Chương 1 1664 (2)
Khu Hàng thịt ở ngay sau Tòa thị chính, phía Tây Nam Quảng trường Chợ. Bên trong là ba mươi hai cửa hàng - có ba mươi hai hàng thịt cha truyền con nối ở Delft. Khu hàng thịt đông đúc với các bà nội trợ, người hầu đang chọn, mặc cả và mua cho gia đình họ, còn đàn ông thì vác những con vật đã bị giết đi qua đi lại. Mùn cưa trên nền nhà hút hết máu, bám vào giầy và gấu váy. Mùi máu đậm đặc trong không khí luôn khiến tôi rùng mình, dù rằng đã có thời gian tuần nào tôi cũng phải đến đây và buộc phải quen với nó. Dù vậy, tôi vẫn cảm thấy dễ chịu vì được ở một nơi quen thuộc. Khi chúng tôi đi ngang qua các hàng thịt, anh hàng thịt mà chúng tôi vẫn quen mua trước khi cha tôi bị tai nạn gọi tôi. Tôi cười với anh ta, cảm thấy nhẹ nhõm khi nhìn thấy một khuôn mặt quen biết. Đó là lần đầu tiên trong ngày tôi cười.
Thật là kì lạ khi gặp gỡ rất nhiều người lạ và nhìn thấy nhiều cái mới như thế trong một buổi sáng, và gặp những người đó, nhìn thấy những cái đó mà bị tách biệt khỏi tất cả những gì quen thuộc đã tạo nên cuộc sống của tôi. Trước kia, nếu tôi có gặp người lạ, thì xung quanh tôi vẫn là gia đình và hàng xóm. Nếu tôi đi đến một nơi mới, tôi đi cùng Frans hoặc mẹ hoặc cha và không cảm thấy sợ hãi gì. Những cái mới khi đó đan cài với cái cũ, giống như chỗ mạng trên một chiếc tất.
Ngay sau khi bắt đầu đi học việc không lâu, Frans nói với tôi rằng cậu gần như đã bỏ trốn, không phải vì công việc nặng nhọc và bởi vì cậu không thể chịu đựng sự xa lạ ngày này sang ngày khác. Cái giữ cậu ở lại đó là ý thức rằng cha chúng tôi đã phải bỏ ra tất cả số tiền ông dành dụm được để trả tiền học việc, và cha sẽ lập tức gửi cậu trở lại đó nếu cậu về nhà. Vả lại, cậu sẽ còn phải gặp nhiều sự xa lạ hơn nữa nếu cậu đến một nơi nào khác.
- Tôi sẽ đến gặo anh khi nào tôi đi một mình, - tôi thì thầm với người bán thịt. Rồi tôi vội vã rảo bước để đuổi kịp Tanneke và Maertge.
Hai người đã dừng lại ở một hàng thịt cách một quãng xa phía trước. Chủ quầy thịt là một người đàn ông điển trai với mái tóc xoăn màu vàng đang ngả xám và đôi mắt màu xanh da trời tươi.
- Pieter, đây là Griet, - Tanneke nói, - Từ giờ cô ấy sẽ đimua thịt cho chúng tôi. Ông cứ cộng thêm vào sổ như bình thường.
Tôi cố nhìn vào mặt ông ta nhưng không thể không nhìn xuống chiếc tạp dề nhuốm máu. Người bán thịt của chúng tôi luôn đeo một chiếc tạp dề sạch khi bán hàng và mỗi khi tạp dề bị dính máu thì anh ta thay ngay.
- Chà! - Pieter nhìn tôi như thể tôi là một con gà béo mà ông ta đang ngắm nghía để quay, - Vậy ngày hôm nay cô muốn mua gì, cô Griet?
Tôi quay sang Tanneke.
- Bốn pound sườn và một pound lưỡi.- chị ta ra lệnh.
Pieter cười.
- Còn cô thì nghĩ thế nào về cái đó, cô bé? - ông ta hướng tới Maertge.- Có đúng là tôi bán loại lưỡi ngon nhất Delft không?
Maertge gật đầu và cười khúc khích trong lúc cô bé nhìn chăm chăm chỗ bày những miếng thịt, xương sườn, lưỡi, chân giò và xúc xích.
- Griet ạ, cô sẽ thấy là tôi bán thịt ngon nhất và cân đủ nhất ở chợ này, - Pieter nhận xét trong lúc ông ta cân lưỡi.- Cô sẽ không kêu ca gì về tôi đâu.
Tôi nhìn chiếc tạp dề của ông ta và nuốt nước bọt. Pieter đặt chỗ sườn và lưỡi vào chiếc làn tôi xách, nháy mắt với tôi và quay sang phục vụ khách hàng tiếp theo.
Sau đó chúng tôi đi sang Khu Hàng cá, ngay bên cạnh Khu Hàng thịt. Những con mòng biển bay lượn bên trên những gian hàng, chờ người ta vứt đầu cá hay bộ lòng xuống dòng kênh. Tannke giới thiệu tôi với người bán cá - cũng là người khác, không phải người chúng tôi hay mua. Tôi sẽ phải thay đổi, một ngày mua cá, một ngày mua thịt.
Đến lúc về, tôi chẳng muốn quay trở lại căn nhà đó, về chỗ Catharina và bọn trẻ ngồi trên ghế băng. Tôi muốn về nhà. Tôi muốn bước vào cănbếp của mẹ và đưa cho mẹ cái làn đầy sườn. Đã hàng tháng trời chúng tôi không ăn thịt.
Khi chúng tôi về đến nhà, Catharina đang chải tóc cho Cornelia. Cả hai chẳng chú ý gì đến tôi. Tôi giúp Tanneke nấu bữa trưa, đảo thịt quay, bày các thứ lên bàn trong phòng lớn, cắt bánh mì.
Khi bữa trưa đã xong thì mấy cô bé đi vào, Maertge giúp Tanneke trong bếp trong khi nhữngcô bé khác ngồi trong phòng lớn. Tôi vừa đặt chiếc lưỡi vào thùng đựng thịt trong phòng kho – Tanneke đểnó ở ngoài và con mèo đã suýt vồ được - thì ông xuất hiện từ phía ngoài, đứngtrong khung cửa sổ ở cuối hành lang, mặc áo choàng và đội mũ. Tôi đứng yên và ông dừng lại, ánh sáng chiếu từ phía saukhiến tôi không thể nhìn thấy khuôn mặt ông. Tôi không biết liệu có phải ông đang nhìn tôi qua hành lang. Chỉvài giây sau ông biến vào phòng lớn.
Tanneke và Maertge phục vụ mọi người trong lúc tôi trông đứa bé trong phòng Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thánh giá. Khi Tanneke làm xong mọi việc, chị ta đến chỗ tôi và chúng tôi ăn và uống những thứ gia đình họ ăn - sườn, củ cải, bánh mì và bia. Mặc dù thịt của Pieter khôngngon hơn thịt của anh hàng thịt quen, vị nó thật tuyệt khi đã phải thiếu nó nhiều tháng liền. Bánh mì làm bằng lúa mạch đen chứ không phải loại bánh mì đen rẻ hơn mà chúng tôi vẫn ăn, và bia thì cũng không loãng đến thế.
Tôi không đứng phục vụ họ bữa trưa đó thế nên tôi không nhìn thấy ông. Thỉnh thoảng tôi nghe thấy giọng ông, thường là cùng với giọng Maria Thins. Từ giọngnói chuyện có thể thấy rõ là họ rất hòa hợp.
Sau bữa trưa, Tanneke và tôi dọn dẹp rồi lau chùi sàn bếp và phòng kho. Những bức tường trong hai phòng bếp và giặtđược ốp gạch trắng, lò sưởi được ốp loại gạch của Delft màu xanh da trời và trắng vẽ hình chim ở ô này, tàu ở ô kia và những người lính ở một ô khác. Tôi xem xét chúng cẩn thận nhưng không có bức nào do cha tôi vẽ.
Phần lớn thời gian còn lại trong ngày tôi là trong phòng giặt, thỉnh thoảng dừng lại để chăm ngọn lửa, tiếp thêm củi hoặc ra ngoài khoảng sân nhỏ để tránh hơi nóng. Mấy đứa con gái lúc chơi trong nhà, lúc ngoài sân, thỉnh thảngvào xem tôi làm, cời lửa, lúc khác lại trêu trọc Tanneke khi bọn chúng thấy chị ta ngủ trong phòng bếp kế bên, Johannes bò quanh chân chị ta. Bọn chúng hơi không thoải mái với tôi có lẽ chúng nghĩ tôi có thể sẽ tát chúng. Cornelia cau có với tôi và không ở lại trong phòng lâu, nhưng Maertge và Lisbeth thì giúp đêm cất chỗ quần áo tôi đã là vào cái tủ trong phòng lớn. Mẹ chúng đang ngủ ở đó. “Tháng cuối cùng trước khi sinh thì phần lớn thời gian cô chủ sẽ ở trên giường, chèn hết gối xung quanh người.” Tanneke tiết lộ.
