe đánh tiếng:

– Được đại vương cất nhắc là vinh hạnh lớn của tại hạ. Nếu ngài muốn quay lại báo thù, Ngột Đãi này sẽ tận tụy làm trợ thủ đắc lực. Nhưng trước mắt phải vượt qua đoạn đường hiểm ác để về Nguyên, do vậy cần tăng cường phòng bị. Cách đây mười dặm có một ngọn núi hiểm trở là nơi ta sẽ đi qua, tại hạ xin lãnh vài ngàn quan đến chiếm lĩnh trước, đề phòng đêm nay Quốc Tuấn cho quân đến mai phục.

Thoát Hoan nhìn Ngột Đãi bằng ánh mắt dò xét, còn Lý Hằng thì cau mặt lại, định mở miệng nói gì đó. Đúng lúc có tên lính chạy vào thì thầm với Thoát Hoan rồi thấy y hớn hở nói với nó “Đồng ý là tốt rồi. Chọn cho ta mười tên khỏe mạnh, dặn chúng đừng làm trái giao ước kẻo hỏng việc”. Tên lính vội vã thực thi nhiệm vụ, Hoan cũng hấp tấp bỏ về cái lều dành riêng cho Trấn Nam Vương. Hai gã Tả thừa đứng nhìn trơ mắt ếch rồi đoán già đoán non hành vi bí hiểm của chủ soái.

Tới canh tuất, Đường Ngột Đãi đang nằm miên man nghĩ ngợi tìm kế khác để chạy trước, chợt thấy viên Tổng quản Vương Hạo đứng lù lù trước mặt, trên tay cầm một bọc vải nhỏ. Đãi ngồi bật dậy, hỏi:

– Ông đi đâu mà giờ này còn luẩn quẩn ở đây?

Hạo đáp:

– Đến truyền lệnh của chủ soái cho ngài.

Đãi lại hỏi:

– Lệnh gì?

Hạo nói:

– Chủ soái cho phép ngài ngay trong đêm dẫn một ngàn quân đến chiếm lĩnh ngọn núi phía trước. Vương đang vui nên dễ dãi, ngài đi liền kẻo vương đổi ý. Tôi cũng muốn theo ngài chuyện này nhưng cái tình gắn bó với đại vương cứ níu chân lại. Vậy chúc ngài lên đường bình an và cầu xin ngài khi về nước chuyển giùm tôi gói quà tới gia quyến ở quê nhà. Trong bọc có ghi địa chỉ.

Đãi biết Hạo hiểu rõ ý đồ của y, bèn đón nhận gói quà ký thác rồi nói thật lòng:

– Ta rất biết ơn Tổng quản thấu hiểu và cảm thông. Nếu về tới Nguyên ta sẽ đích thân giao món quà này giùm ông.

Tưởng hỏng ăn hóa ra lại thuận lợi, một ngàn quân cũng tốt, phải đi ngay kẻo Thoát Hoan đổi ý. Viên Tả thừa mừng rơn, vội vã điều động quân theo lệnh của chủ soái. Y lựa chọn toàn kị binh trẻ khỏe rồi cả bọn hối hả phóng ngựa xuyên màn đêm.

Đám tàn quân của Khoan Triệt chạy đến gần Nội Bàng, nhìn từ xa thấy cảnh tượng đánh nhau dữ dội, biết chắc bọn A Lý đang lâm nạn, viên Hữu thừa bèn cho quân lặng lẽ tháo lui, quay lại nẻo cũ để tìm lối khác.

Loanh quanh cả ngày trời giữa vùng sơn địa heo hút mà chẳng biết nên đi đâu. Chợt thấy một đoàn kị mã đang phóng tới, Triệt hò quân thủ thế, chuẩn bị đối phó. Khi khoảng cách thu hẹp thì hai bên nhận ra nhau, Tả thừa Đường Ngột Đãi và Hữu thừa Khoan Triệt tay bắt mặt mừng trong cảnh ngộ bế tắc của những kẻ bôn tẩu. Triệt cho biết tình hình chiến sự ở Nội Bàng và nói:

– Quả thật nếu không về theo lối ấy thì ta cũng chưa xác định được nên đi hướng nào. Tả thừa có cao kiến gì không?

Đãi nói:

– Vùng này ta không rành rẽ, nhưng hồi đánh Tống ta từng bôn ba tới hạ nguồn sông Bắc Luân, người địa phương nói sông này chảy từ tây sang đông quanh co giữa biên giới, xuôi về của sông là đất của An Nam. Như vậy cứ kéo quân về hướng đông, đi chừng năm, bảy chục dặm thì ta ngoặt lên phía bắc, khi gặp dòng sông coi như đã về tới nhà.

Triệt mừng lắm, ít ra cũng xác định được hướng đi, chưa biết con đường phía trước may rủi ra sao, nhưng thà đi liều còn hơn quanh quẩn một chỗ, y nói:

– Vậy thì chờ đợi gì nữa, ta lên đường thôi.

