Chương 3
Tiếng đạn nổ tan nhanh trong bầu trời mênh mông màu xám. Đàn quạ đậu trên tường cũng không bay đi. Chúng còn đồng thanh kêu quàng quạc làm át cả tiếng đại bác ở xa. Chúng đã quen với đủ mọi thứ tiếng động.
Ba chiếc cáng làm sơ sài đang thụt dần xuống đống tuyết tan. Miếng vải bạt đã được phủ lên trên cái xác không còn mặt. Raikê nằm ở giữa. Chiếc bốt đã được gá vào cẳng chân cụt nhưng dọc đường nó đã bị xô lệch và bây giờ chẳng ai thiết đặt lại nữa. Raikê như muốn tự vùi mình xuống đất đã ủng.
Họ súc vài xẻng bùn đổ xuống huyệt. Khi hố đã đầy vẫn còn một đống đất nhỏ, Muychkê quay lại hỏi Muylơ.
– Có phải nện đất cho chặt không?
– Cái gì?
– Thưa trung úy, nện đất cho chặt. Làm như vậy cho hết chỗ đất rồi đắp thêm mấy tảng đá lên trên. Đề phòng cáo và sói.
– Huyệt đã sâu rồi, những con vật ấy không đào được xác lên đâu. Vả lại…
Hắn định nói là cáo và sói đã có đủ xác chết ở trên mặt đất để ăn, chúng không thèm đào những xác này đâu.
– Kỳ cục thật, hắn nói. Nghĩ gì lạ vậy?
– Việc đó đã xảy ra rồi.
Muychkê thờ ơ nhìn Muylơ. Y nghĩ, mày chỉ là thằng lính non choẹt mà cứ làm ra vẻ gì cũng biết hết. Ngữ ấy mà cũng được làm sĩ quan đấy. Những người tốt như Raikê thì đã chết rồi.
Muylơ lắc đầu.
– Lấy chỗ đất còn lại đắp cho cao lên. Rồi trồng cây thập tự lên, hắn nói. Sao cho coi được?
– Thưa trung úy, rõ.
Muylơ tập hợp đại đội và ra lệnh tiến. Hắn hô khẩu lệnh to hơn thường lệ. Hắn có cảm tưởng bọn lính già coi thường hắn. Về điểm này, hắn không lầm.
Daoê, Immecman và Gơrebê vun chỗ đất còn lại thành đống.
– Mềm quá, Daoê nói. Cây thập tự không đứng vững đâu.
– Chắc vậy.
– Nó sẽ đứng được ba ngày, Cậu làm cứ như cho bố cậu vậy.
– Câm mồm, Raikê là người tốt. Mày biết gì. Mày ở đại đội cải hối mà.
Immecman cười.
– Đại đội cải hối? Mày chỉ biết nói thế thôi à? Đồ thộn!
Y bỗng nổi khùng.
– Ở đại đội cải hối, có nhiều thằng còn khá hơn mày cơ.
– Thế nào, có trồng cây thập tự hay không đây? Gơrebê hỏi.
– À, anh chàng sắp được về phép, Immecman quay lại nói. Cậu ta đang vội.
– Còn mày, mày không vội à? Daoê hỏi hắn.
– Tao không được đi phép, mày thừa biết rồi chứ, đồ giòi bọ?
– May quá! Mày mà được đi, mày sẽ lợi dụng để chuồn thẳng chứ gì?
– Biết đâu đấy, có thể chứ!
Daoê khinh bỉ nhổ nước miếng. Immecman phá lên cười.
– Có thể tao sẽ trở về là lính tình nguyện, ai biết được?
– Phải, ai biết được? Có gì mà mày không dám làm? Mồm mày còn nói xoen xoét. Nhưng ai biết được đầu mày nghĩ gì?
Daoê cầm cây thập tự lên. Một đầu dài đã được vót nhọn. Y cắm đầu đó xuống đất mềm và lấy đốc xẻng đập mạnh vào đầu trên.
– Cậu thấy chưa, thế này là vững được ba ngày đấy, y nói với Gơrebê.Nhưng chắc không hơn đâu.
– Thế đủ rồi, Immecman nói. Tao khuyên mày điều này, Daoê nhé. Ba ngày nữa, tuyết tan, mày có thể ra nghĩa địa kiếm một cây thập tự bằng đá mang về thay cho cây này. Như vậy, cái tâm lý hèn hạ của mày sẽ không dày vò mày nữa.
– Một cây thập tự Nga à?
– Thì đã sao. Chúa là người quốc tế. Trừ khi ông ta nhập quốc tịch Đức lúc nào không biết.
Daoê quay lưng lại hắn.
– Ông tướng nói giỡn hả! Mày cũng là thằng hề quốc tế đấy!
– Đúng. Nhưng xưa nay tao không như thế đâu. Tao mới đổi tính thành thế này, Daoê ạ. Trước kia tao khác cơ. Còn điều gợi ý về cây thập tự là của mày đấy chứ. Hôm qua mày đã nói rồi mà.
– Hôm qua! Lúc đó tao tưởng Raikê là lính Nga, mày chỉ được cái xuyên tạc.
Gơrebê cầm xẻng lên và nói:
– Tớ về đây, chúng ta làm xong hết rồi phải không nào?