Sau bữa trưa, Maria Thins đã về phòng mình trên tầng hai. Tuy vậy, có một lần tôi nghe thấy tiếng bà trong hành lang, và khi tôi ngẩng đầu lên thì bà đang đứng ở khung cửaxem tôi làm. Bà không nói gì, vậy nên tôi quay lại với công việc là quần áo và làm ra vẻ như bà không có ở đó. Giây lát sau, tôi liếc thấy bà gật đầu và lê bước đi.
Ông đang có khách ở trên tầng- tôi nghe thấy hai giọng đàn ông trong lúc họ đi lên cầu thang. Sau đó, khi tôi nghe thấy tiếng họ đi xuống, tôi lén nhìn qua cửa xem họ đi ra. Người đàn ông đi cùng ông trông to béo và cắm một chiếc lông chim dài trên mũ.
Khi trời tối chúng tôi châm nến rồi Tanneke và tôi cùng đám trẻ ăn bánh mì và pho mát với bia trong phòng của Chúa Giê su bị đóng đinh trên thành giá trong khi những người khác ăn món lưỡi trong phòng lớn. Tôi thận trọng ngồi quay lưng lại bức tranh vẽ Chúa Giê su bị đóng đinh trên thành giá. Tôi cảm thấy mệt đến mức hầu như không còn nghĩ được gì. Ở nhà tôi cũng phải làm lụng vất vả như vậy, nhưng việc đó không bao giờ gây mệtmỏi như khi ở trong một ngôi nhà xa lạ, nơi mọi thứ đều lạ lẫm và tôi luôn trong tình trạng căng thẳng và nặng nề. Ở nhà tôi có thể cười đùa với mẹ tôi hay Agnes hay Frans. ở đây thì chẳng có ai mà cười đùa.
Tôi vẫn còn chưa xuống hầm, nơi mình sẽ ngủ, tôi đem theo một cây nến nhưng rồi mệt đến mức chẳng buồn nhìn xung quanh ngoài việc lần ra chiếc giường, gối và chăn. Tôi để mở cánh cửa lây cho làn không khí trong lành mát mẻ có thể đến được với mình rồi cởi giày, mũ, tạp dềvà váy, cầu kinh ngắn gọn rồi nằm xuống. Tôi toan thổi nến thì phát hiện ra bức tranh treo ở phía cuối giường. Tôi ngồi dậy, giờ đây hoàn toàn tỉnh táo. Đó là một bức tranh khác vẽ Chúa Giê su bị đóng đinh trên thánh giá, nhỏ hơn bức treo trên nhà nhưng thậm chí còn làm người ta bận tâm hơn. Chúa Giê su đang ngửa cổ ratrong cơn đau đớn và đôi mắt Mary Magdalene trợn tròn. Tôi khẽ khàng nằm xuống, không thể nào rời mắt khỏi bức tranh. Tôi không thể hình dung việc ngủ trong căn phòng treo bức tranh đó. Tôi muốn tháo nó xuống
nhưng không dám. Cuối cùng tôi đành thổi nến - tôi không dám lãng phí nến ngay từ ngày đầu tiên khi mình ở trong một ngôi nhà xa lạ. Tôi lại nằm xuống, đôi mắt dán chặt vào chỗ mà tôi biết có bức tranh treo ở đó.
Đêm đó tôi ngủ không ngon, tôi quá mệt mỏi. Tôi tỉnh giấc liên tục và đưa mắt tìm bức tranh. Dù rằng tôi chẳng thể nhìn thấy gì trên bức tường nhưng từng chi tiết đã hằn sâu trong trí óc tôi. Cuối cùng, khi trời đã bắt đầu rạng, bức tranh lại hiện ra lần nữa và tôi tin chắc Đức mẹ Đồng trinh đang nhìn xuống tôi.
Buổi sáng hôm đó, khi thức dậy, tôi cố gắng không nhìn bức tranh, thay vào đó tôi xem xét đồ đạc trong căn hầm dưới ánh sáng mờ lọt xuống qua cửa sổ phòng khi phía trên. Chẳng có gì nhiều để nhìn - vài cái ghế gãy khác, một chiếc gương, hai bức tranh nữa, đều là tranh tĩnh vật, được dựng vào tường. Liệu có ai phát hiện ra không nhỉ nếu tôi thay bức tranh Chúa Giê su bị đóng đinh trên thánh giá bằng một bức tranh tĩnh vật?
Cornelia sẽ phát hiện ra. Và con bé sẽ mách mẹ.
Tôi không biết Catharina - hay bất cứ ai trong số họ - nghĩ gì về việc tôi là người theo đạo Tin lành. Cảm giác thật tò mò khi phải tự mình nhận biết về chuyện đó. Tôi chưa bao giờ nằm trong số ít cả.
Tôi quay lưng lại bức tranh và trèo lên thang. Những chiếc chìa khoá của Catharina kêu lanh canh ở phía trước nhà tôi và tôi tìm ra cô ta. Cô ta đi lại chậm chạp, như thể vẫn còn đang ngái ngủ nhưng đã cố buộcmình dậy khi trông thấy tôi. Cô ta dẫn tôi lên trên tầng, vừa leo vừa bám chặtvào tay vịn để kéo cơ thể đồ sộ lên.
Đến trước xưởng vẽ, cô ta tìm trong chùm chìa khoá, sau đó mở khóa và đẩy cửa. Căn phòng tối om, những cánh cửa chớp đang đóng và tôi chỉ có thể thấy lờ mờ nhờ luồng sáng lọt qua khe cửa. Căn phòng tỏa ra một mùi gắt và sạch của dầu lanh, gợi tôi nhớ đến quần áo của cha khi ông từ xưởng gạch trở về vào buổi tối. Nó tỏa hương như mùi gỗ và rơm mới trộn với nhau.
Catharina đứng lại ngoài bậc cửa. Tôi không dám bước vào trước cô ta. Sau giây lát khó xử cô ta ra lệnh:
- Mở cửa chớp ra. Không phải cửa sổ bên trái. Chỉ cửa giữa và cửa ở xa kia thôi. Và chỉ cánh dưới ở cửa sổ giữa.
Tôi đi qua căn phòng, lách mình giữa giá vẽvà ghế để đến chỗ cửa sổ giữa. Tôi mở cánh cửa sổ bên dưới ra, tôii mở cửa chớp. Tôi không nhìn bức tranh trên giá vẽ, không nhìn khi Catharina đang quan sát tôi từ ngoài khung cửa.
Một cái bàn được đẩy vào cạnh cửa sổ bên phải với một cái ghế xếp trong góc. Lưng và mặt ghế bọc da có trang trí hình hoa vàng và những chiếc lá.
- Đừng có di chuyển cái gì ở đó,- Catharina nhắc tôi.- Đó là cái ông ấy đang vẽ.
Thậm chí có kiễng chân lên thì tôi vần quá thấp, không với được cửa sổ trên và cửa chớp. Tôi sẽ phải đứng lên ghế nhưng tôi lại không muốn làm như vậy trước mặt cô ta. Cô ta làm tôi luống cuống và cô ta cứ đứng đó, chỗ khung cửa, chờ tôi phạm sai lầm.
Tôi cân nhắc xem nên làm gì.
Chính đứa bé đã cứu tôi. Nó bắt đầu khóc ầm lên ở dưới nhà. Catharina chuyển tư thế đứng từ hông này sang hông kia. Trong lúc tôi còn đang lưỡng lự thì cô ta mất hết kiên nhẫn và cuối cùng bỏ đi tìm Johannes.
Tôi nhanh chóng trèo lên và đứng cẩn thận trên khung gỗ của cái ghế, mở cánh cửa sổ trên, nhoài người ra và mở cửa chớp. Ngó xuống con phố bên dưới, tôi lén nhìn Tanneke đang kỳ cọ những viên gạch trước cửa nhà. Chị ta không nhìn thấy tôi, nhưngcon mèo chạy qua nhữngviên gạch ướt sau chị ta dừng lại và nhìn lên.
Tôi mở cửa sổ dưới và cửa chớp rồi trèo xuống khỏi ghế. Có cái gì đó chuyển động trước mắt tôivà tôi cứng người lại. Chuyển động ngừng lại. Đó là hình tôi trong chiếc gương treo trên bức tường giữa hai cửa sổ. Tôi nhìn thấy mình trong gương. Mặc dù tôi có một vẻ mặt đầy lo âu và tội lỗi, khuôn mặt tôi vẫn tắm trong ánh sáng, khiến làn da sáng lên. Tôi chăm chăm nhìn, cảm thấy ngạc nhiên rồi sau đó bước đi.