Gần ba ngàn tàn quân Nguyên theo hai viên bại tướng hối hả đi về hướng đông, một hướng tháo chạy nằm ngoài dự kiến của phần lớn tướng soái Mông Thát. Giặc chạy qua Ba Chẽ rồi đi lên phía bắc và dừng chân tại Khe Cảy. Nửa đêm chung xộc vào một bản người Mán cướp lương thực, thực phẩm và bắt ông tộc trưởng dẫn đường lên biên giới. Khoan Triệt đe dọa:

– Ngươi hãy đưa bọn ta đến sông Bắc Luân. Nếu đường đi thuận lợi thì thả về, nhược bằng chỉ đường loanh quanh làm mất thời gian thì ta sẽ không tha mạng, còn cho người quay về bản đốt sạch, giết sạch.

Tộc trường đáp:

– Các ngài đến sông Bắc Luân phải đi theo hướng đông bắc mất ba ngày. Cốt sang Nguyên thì nên đi đường khác, một ngày là tới biên giới.

Đường Ngột Đãi nói:

– Vậy hãy dẫn bọn ta đến biên giới. Nếu người nói sai, đừng trách ta ác.

Như cá nằm trên thớt, vì an nguy của dân bản, ông lão Mán đành chấp nhận dẫn đường cho bọn tàn quân Mông Thát tháo chạy về Nguyên. Xế chiều thì đến chân núi Pác Cát. Ông nói với tướng giặc:

– Qua khỏi ngọn núi là tới đất Nguyên. Bây giờ các ngài cho lão về được rồi.

Hai viên tướng chưa thả ngay, bắt lão theo đến tận đỉnh đèo. Khi nhìn thấy mấy người tiều phu đang trên đường về bản, chúng túm lại hỏi và được họ xác định “Đất Nguyên ở ngay phía trước”, bấy giờ giặc mới tin mà tha cho ông lão.

Bọn Khoan Triệt, Đường Ngột Đãi là nhóm tàn quân hiếm hoi thoát khỏi sự trừng phạt của quân dân Đại Việt trên vùng biên giới. Khi tới Nguyên, Đường Ngột Đãi còn trơ trẽn viết tấu sớ rồi cho chạy ngựa trạm thông báo với triều đình Đại Đô sự thất trận ở An Nam và kể lể về nỗ lực của y trong việc bảo vệ Trấn Nam Vương trên đường hồi binh.

Sáng sớm, binh đoàn của Thoát Hoan tiếp tục hành quân lên phương bắc. Lý Hằng hội chủ soái:

– Đường Ngột Đãi ở đâu, sao không thấy?

Thoát Hoan đáp:

– Đêm qua ta đã điều y đến chiếm lĩnh ngọn núi phía trước, đề phòng địch quân kéo đến mai phục.

Hằng nhăn nhó kêu trời:

– Thế là hỏng rồi. Tại hạ sợ nó kiếm cớ để chạy trước, không dừng lại ở đấy đâu.

Hoan chột dạ:

– Lẽ nào lại như vậy? Cứ hành binh qua khắc biết.

Tâm trí có phần nao núng, Thoát Hoan hò hét binh sĩ khẩn cấp lên đường. Quả nhiên, khi đoàn quân tiến sâu vào hẻm núi chợt nghe trong trận rền vang, những loạt tên bắn ra tới tấp và vô số tảng đá to đổ ập lên đầu khiến đội ngũ Mông Thát rối loạn, rồi từ hai sườn núi các chiến binh Đại Việt ào xuống vung đao múa kiếm lăn xả vào kẻ địch. Lý Hằng sai Lý Quán lập đội hình bảo vệ Trấn Nam Vương, còn y dẫn đoàn kị binh mở đường vượt thoát. Lại nghe phía sau dậy trời tiếng hò la “Sát Thát”, ngoảnh đầu thấy lá cờ “Quốc công Tiết chế” đang ngạo nghễ tung bay giữa hậu quân Nguyên Mông, biết Hưng Đạo Vương đuổi đánh, quân tướng giặc càng thêm hoảng loạn, cố sống cố chết vượt qua hẻm núi độc địa.

Quân mai phục dưới quyền của Trần Quốc Hiện và Phạm Ngũ Lão kết hợp với lực lượng tiếp ứng do Trần Hưng Đạo trực tiếp chỉ huy đã đuổi diệt bọn Thoát Hoan trên mười dặm đường núi, giết và bắt sống gần một vạn tên. Quân ta còn thu được mười mấy xe chở của cải ăn cướp của Trấn Nam Vương. Tổng quản Vương Hạo không qua được trận này, y bị tên bắn thủng bụng khi lấy thân che cho chủ soái. Chạy thoát khỏi vùng chiến địa, tàn quân Mông Thát lếch thếch kéo đàn về hướng Nội Bàng.

Con chiến mã của Lý Hằng bị vấp vào đá, một chân đau bước khập khễnh nên không thể cưỡi đi xa. Hằng cho gọi Dương Tự Quán đến hỏi:

– Bầy ngựa dự phòng còn bao nhiêu con?

Quán đáp:

– Mất hết rồi, còn một con duy nhất tại hạ đang cưỡi.

Hằng ra lệnh:

– Ngươi mang nó lại đây cho ta. Con của ta thì người cứ lấy sử dụng.

Bị đuổi đánh bầm dập, lo thân chưa nổi nói gì đến đàn ngựa, tướng còn làm thiệt vô số quân thì Giám mã làm thất thoát bầy ngựa cũng chẳng ai trách được. Nhưng ỷ