Bây giờ thì tôi có một lát để nhìn lướt căn phòng. Đó là một khoảng không rộng, hình vuông, chiều dài không bằng phòng lớn bên dưới. Khi những cửa sổ được mở ra, căn phòng sáng sủa và ngập đầy không khí, tường quét vôi, đá hoa cương lát nền màu trắngvà xám, những viên gạch màu sẫm hơn được đặt theo hoa văn hình vuông chạy chéo. Một hàng những viên gạch của Delft vẽ thần ái tình ốp dọc theo chân tường để bảo vệ tường vôi khỏi bị giẻ lau làm bẩn. Đó không phải là những bức vẽ của cha tôi.
Tuy căn phòng lớn, trong đó bày rất ít đồ gỗ. Trước cửa sổ giữa là giá vẽ và một cái ghế, một cái bàn đặt trước cửa sổ góc trái bên phải. Cạnh ghế lúc trước tôi đã đứng lên còn một cái nữa đặt cạnh bàn, làm bằng da trơn được đóngđinh tán và trên cộ trụ của ghế chạm hai cái đầu sư tử. Dựa vào bức tường phía xa, đằng sau ghếvà giá vẽ là một cái tủ nhỏ với những ngăn tủ đang đóng, vài cây cọ vẽ và một cái bay được đặt trên cùng cạnh nhữngbảng màu sạch sẽ. Cạnh tủ là một cái bàn bên trên có giấy tờ, sách và tranh ảnh in. Hai cái ghế đầu sư tử nữa được đặt dựa vào bức tường gần cửa ra vào.
Đó là một căn phòng ngăn nắp, thiếu vắng sự lộn xộn của cuộc sống thường nhật. Nó hoàn toàn khác với những căn phòng khác trong ngôi nhà, gần như thuộc về một ngôi nhà hoàn toàn khác. Khi đóng cánh cửa lại sẽ khó nghe thấy bọn trẻ con hò hét, tiếng lanh canh của chùm chìa khoá của Catharina, tiếng chổi quét của chúng tôi.
Tôi cầm chổi, xô nước, khăn lau và bắt đầu lau chùi. Tôi bắt đầu từ góc nhà, nơi phông cảnh cho bức tranh đã được dựng lên, nơi tôi biết mình không được di chuyển vật gì. Tôi quỳ xuống trên ghế để lau bụi chỗ cửa sổ tôi đã phải vật lộn mở ra, phủi bụi chiếc rèm màu vàng treo về một bên cửa sổ trong góc, khẽ khàng chạm vào nó sao cho không làm hỏng những nếp gấp. Những tấm kính rất bẩn và cần phải dùng nước ấm lau, nhưng tôi không biết liệu ông có muốn lau sạch chúng không. Tôi sẽ phải hỏi Catharina.
Tôi phủi bụi những cái ghế, lau chùi đi nhau tán bằng đồng và những chiếc đầu sư tử. Đã lâu rồi cái bàn không được lau chùi tử tế. Ai đó đã lau chùi xung quanh những đồ vật ở đó - một cây chổi lông, một cái bát thiếc, một lá thư, một chiếc bình gốm đen, tấm vải xanh da trời xếp đống ở một bên và rơi ra ngoài mép bàn - nhưng cần phải di chuyển chúng thì mới có thể thực sự lau chùi cái bàn được. Như mẹ tôi đã nói, tôi sẽ phải tìm cách di chuyển đồ vật, sauđó lại để nguyên xi vào lại chỗ cũ như thể chúng không hề bị động đến.
Bức thư nằm rất gần góc bàn. Nếu tôi đặt ngón cái của mình lên một mép lá thư, ngón thứ hai lên mép bên kia rồi cong tay lên để ngón út móc vào mép bàn, tôi sẽ có thể di chuyển bức thư, lau bụi chỗ đó, sau đóđặt nó lại vào chỗ cũ theo hướng như ngón tay tôi chỉ.
Tôi đặt những ngón tay của mình lên các mép giấy, hít vào một hơi, sau đó di chuyển lá thư, lau bụi rồi bằng một động tác nhanh đặt lại lá thư vào chỗ cũ. Tôi không biết chắc chắn tại sao tôi lại có cảm giác mình phải làm việc đó thật nhanh. Tôi đứng dậy khỏi bàn. Lá thư dường như vẫn ở đúng chỗ cũ, dầu chỉ có ông mới thực sự biết.
Dù vậy, nếu đây là bài kiểm tra của tôi, tốt nhất là tôi phải vượt qua.
Từ chỗ bức thư, tôi dùng tay để đo khoảng cách tới chiếc chổi lông, sau đó đặt các ngón tay của mình vào những điểm khác nhau ở một bên chiếc chổi lông. Tôi nhấc nó lên, lau bụi, đặt nó lại vào chỗ cũ, rồi đo khoảng cách từ đó đến bức thư. Tôi cũng làm như vậy với cái bát.
Đó là cách tôi lau chùi mà có vẻ như không di chuyển cái gì. Tôi đo khoảng cách giữa mỗi vật với các vật xung quanh. Với những vật nhỏ trên bàn thì khá dễ dàng, đồ gỗ khó hơn - tôi dùng chân, đầu gối, đôi lúc cả vai và cằm để đo khoảng cách giữa những cáighế.
Tôi không biết phải làm gì với tấm vải xanh nằm thành đống lộn xộn trên mặt bàn. Tôi sẽ không thể có được những nếp gấp y như kiểu cũ nếu tôi nhấc nó ra chỗ khác. Tạm thời tôi để mặc nó đấy, hyvọng ông sẽ không phát hiện ra gì trong vòng một hai hôm, cho đến khi tôi tìm được cách để phủi bụi chỗ đó.
Với những chỗ còn lại trong căn phòng tôi có thể cẩu thả hơn một chút. Tôi phủi bụi và quét rồi lau - sàn nhà, tường, cửa sổ, đồ gỗ - thoả mãn với việc lau chùi dọn dẹp một căn phòng đang thực sự cần được dọn dẹp. ở góc phía xa, đối diện với bàn và cửa sổ, một cánh cửa dẫn vào phòng kho chất đầy những bức tranh và các tấm toan, ghế, tủ, đĩa, bô, giá để áo khoác và một hàng những cuốn sách. Tôi lau chùi cả trong phòng đó, dọn dẹp đồ đạc sao cho căn phòng ngăn nắp hơn.
Trong suốt khoảng thời gian đó tôi tránh không lau chùi xung quanh giá vẽ. Không hiểu tại sao nhưng tôi cảm thấy mất bình tĩnh khi nhìn thấy bức tranh trên đó. Mặc dầu vậy, cuối cùng tôi chẳng còn việc gì khác để làm. Tôi lau cái ghế trước giá vẽ, rồi bắt đầu lau chùi giá vẽ, gắng không nhìn vào bức tranh.
Tuy nhiên, khi liếc qua tấm lụa vàng, tôi phải dừng lại.
Tôi vẫn còn chăm chăm nhìn bức tranh khi Maria Thins nói:
- Không phải là một cảnh thường gặp, đúng không?
Tôi không nghe thấy tiếng bước chân bà bước vào. Bà đứng ngay khung cửa, người hơi cúi, mặc cái váy màu đen bóng và cổ áo viền đăng ten.
Tôi không biết phải nói gì và không thể đứng được- tôi quay lại nhìn bức tranh.
Maria Thins cười to:
- Cô không phải là người duy nhất quên hết cách cư xử khi đứng trước một trong nhữngbức tranh của ông ta, cô gái ạ.
Bà ta đến đứng bên tôi.
- Phải, ông ta đã vẽ bức này rất đẹp. Đây là vợ ngài Ruijven.
Tôi nhận ra cái tên là cái tên người bảo trợ mà cha tôi đã nhắc đến.
- Cô ta không đẹp nhưng ông ta đã vẽ cô ta thành đẹp,- bà nói thêm. - Bức này sẽ được giá đây.
Vì đây là bức tranh đầu tiên của ông mà tôi được ngắm, tôi luôn nhớ nó hơn những bức tranh khác, thậm chí nhớ hơn cả nhữngbức mà tôi được nhìn thấy từ khi nó bắt đầu hình thành từ những lớp sơn nền đầu tiên cho tới những nét chấm phá cuối cùng.
Một người phụ nữ đứng trước bàn, quay mình sang chiếc gương trên bức tường tạo thành dáng nhìn nghiêng. Cô ta khoác một cái áo choàng sa tanh vàng óng đính lông chồn trắng và cài một cái nơ năm cánh màu đỏ rất mốt trên mái tóc. Ánh sáng ô cửa sổ chiếu vào cô ta từ phía bên trái, lướt qua khuôn mặt rồi viền theo đường cong thanh tú của cái trán và mũi. Cô ta đang cài chuỗi vòng ngọc trai đeo quanh cổ, giữ nơ cao, đôi tay cô ta lơ lửng trong không khí. Say sưa với chính bản thân mình trong gương, cô ta dường như không biết đến bất cứ ai xung quanh đang nhìn mình. Sau lưng cô ta, trên bức tường trắng sáng là một tấm bản đồ cũ, trong bóng tối nổi bật lên cái bàn với lá thư nằm trên đó, chiếc chổi lông và những đồ vật khác mà tôi vừa phủi bụi xung quanh.
Tôi muốn được khoác cái áo choàng và đeo chuỗi ngọc. Tôi muốn được biết người đàn ông đã nên cô ta như thế này.
Tôi nghĩ đến tôi nhìn hình ảnh phản chiếu của mình trong chiếc gương lúc trước và cảm thấy xấu hổ.
Maria Thins dường như cảm thấy toại nguyện với việc đứng cạnh tôi và thưởng ngoạn bức tranh. Thật là kỳ quặc khi đứng ngắm bức tranh với phông cảnh của chính nó ngay đằng sau. Nhờ việc lau chùi, tôi đã biết tất cả những thứ trên mặt bàn và mối liên quan của chúng với nhau - bức thư ở góc bàn, chổi lông nằm tình cờ bên cạnh cái bát thiếc, tấm vải màu xanh nằm quanh chiếc bình tối màu. Mọi thứ đều có vẻ y nguyên như vậy, chỉ có điều sạch sẽ hơn và tinh khiết hơn. Nó giễu cợt việc lau chùi của tôi.
Bất chợt tôi phát hiện ra sự khác biệt. Tôi hít mạnh.
- Gì vậy, cô gái?
- Trong bức tranh không có những cái đầu sư tử trên cái ghế bên cạnh người đàn bà, - tôi nói.
- Không. Đã có lúc trên cái ghế đó có một chiếc đàn luýt. Ông ta thay đổi rất nhiều. Ông ta không chỉ vẽ cái ông ta nhìn thấy, mà vẽ cái gì phù hợp. Cô gái, nói tôi nghe nào, cô nghĩ bức vẽ này đã xong chưa?
Tôi chăm chăm nhìn bà ta. Câu hỏi của bà ta chắc chắn là một cái bẫy nhưng tôi không thể hình dung được bất cứ thay đổi nào có thể khiến bức tranh đẹp hơn.
- Vậy bức tranh này đã xong rồi ư?- tôi ngập ngừng hỏi.
Maria Thins tỏ vẻ khinh bỉ:
- Ông ta vẽ bức tranh này ba tháng nay rồi. Ta nghĩ là ông ấy sẽ tiếp tục trong vòng hai tháng nữa. Ông ta sẽ thay đổi các đồ vật. Rồi cô sẽ thấy.
Bà ta nhìn xung quanh:
- Cô dọn dẹp xong rồi chứ? Được, vậy thì tiếp tục với các công việc khác của cô đi. Lát nữa ông ấy sẽ đến xem cô làm việc ra sao.
Tôi nhìn bức tranh lần cuối cùng nhưng việc ngắm nó kỹ quá khiến tôi cảm thấy có cái gì đó trôi tuột đi. Giống như ngắm một ngôi sao trên bầu trời đêm - nếu chỉ nhìn chăm chăm vào một ngôi sao, tôi sẽ hầu như không thấy nó, nhưng nếu tôi chỉ liếc nhìn thôi thì ngôi sao trở nên sáng hơn nhiều.
Tôi thu dọn chổi, xô nước và giẻ lau. Khi tôi rời căn phòng, Maria Thins vẫn còn đứng trước bức tranh.
Tôi lấy đầy nước từ con kênh vào những chiếc bình, đặt lên bếp rồi đi tìm Tannake. Chị ta đang ở trong căn phòng nơi bọn trẻ con ngủ,giúp Cornelia mặc váy trong khi Maertge giúp Aleydis còn Lisbeth thì tự mặc. Tâm trạng Tanneke không vui. Chị ta liếc nhìn tôi chỉ để rồi lờ đi khi tôi cố bắt chuyện với chị ta. Cuối cùng, tôi đứng trước chị ta để buộc chị ta phải nhìn tôi.
- Tannake, em đi đến hàng cá bây giờ đây. Hôm nay chị muốn mua gì?
- Đi sớm thế? Chúng tôi bao giờ cũng đi muộn hơn, - Tannake vẫn không nhìn tôi. Chị ta đang bố buộc dải ruy băng trắng vào những ngôi sao năm cánh trên tóc Cornelia.
- Em đang rỗi trong lúc chờ nước sôi và em nghĩ em sẽ đi bây giờ, - tôi trả lời một cách đơn giản. Tôi không nói thêm rằng những miếng thịt cá lúc sớm là những miếng ngon nhất, dù cho người bán thịt hay cá hứa để dành miếng ngon cho gia đình. Chị ta cần phải biết điều đó chứ.- Chị muốn mua gì?
- Hôm nay đừng có mua cá. Đến hàng thịt mua miếng thịt cừu ấy.
Tannake buộc xong nơ và Cornelia nhảy lên rồi chạy vụt qua tôi. Tannake quay đi, mở tủ tìm một cái gì đó. Trong giây lát, tôi nhìn tấm lưng rộng của chị ta, cái váy màu nâu xám ôm chặt lấy nó.
Chị ta ghen tị với tôi. Tôi lau chùi dọn dẹp xưởng vẽ, trong khi chị ta không được phép bước vào đó, nơi mà hình như không ai được vào trừ tôi và Maria Thins.
Khi Tanneke vươn thẳng người dậy, trong tay cầm chiếc mũ trẻ em, chị ta nói:
- Ông chủ đã có lần vẽ tôi rồi đấy, cô biết không. Vẽ tôi đang rót sữa. Ai cũng nói rằng đó là bức tranh đẹp nhất củaông ấy.
- Em muốn được xem quá. Nó còn ở đây không? - tôi đáp lời.
- Ôi, không. Ngài Ruijven mua rồi.
Tôi nghĩ trong giây lát.
- Vậy là một trong những người đàn ông giàu có nhất Delft lấy làm thích thú được ngắm chị hằng ngày ư?
Tanneke cười toét miệng, khuôn mặt rỗ của chị ta dường như còn nở thêm ra. Những lời nói đúng lúc đã thay đổi tâm trạng chị ta ngay lập tức. Tôi chỉ cần đơn giản là chọn đúng từ.
Tôi quay đi trước khi tâm trạng chị ta có thể thay đổi:
- Em đi cùng chị được không? - Maertge hỏi.
- Em nữa,- Lisbeth nói thêm.
- Không phải hôm nay,- tôi nói cương quyết.- các em phải ăn và giúp chị Tanneke.
Tôi không muốn việc đi cùng tôi trở thành thói quen của mấy cô bé. Tôi sẽ sử dụng nó như phần thưởng cho việc chúng quan tâm đến tôi.
Tôi cũng nóng lòng muốn được đi trên những con đường quen thuộc một mình, không có một người luôn gợi nhờ đến hoàn cảnh mới của tôi luyên thuyên bên cạnh. Khi tôi bước chân vào Quảng trường Chợ, để lại đằng sau Khu người Gia tô, tôi hít vào một hơi thật sâu. Tôi không nhậnrarằng tôi đã luôn căng thẳng trong suốt thời gian ở cùng với gia đình đó.
Trước khi đến quầy hàng của nhà Pieter, tôi dừng lại chỗ anh hàng thịt quen. Mặt anh ta rạng rỡ khi nhìn thấy tôi:
- Cuối cùng thì cô đã quyết định nói câu chào cơ đấy! Sao hôm qua cô lại quá cao sang đối với những người như tôi vậy?- anh ta trêu chọc.
Tôi bắt đầu giải thích tình cảnh mới của mình nhưng anh ta ngắt lời.
- Tất nhiên là tôi biết chứ. Ai mà chẳng nói chuyện đó. Con gái ông Jan thợ vẽ gạch phải đi làm việc cho ngài hoạ sĩ Vermeer. Và tôi thấy chỉ một ngày sau đó thì cô ta đã tự hào quá không thèm nói chuyện với bạn bè cũ!
- Tôi chẳng có gì mà tự hào cả khi đi làm người hầu. Cha tôi rất hổ thẹn.
- Cha cô đơn giản là gặp vận rủi. Chẳng ai buộc tội ông ấy cả.Cô cũng không cần phải hổ thẹn, cô gái yêu quí ạ. Tất nhiên chỉ trừ khi cô không mua thịt của tôi.
- Tôi chẳng có lựa chọn nào, tôi e là như vậy. Việc này bà chủ của tôi quyết định.
- À, ra thếà? Vậylà việc cô mua thịt của nhà Pieter không liên quan gì đến cậu con đẹp trai của ông ta chứ?
Tôi cau mày:
- Tôi còn chưa nhìn thấy con trai ông ta.
Anh hàng thịt cười:
- Cô sẽ thấy, sẽ thấy thôi. Thôi cô đi đi. Lần sau gặp mẹ thì nói mẹ cô đến chỗ tôi nhé. Tôi sẽ để dành vài thứ cho bà ấy.
Tôi cảm ơn anh ta và đi dọc theo các quầy hàng cho đến quầy của nhà Pieter. Ông ta có vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi:
- Cô đã đến rồi cơ à? Không thể chờ thêm, muốn có món lưỡi ngon nhất như hôm qua ngay hả?
- Hôm nay tôi muốn mua một miếng thịt cừu.
- Nào, Griet, cô nói đi, có phải cái lưỡi hôm qua là cái lưỡi ngon nhất cô đã từng mua không?
Tôi từ chối không đưa ra lời khen mà ông ta đang moi:
- Ông chủ và bà chủ ăn món đó. Họ không nhận xét gì.
Đằng sau Pieter, một thanh niên trẻ quay lại - anh ta đang xẻ thịt nửa con bò ở cái bàn đằng sau quầy hàng. Chắc đó là con trai của ông ta, vì dù cao hơn ông bố thì anh ta cũng có cùng đôi mắt màu xanh đó. Mái tóc vàng của anh ta dài và dày với những lọn tóc xoăn ôm lấy khuônmặt khiến tôi nghĩ đến quả mơ. Chỉ có chiếc tạp dề dính máu của anh ta khiến người ta khó chịu khi nhìn vào.
Đôi mắt anh ta dừng trên người tôi giống như con bướm đậu trên một bông hoa và tôi không thể không đỏ mặt. Tôi nhắc lại yêu cầu mua thịt cừu, mắt vẫn nhìn vào ông bố. Pieter cha sục sạo trong đống thịt và lấy ra cho tôi một miếng, đặt nó ở góc bàn. Hai cặp mắt quan sát tôi.
Miếng thịt hơi bị thâm ở góc. Tôi ngửi miếng thịt.
- Miếng này không tươi, - tôi nói thẳng.- Bà chủ của tôi sẽ không hề hài lòng khi ông nghĩ gia đình bà có thể ăn loại thịt như thế này, - giọng tôi kiêu căng hơn tôi định. Có lẽ cần phải như thế.
Ông bố và anh con trai nhìn tôi. Tôi nhìn lại ông bố, gắng lờ cậu con trai.
Cuối cùng Pieter quay sang con trai:
- Pieter, đưa chobố miếng thịt để riêng ở bên xe đẩy ấy.
Nhưng đấy là miếng cho…, - Pieter con ngừng lại.Anh ta biến mất,rồi quay trở lại với một miếng khác mà tôi có thể nhận thấy ngay là tuyệt ngon. Tôi gật đầu:
- Miếng đó khá hơn.
Anh con trai gói miếng thịt rồi đặt vào làn của tôi. Tôi cám ơn anh ta. Khi quay đi, tôi nhận thấy cái liếc mắt giữa hai bố con. Thậm chí ngay lúc ấy, bằng cách nào đó tôi đã biết nó có nghĩa gì và nó sẽ có nghĩa gì đối với tôi.
Lúc tôi về, Catharina đang ngồi trên ghế băng cho Johannes ăn. Tôi chìa cho cô ta xem miếng thịt và cô ta gật đầu. Khi tôi chuẩn bị đi vào trong, cô ta nhỏ giọng nói:
- Chồng tôi đã xem xét xưởng vẽ và thấy việc lau chùi như vậy vừa ý ông ấy.- cô ta không nhìn tôi.
- Cám ơn cô, - tôi đi vào trong, mắt liếc nhìn bức tranh tĩnh vật vẽ hoa quả và một con tôm hùm và thầm nghĩ:“Vậy là mình thực sự phải ở lại rồi.”
Phần ngày còn lại trôi đi cũng hệt như phần đầu, và những ngày tiếp theo cũng sẽ như vậy thôi. Sau khi đã lau chùi dọn dẹp xưởng vẽ và đi mua thịt hay cá về thì tôi sẽ lại tiếp tục công việc giặt giũ, một ngày phân loại, ngâm và vò những chỗ ố bẩn, ngày hôm sau vò, giặt, đunvà vắt trước khi phơi lên cho đồ khô và được tẩy trắng dưới ánh nắng buổi trưa, ngày hôm sau nữa thì là, mạng và gấp. Vào một lúc nào đó, tôi luôn ngừngcông việc để giúp Tanneke nấu bữa trưa. Rồi chúng tôi dọn dẹp và sau đó tôi có một chút thời gian rỗi để nghỉ ngơi và khâu vá trên chiếc ghế băng trước nhà, hoặc ở sân sau. Sau đó tôi kết thúc những gì tôi đã bắt đầu lúc sáng, rồi giúp Tanneke nấu bữa tối. Việc cuối cùng chúng tôi làm là lau sàn một lần nữa để có sàn nhà sạch sẽ ngay sáng hôm sau.
Ban đêm, tôi dùng chiếc tạp dề mặc ngày hôm đó che đi bức tranh Chúa Giê su bị đóng đinh trên thánh giá ở phía cuối giường. Khi đó tôi ngủ ngon hơn. Ngày hôm sau tôi cho tấm tạp dề vào chỗ đó phải giặt giũ trong ngày.
Sáng hôm sau, trong lúc Catharina đang mở khoá cửa xưởng vẽ, tôi hỏi cô ta liệu tôi có thể lau các cửa
sổ.
- Tại saolại không?- cô ta gay gắt trả lời.- Cô không cần phải hỏi tôi những chuyện vớ vẩn ấy.
- Vì ánh sáng, thưa cô, - tôi giải thích. - nếu tôi lau chùi, có thể nó sẽlàm thay đổi bức tranh. Cô có thấy không?
Cô ta không thấy. Cô ta không vào hoặc không thể vào xưởng vẽ để ngắm nhìn bức tranh. Có vẻ như cô ta không bao giờ bước chân vào căn phòng. Khi nào Tanneke vui vẻ tôi sẽ phải hỏi tại sao. Catharina đi xuống tầng dưới để hỏi ông và gọi với lên bảo tôi chừa lại những ô cửa sổ.
Khi tôi lau chùi xưởng vẽ, tôi chẳng thấy gì chỉ ra là ông đã ở đây. Chẳng có gì bị xê dịch, bảng màu sạch sẽ, bức tranh có vẻ không thay đổi gì. Nhưng tôi có thể cảm thấy ông đã ở đây.
Hai ngày đầu tiên khi tôi ở Oude Langendijck, rất hiếm khi tôi nhìn thấy ông. Thỉnh thoảng tôi nghe thấy tiếng ông, trên cầu thang, ngoài hành lang, cười với bọn trẻ con, nhẹ nhàng nói chuyện với Catharina. Nghe thấy giọngông khiến tôi có cảm giác như mình đang đi bên mép con kênh bằng những bước chân chơi vơi. Tôi không biết ông sẽ đối xử với tôi như thế nào trong ngôi nhà của chính ông, liệu ông có quan tâm đến những miếng rau tôi thái trong bếp nhà ông hay không.
Chưa từng có quý ông nào lại quan tâm đến tôi như thế.
Tôi đối mặt với ông vào ngày thứ ba kể từ khi tôi đến ở trong ngôi nhà. Ngay trước bữa tối, tôi đi tìm đến chiếc đĩa mà Lisbeth đã để lại bên ngoài và gần như đâm sầm vào ông khi ông đang bế Aleydis đi dọc hành lang.
Tôi lùi lại. Cả ông và Aleydis đều nhìn tôi bằng đôi mắt màu xám ấy. Ông không cười mà cũng không phải không cười với tôi. Thật khó khi nhìn vào mắt ông. Tôi nghĩ đến người đàn bà đang nhìn mình trong bức tranh trên tầng, đến việc đeo ngọc trai và mặc lụa sa tanh vàng. Cô ta sẽ chẳng khó khăn gì khi bắt gặp cái nhìn của một quý ông. Khi tôi ngước được đôi mắt mình lên để nhìn vào đôi mắt ông, ông đã không còn nhìn tôi nữa.
Ngày hôm sau tôi nhìn thấy chính người đàn bà đó. Trên đường tôi đi mua thịt về, một người đàn ông và một người đàn bà đi đằng trước trên phố Oude Langendijck. Đến cửa nhà chúng tôi người đàn ông quay sang cô ta cúi chào rồi đi tiếp. Trên mũ ông ta cài một chiếc lông chim dài - chắc hẳn ông ta là vị khách từ mấy hôm trước.Từ một cái nhìn nghiêng nghiêng ngắn ngủi, tôi thấy ông ta để râu quai nón và một khuôn mặt tròn trĩnh hợp với cơ thể. Ông ta cười như thể chuẩn bị nói một lời khen nịnh giả dối. Người đàn bà đi vào ngôi nhà trước khi tôi kịp nhìn thấy khuôn mặt cô ta nhưng tôi đã thấy được chiếc nơ năm cánh trên tóc. Tôi lùi lại, chờ ở ô cửa cho đến khi nghe thấy tiếng cô ta bước lên cầu thang.
Lúc sau, khi tôi đang cất ít quần áo vào tủ trong phòng lớn thì tôi nghe thấy tiếng cô ta bước xuống. Khi cô ta bước vào, tôi đứng lên. Cái áo choàng màu vàng vắt trên cánh tay, nơ vẫn cài trên tóc.
- Ôi! - cô ta nói. - Catharina đâu nhỉ?
- Cô ấy cùng mẹ đi đến Toà thị chính, thưa bà. Việc gia đình.
- Tôi biết rồi. Không sao cả, hôm khác tôi sẽ gặp cô ấy vậy. Tôi để cái này lại đây cho cô ấy.
Cô ta trải áo choàng ra giường và thả chuỗi vòng ngọc trai lên đó.
- Vâng, thưa bà.
Tôi không thể rời mắt khỏi cô ta. Tôi có cảm giác như vừa nhìn thấy vừa không nhìn thấy cô ta. Đó là một cảm giác kỳ lạ. Cô ta, như Maria Thins nói, không xinh đẹp khi ánh sáng chiếu vào cô ta như trong bức tranh. Dù vậy cô ta vẫn rất đẹp, nếu chỉ vì tôi nhớ hình ảnh cô tanhư vậy. Cô ta nhìn tôi với một nét mặt khó hiểu, cứ như thể cô ta phải biết tôi vì tôi nhìn cô ta với một sự quen thuộc đến thế, tôi gắngcụp mắt xuống.
- Tôi sẽ nói với cô chủ là bà đến, thưa bà.
Cô ta gật đầu nhưngtrôngvẻ không yên tâm. Cô ta nhìn chuỗivòng ngọc trai cô ta vừa đặt lên tấm áo choàng.
- Tôi nghĩ tôi sẽ để những thứ này ở trên xưởng vẽ của ông ấy.
Cô ta vừa tuyên bố vừa nhặt chuỗi vòng lên. Cô ta không nhìn tôi nhưng tôi biết, cô ta nghĩ rằng không nên tin tưởng giao ngọc trai cho người hầu. Sau khi cô ta đi, khuôn mặt cô ta vẫn còn lẩn quất như mùi hương.
Vào thứ Bảy, Catharina và Maria Thins đưa Tanneke và Maertge cùng họ đi chợ ở quảng trường, nơi họ sẽ mua rau cho cả tuần, nhữngvật dụng chủ yếu và những thứ khác cho ngôi nhà. Tôi muốn đi cùng họ vì nghĩ rằng mình sẽ gặp được mẹ và em gái, nhưng họ bảo tôi ở nhà với mấy đứa con gái nhỏ hơn và đứa bé. Thật khó giữ cho bọn chúng không chạy rachợ.Tôi có thể tự đưa chúng tra đó nhưng tôi không dám bỏ nhà không người trông. Thay vào đó, chúng tôi nhìn ngắm những con thuyền đang ngược xuôi dòng kênh trên đường đến chợ, chở đầy bắp cải, lợn, hoa, gỗ, bột mì, dâu tây, móng ngựa. Khi quay về các con thuyền trống rỗng, nhữngngười chèo thuyền đếm tiền hoặc uống rượu. Tôi dạy mấy đứa con gái những trò hồi trước hay chơi cùng Agnes và Frans, còn chúng thì dạy tôi trò chơi mà chúng tự nghĩ ra. Chúng thổi bong bóng, chơi búp bê, chạy theo cái vòng trong khi tôi ngồi trên ghế băng và bế Johannes vào lòng.
Cornelia có vẻ như đã quên cái tát. Con bé vui vẻ và thân thiện, giúp tôi trông Johannes, nghe lời tôi. “Chị giúp em với,”conbé nhờ tôi khi cố trèo lên thùng rượu mà những người hàng xóm để lại ngoài phố, đôi mắt màu nâu nhạt của nó mở to, ngây thơ. Tôi thấy lòng mình ấm lại vì sự ngọt ngào của con bé, dù biết rằng không thểtin nó được. Nó có thể là đứa hay nhất trong đám, nhưng cũng là đứa tâm tính thất thường ngất- vừa là đứa tử tế nhất lại vừa là đứa ghê gớm hơn cả.
Bọn trẻ đang sắp xếp bộ sưu tập vỏ sò chúng mang ra ngoài, chia thành những đống có màu sắc khác nhau khi ông bước ra khỏi nhà. Tôi ôm chặt đứa bé, cảm nhận được những chiếc xương sườn của nó trong tay mình. Đứa bé kêu ré lên và tôi vùi mũi mình vào tai nó để giấu đi khuôn mặt.
- Bố ơi, con đi với bố được không? - Cornelia hét rồi nhảy cẫng lên và nắm tay ông. Tôi không thể nhìn thấy nét mặt ông- nó bị cái đầu nghiên và vành mũ che đi mất.
Lisbeth và Aleydis bỏ đám vỏ sò đấy.
- Con cũng muốn đi,- chúng cùng hét lên, túm chặt tay ông.
Ông lắc đầu và khi đó tôi có thể nhìn thấy nét mặt bối rối của ông.
- Hôm nay thì không. Bố đến hiệu bào chế.
- Bố có định mua các thứ để vẽ không hả bố?- Cornelia hỏi, vẫn còn bám chặt tay ông.
- Cùng các thứ khác.
Cậu bé Johannes bắt đầu khóc và ông nhìn xuống tôi. Tôi nựng nựng đứa bé, cảm thấy lúng túng.
Trông ông có vẻ như định nói điều gì, nhưng thay vào đó ông rủ mấy đứa congái ra rồi đi xuôi con phố Oude Langendijck.
Ông chưa nói với tôi lời nào kể từ khi chúng tôi nói về màu sắc và hình dạng những miếng rau. Vì nóng lòng muốn được về nhà, Chủ nhật tôi dậy rất sớm. Tôi phải đợi Catharina mở cửa trước nhưng khi tôi nghe thấy tiếng cửa mở, tôi đi ra và thấy Maria Thins với chùm chìa khoá.
- Con gái tôi hôm nay mệt, - bà nói trong lúc đứng sang bên kia để tôi đi ra. - Nó phải nghỉ vài ngày. Cô có thể gắng làm không cần nó được không?
- Tất nhiên, thưa bà, - tôi trả lời, rồi nói thêm, - và tôi luôn có thể hỏi bà nếu tôi có chuyện gì cần hỏi mà.
Maria Thins cười tinh quái.
- Chà, cô gái láu lỉnh. Cô rõ biết nên hái quả ở cây nào. Làm việc thông minh một chút thì không sao cả.
Bà ta đưa cho tôi mấy đồng tiềnxu, tiền lương những ngày tôi làm việc.
- Tôi ngờ rằng cô sẽ về nhà ngay bây giờ, để kể cho mẹ cô nghe mọi chuyện về chúng tôi.
Tôi lẩn đi ngay trước khi bà ta kịp nói thêm, qua Quảng trườngChợ, vượt những người đang đi dự buổi lễ sớm ở Nhà thờ Mới rồi vội vã đi qua các con phố và dòng kênh dẫn tôi về nhà. Khi về đến con phố nhà chúng tôi, tôi nghĩ nó đã khác biết bao so với lúc cách đây chưa đầy một tuần. Ánh nắng dường như sáng hơn và dịu hơn, con kênh rộng hơn. Những cây tiêu huyền dọc bờ kênh đứng im phăng phắc, giống như những người lính gác chờ đợi tôi.
Agnes đang ngồi trên ghế băng trước nhà. Khi nhìn thấy tôi nó gọi toáng vào trong. - “Chị ấy đây rồi!”- rồi chạy đến nắm tay tôi. - “Thế nào? Họ có tử tế không?” - con bé thậm chícòn không chào tôi đã hỏi. “Chị có phải làm việc vất vả lắm không? Chị ngủ ở đâu? Chị có được ăn uống bằng bát đĩa đẹp không?”
Tôi cười và không trả lời bất cứ câu hỏi nào của Agnes cho tới khi tôi ôm mẹ và chào cha. Mặc dù không nhiều nhưng tôi cảm thấy tự hào khi đưa cho mẹ mấy đồng xuít ỏi trong tay mình. Suy cho cùng, đấy là lý do tôi làm việc.
Cha đến ngồi bên chúng tôi và nghe kể về cuộc sốngmới của tôi. Tôi đưa tay cho ông, dẫn ông đến chỗ thềm trước. Ngồi xuống cái ghế băng, ông dùng ngón trỏ vuốt ve bàn tay tôi.
- Tay con nứt nẻ hết cả rồi. Chai lên và trầy xước quá. Con đã có những vết chai này do làm việc vất vả đây này, - ông nói.
- Cha đừng lo, - tôi nhẹ nhàng trả lời. - Có quá nhiều đồ chờ con giặt giũ vìl úc trước họ không có đủ người làm hết. Chẳng mấy chốc mọi việc sẽ dễ dàng hơn ấy mà.
Mẹ săm soi bàn tay tôi.
- Mẹ sẽ ngâm ít cây cẩm quỳ trong dầu. Cái đó sẽ làm cho tay con mềm đi. Agnes và mẹ sẽ về quê kiếm lấy một ít,- bà nói.
- Kể cho cả nhà nghe đi chị,- Agnes gào lên.- Kể cho cả nhà nghe về họ đi.
Tôi kể cho họ nghe. Tôi chỉ bỏ qua rất ít chuyện - tôi mệtnhư thế nào lúc về đêm; bức tranh Chúa Giê su bị đóng đinh trên thánh giá treo ở phía cuối giường tôi như thế nào; Maertge và Agnes cùng độ tuổi ra sao. Còn ngoài ra tôi kể cho họ nghe tất thảy mọi thứ.
Tôi chuyển lời nhắn của anh hàng thịt cho mẹ.
- Anh ta thật tử tế, - bà nói, - nhưng anh ta biết là chúng ta không có tiền mua thịt và chúng ta sẽ không nhận đồ hảo tâm như vậy.
- Con không cho rằng anh ta nghĩa đó là hảo tâm, - tôi giải thích, - con nghĩ anh ta coi đó là tình bạn.
Bà không trả lời, nhưng tôi biết bà sẽ không đến chổ anh hàng thịt.
Khi tôi nhắc đến chủ quầy thịt mới, cha con nhà Pieter, bà nhướng mày nhưng không nói gì.
Sau đó thì cả nhà đi lễ nhà thờ ở khu chúng tôi, vây quanh tôi là những khuôn mặt quen thuộc và những lời nói quen thuộc. Ngồi giữa mẹ và Agnes, tôi thấy lưng mình tựa thoải mái vào ghế, khuôn mặt tôi nhẹ nhõm giãn ra khỏi chiếc mặt nạ tôi mang suốt cả tuần. Tôi nghĩ mình phải khóc mất.
Mẹ và Agnes không để tôi giúp nấu bữa trưa khi chúng tôi về đến nhà. Tôi ngồi cùng cha trên ghế băng, dưới ánh mặt trời. Ông ngửa mặt lên đón hơi ấm và để đầu ngẩng như vậy suốt khoảng thời gian chúng tôi nói chuyện.
- Nào, Griet, bây giờ kể cho cha nghe về ông chủ mới của con đi. Con hầu như chẳng nói lời nào về ông ấy cả.
- Chẳng mấy khi con nhìn thấy ông ấy, - tôi có thể trả lời một cách trung thực. - Hoặc là ông ấy ở trong xưởng vẻ, nơi không ai được phép quấy rầy, hoặc ông ấy đi ra ngoài.
- Chăm lo công việc của Giáo phường, cha nghĩ vậy. Nhưng con đi vào xưởng vẽ của ông ấy, con đã kể cha mẹ nghe về việc dọn dẹp và đo khoảng cách nhưng con chẳng kể gì về bức tranh ông ấy đang vẽ cả. Tả cho cha nghe đi.
- Con không biết liệu con có miêu tả sao để cha có thể hình dung ra nó.
- Con cố đi. Bây giờ cha chẳng có gì nhiều để nghĩ ngoại trừ những kỷ niệm. Cha sẽ cảm thấy vui thích khi được hình dung ra bức tranh của một bậc thầy, kể cả khi trí tưởng tượng của cha chỉ tạo nên một bản sao nghèo nàn.
Thế là tôi gắng miêu tả người đàn bà đang đeo chuỗi vòng ngọc trai quanh cổ, đôi tay cô ta lơ lửng, mắt nhìn mình trong gương, ánh sáng từ cửa sổ thấm đẫm khuôn mặt cô ta và cái áo choàng màu vàng, phông cận cảnh tối màu tách cô ta ra khỏi chúng tôi.
Cha tôi chăm chú lắng nghe nhưng khuôn mặt ông không sáng ngời lên cho đến khi tôi nói.
- Ánh sáng ở bức tường phía sau ấm áp đến mức nhìn nó có cảm giác giống như mặt trời đang chiếu lên mặt cha bây giờ ấy.
Ông gật đầuvà mìm cười, hài lòng là bây giờ thì ông đã hiểu.
- Đấy là điều con thích nhất về cuộc sống mới của con, việc ở trong xưởng vẽ ấy,- ông nói ngay.
Điều duy nhất, tôi thầm nghĩ, nhưng không nói ra.
Đến lúc chúng tôi ăn bữa trưa, tôi cố gắng không so sánh nó với những gì có trong ngôi nhà ở Khu người Gia tô, nhưng tôi đã trở nên quen thuộc với thịt và bánh mì làm từ lúa mạch đen loại tốt. Mặc dù mẹ tôi nấu nướng khéo léo hơn Tanneke nhưng bánh mì đen thì khô, món rau hầm thì nhạt nhẽovì không có mỡ đểđem lại hương vị cho nó. Căn phòng cũng khác, không có những viên gạch bằng đá hoa cương, không có rèm sa tanh, không có những cái ghế bọc da được trang trí. Mọi thứ đều đơn giản và sạch sẽ, không được trang hoàng gì cả. Tôi yêu nó vì nó thân thuộc, nhưng giờ đây tôi ý thức được sự buồn tẻ của nó.
Đến cuối ngày thì thật nặng nềphải nói lời tạm biệt với cha mẹ - nặng nề hơn lần đầu tiên tôiđi, vì lần này tôi biếtmình sẽ trở về đâu. Agnes đi cùng tôi với Quảng trường Chợ.Khi chỉ còn lại hai chị em, tôi hỏi em xem em thế nào.
- Cô đơn, em đáp lời, một từ thật buồn bã thốt ra từ miệng cô bé mười tuổi.Trước đây, lúc nào em cũng là một cô bé hoạt bát nhưng giờ đây em đã trở nên lặng lẽ.
- Chủ nhật nào chị cũng sẽ về, - tôi hứa. - Và trong tuần chị có thể ghé qya một chút sau khi đã đi chợ mua thịt cá.
- Hoặc em có thể gặp chị khi chị đi ra ngoài mua các thứ,- em đề nghị, mặt rạng rỡ lên.
Chúng tôi quả thật cố gắng gặp nhau vài lần ở Khu Hàng thịt. Tôi luôn mừng khi trông thấy em chừng nào tôi đi một mình.
Tôi bắt đầu tìm chỗ đứng của mình trong ngôi nhà ở Oude Langendijck. Catharina. Tanneke và Cornelia đều có những lúc rất khó tính nhưng thường thì tôi được để yên với công việc của mình. Chắc đây là do ảnh hưởng của Maria Thins. Vì lý do riêng của mình, bà đã quyết định rằng tôi là một sự bổ sung hữu ích, và những người khác, kể cả đám trẻ con, noi theo gương bà.
Có thể bà cảm thấy rằng giờ đây, khi tôi đảm nhiệm việc giặt giũ, quần áo sạch sẽ hơn và được tẩy trắng hơn. Hoặc là giờ đây, khi tôi đi chợ, món thịt cũng mềm hơn. Hoặc ông cảm thấy dễ chịu hơn với xưởng vẽ sạch sẽ. Hai điểm đầu thì đúng. Điểm sau thì tôi không biết. Khi ông và tôi cuối cùng nói chuyện với nhau, câu chuyện không nhắc đến việc dọn dẹp của tôi.
Tôi thận trọng hướng bất cứ lời khen nào về việc chăm lo nhà cửa tốt hơn khỏi mình. Tôi không muốn có kẻ thù. Nếu Maria Thins thích món thịt, tôi nói rằng đó là do cách nấu nướng của Tanneke làm cho món thịt thành ngon như thế.Nếu Maertge nói rằng tạp dề của nó trắng hơn trước kia, tôi bảo do mặt trời mùa hè bây giờ đang đặc biệt chói chang.
Tôi tránh Catharine khi nào có thể. Rõ ràng là ngay từ giây phút cô ta nhìn thấy tôi thái rau trong bếp của mẹ tôi thì cô ta không thích tôi. Tâm trạng cô ta không hề được cải thiện chút nào bởi đứa bé mang trong bụng, nó khiến cô tả trở nên lóng ngóng, vụng về và không còn giống chút nào với vai trò cô ta cảm thấy - quý bà cao quý của ngôi nhà. Đó còn là một mùa hè nóng bức và đứa trẻ thì đặc biệt hiếu động. Nó bắt đầu đạp mỗi khi cô ta đi lại, ấy là cô ta nói vậy. Khi bụng cô ta to hơn, cô ta đi lại trong nhà với một vẻ mệt mỏi, đau đớn. Cô ta nằm lại trên giường ngày càng muộn hơn, thế nên Maria Thins là người cầm chùm chìa khóa và mở cửa xưởng vẽ cho tôi mỗi buổi sáng. Tanneke và tôi bắt đầu làm nhiều hơn công việc của cô ta khi trước - trông nom mấy đứacon gái, mua các vật dụng cho ngôi nhà, thay rửa cho đứa bé.
Một hôm, khi tâm trạng Tanneke vui vẻ, tôi hỏi chị ta sao họ không thuê thêm người hầu cho công việc nhẹ nhàng hơn.
- Với một ngôi nhà lớn thếnày, rồi tài sản bà chủ của chị, rồi những bức tranh của ông chủ, - tôi nói thêm, - chẳng nhẽ họ không thể thuê thêm một người hầu gái! Hay một chị bếp?
- Chà, - Tannke khịt mũi,- họ khó khăn mới trả được lương cho cô đấy.
Tôi ngạc nhiên - những đồng tiền trong tay tôi mỗi tuần thật ít ỏi. Tôi sẽ phải mất hàng năm làm việc mới có thể mua được một thứ gì đó đẹp đẽ như cái áo choàng màu vàng mà Catharia cẩu thả gập trong tủ. Họ không có vẻ là túng thiếu.
- Tất nhiên là họ sẽ tìm được cách để trả tiền vú emtrong vòng vài tháng khi đứa bé được sinh ra, - Tannke nói thêm. Giọng chị ta có vẻ chê trách.
- Tại sao?
- Để vú em cho đứa bé bú.
- Cô chủ sẽ không cho con bú à? Tôi ngốc ngếch hỏi.
- Cô chủ không thế có nhiều con đến thế nếu cô ấy tự cho con bú. Việc đó làm cho không có con được nữa, cô biết đấy, nếu tự cho con bú.
- Chà - tôi cảm thấy mình hoàn toàn mù tịt về những chuyện này, - Thế cô ấy muốn cóthêm con à?
Tannke cười khúc khích.
- Đôi lúc tôi nghĩ cô chủ đang dùng trẻconlắp đầy ngôi nhà vì cô ấy không thể dùng người hầu lấp đầy ngôi nhà như cô ấy muốn.
Chi ta hạ giọng:
- Ông chủ vẽ không đủ để trả công người hầu, cô thấy đấy. Mỗi năm ông ấy thưởng vẽ ba bức tranh. Đôi lúc chỉ có hai. Người ta không trở nên giàu có bằng cách đó được.
- Ông ấy không thể vẽ nhanh hơn được sao? - thậm chí ngay lúc nói tôi đã biết ông sẽ không làm thế. Ông sẽ chỉ luôn vẽ theo tốc độ của riêng ông.
- Bà chủ và cô chủ đôi lúc bất đồng. Cô chủ muốn ông chủ vẽ nhanh hơn, nhưng bà chủ nói rằng vẽ nhanh sẽ làm hỏng ông ấy mất.
- Maria Thins rất tinh tường.
Tôi hiểu rằngtôi có thể nói raý kiến của mình trước mặt Tanneka chừng nào tôi nói những chuyện khen ngợi Maria Thins. Tannke trung thành tuyệt đối với bà chủ của mình. Tuy nhiên, chị ta khôngmấy nhẫn nại với Catharina, và khi tâm trạng vui vẻ, chị ta khuyên tôi về việc phải cư xử thế nào với cô ta.
- Đừng để ý những điều cô chủ nói, - chị ta khuyên. - Đừng biểu lộ gì ra mặt khi cô ấy nói, rồi sau đó làm mọi việc theo cách của cô, hay theo cách mà tôi hay bà chủ bảo. Cô ấy không bao giờ kiểm tra đâu, cô ấy cũng chẳng bao giờ phát hiện ra đâu. Cô ấy chỉ ra lệnh cho chúng ta vì cô ấy cảm thấy cần phải ra lệnh. Nhưng chúng ta biết ai là chủ thật sự của chúng ta, và cô ấy cũng biết.
Mặc dầu Tanneke thường hay cáu với tôi, tôi đã học được cách không để ý đến chuyện đó vì chị ta chẳng bao giờ như vậy lâu. Tâm trạng chị ta luôn thay đổi, có lẽ do bị kẹt giữa Catharina và Marie Thins trong bao năm như vậy. Bất kể những lời tự tin rằngcứ lờ Catharina đi, chính Tanneke lại nghe theo lời khuyên của mình. Kiểu nói khó nghe của Catharina khiến chị ta buồn. Và Maria This, mặc dù rất công bằng, cũng không bảo vệ Tanneke trước Catharina. Tôi chưa từng nghe Maria Thins mắng mỏ congái vì bất cứ điều gì, dù rằng đôi lúc cần phải quở trách cô ta.
Còn có vấn đề trong việc chăm sóc nhà cửa của Tanneke. Có lẽ lòng trung thành của chị ta bù đắp cho tính cẩu thả của chị ta khi chăm sóc ngôi nhà- các góc nhà không được lau chùi, thịt cháy ở bên ngoài và chưa chín ở bên trong, ấm đun nước khôngđược lau chùi sạch sẽ. Tôi không thể hình dung ra nổi chị ta đã làm gì với xưởng vẽ của ông khi chị ta cố gắng dọn dẹp căn phòng đó. Mặc dầu Maria Thins hiếm khi mắng mỏ Tanneke, cả hai người đều biết rằng bà cần phải mắng, và chuyện này khiến Tanneke hoang mang và dễ giận hơn.
Tôi nhanh chóng hiểu ra, dù rằng rất sắc sảo, Maria Thins lại cư xử mềm mỏng với những người gần gũi bà nhất. Những lời chỉ trích của bà không gay gắt như bề ngoài của nó.
Trong số bốn đứa con gái, Cornelia là đứa đồng bóng nhất, như nó đã thể hiện ngay từ buổi sáng đầu tiên. Cả Lisbeth và Aleydis đều là những đứa trẻ ngoan ngoãn, trầm tính, còn Maertge đã đủ lớn đển bắt đầu hiểu được mọi việc trong nhà, việc đó khiến cô bẻ trở nên điềm tĩnh - dù rằng đôi lúc nó cũng có những cơn giận dữ và la mắng tôi y như mẹ nó. Cornelia thì không la hét nhưng có những lúc không thể nào kiểm soát nổi con bé. Thậm chí lời đe dọa về cơn giận dữ của Maria Thins mà tôi đã sử dụng ngày đầu tiên không phải lúc nào cũng hiệu quả. Có thể ngay phút trước thì con bé vui vẻ dễ chịu, sauđó thay đổi ngay, giốngnhư một con mèo đang dễ chịu rên gừ gừ nhưng lại cắn ngay bàn tay sờ vào nó. Trong khi rất trung thành với các chị gái, nó cũng chẳngngại ngần gì làm mấy đứa kia khóc bằng cách cấu các chị thật đau. Tôi cảnh giác với Cornelia và không thể yêu qúy nó như những đứa khác.
Tôi trốn chạy khỏi tất cả những chuyện đó trong khoảng thời gian tôi dọn dẹp xưởng vẽ. Maria Thins mở cửa phòng cho tôi và thỉnh thoảng bà nán lại ít phút xem xét bức tranh, cứ như thể đó là một đứa trẻ đang bị ốm cần bà chăm sóc. Dù vậy, khi bà đi rồi thì căn phòng là của riêng tôi. Tôi nhìn xung quanh xem có gì thay đổi không. Ban đầu nó dường như vẫn thế, ngày này qua ngày khác, nhưng khi đôi mắt tôi đã quen với những chi tiết của căn phòng, tôi bắt đầu nhận ra những thay đổi nhỏ - những cái cọ được sắp xếp lại trên nóc tủ, một trong những ngăn tủ bị hé mở, cái bay pha màu nằm cân bằng trên mép giá vẻ, cái ghế bị xê dịch đi một chút ra khỏi chỗ của nó bên cạnh cửa.
Tuy vậy, trong góc phòng, nơi ông vẽ, k