– Phải, anh chàng được đi phép ạ, Immecman đáp, mày cẩn thận lắm. Chúng ta làm xong cả rồi.
Gơrebê không nói gì thêm. Những cuộc cãi vã như thế này chẳng có gì mới lạ. Anh bước xuống gò.
Đơn vị đóng quân trong một hầm nhà, ánh sáng từ một cái cửa nhỏ phía trên trần chiếu xuống. Dưới cái cửa đó, bốn người đang ngồi đánh bài trên một tấm phản. Hai người nằm ngủ trong một góc. Daoê đang viết thư. Căn hầm rộng mà có phần khô ráo, chắc trước kia là của một nhân vật quan trọng trong Đảng.
Staibrennơ bước vào, hỏi:
– Các cậu đã nghe tin cuối cùng chưa?
– Rađiô hư rồi.
– Sao vậy? Nó vẫn được bảo quản cẩn thận mà.
– Mày sửa lại đi, Immecman nói. Người bảo quản nó đã lãng trí hai tuần nay rồi.
– Nó bị làm sao?
– Hết pin - Becninh nói.
– Hết pin à?
– Phải, Immecman nhăn nhở cười. Nhưng có lẽ nó còn chạy được nếu mày cắm dây điện vào lỗ mũi mày - đầu mày lúc nào cũng có điện mà. Hãy thử xem.
Staibrennơ vuốt tóc.
– Những đứa không chịu giữ mồm giữ miệng thế nào cũng có lúc vạ vào thân mới biết.
– Đừng nói úp mở thế, Mắc, Immecman, bình tĩnh trả lời. Mày đã đi báo cáo về tao nhiều lần rồi. Ai cũng biết vậy. Mày là thằng sỏ lá. Nói thế cũng không oan cho mày đâu. Đáng tiếc tao lại là thợ máy khá, lại là xạ thủ súng máy cũng cừ. Khả năng của tao lúc mày cần hơn thứ mày có. Do đó mày không gặp vận may. Tao hỏi thật, mày bao nhiêu tuổi?
– Câm mồm đi.
– Gần hai mươi chưa? Hay đúng mười chín! Mới từng ấy tuổi, mày đã làm ăn được khá đấy. Mày đã săn đuổi bọn Do Thái và bọn phản bội được năm, sáu năm rồi. Khá lắm. Hồi tao mới hai mươi tuổi, tao chỉ săn gái thôi.
– Trông mày thì biết.
– Phải, Immecman đáp lại, trông thì biết.
Muychkê hiện ra ở khung cửa. Y hỏi.
– Có chuyện gì vậy?
Không ai trả lời. Muychkê làm mọi người khó chịu.
– Tôi hỏi có chuyện gì vậy?
– Không có gi đâu, Bécninh ở gần hắn nói. Bọn chúng tán chuyện thôi.
Muychkê nhìn Staibrennơ và hỏi:
– Có gì xảy ra thế?
– Bản tin cuối cùng đã có. Staibrennơ đứng dậy và nhìn xung quanh.
Không ai chú ý. Chỉ có Gơrebê ra vẻ nghe. Mẩy người đánh bài vẫn thản nhiên chơi, Daoê cắm cúi viết. Những người đang ngủ tiếp tục ngáy.
– Điếc cả đấy à! Muychkê quát. Bản tin mới nhất đây. Phải chú ý nghe. Đây là điều lệnh.
– Xin tuân lệnh, Immecman nói.
Muychkê nhìn y. Immecman làm như chú ý nhưng không lộ vẻ gì. Những người chơi bạc úp nguyên bài xuống tấm phản. Họ không chịu xoá bài. Chỉ cần một giây là họ có thể chơi tiếp tục được. Daoê hơi nhỏm dậy trên lá thư viết dở của mình.
Staibrennơ ưỡn ngực đứng nghiêm.
– Tin quan trọng! Phát trong bản tin “Giờ của Tổ quốc”. Nhiều cuộc đình công lớn đã nổ ra ở Mỹ.
Ngành kỹ nghệ thép bị đình trệ hoàn toàn. Việc tiếp tế đạn dược hầu như bị bế tắc. Nhiều vụ phá hoại đã xảy ra tại các xưởng chế tạo máy bay. Đã có những cuộc biểu tình ở khắp nơi để đòi hòa bình ngay tức khắc. Chính phủ đã bị lung lay và có thể bị lật đổ bất cứ lúc nào.”
Nó ngừng lại. Không ai nói gì. Những người ngủ nhỏm dậy gãi sồn sột. Tuyết tan nhỏ giọt từ cửa hầm cuống một cái thùng để ở dưới. Muychkê thở ầm ĩ.
– Tàu ngầm của chúng ta phong tỏa hoàn toàn các bờ biển nước Mỹ. Hai tàu lớn chở binh lính và ba tàu nhỏ chở khí giới đã bị đánh chifm hôm qua. Nước Anh bị tàn phá đã lâm vào cảnh đói khát. Những đội tàu xung kích của chúng ta đã cắt đứt đường vận chuyển bằng tàu của địch ở khắp mọi nơi. Các cũ khí mới, bí mật đang được cải tiến. Chúng ta hiện có những máy bay ném bom có thể bay tới Mỹ rồi trở về mà không cần hạ cánh. Bờ biển Đại Tây Dương của chúng ta là một pháo đài khổng lồ. Địch đổ bộ, chúng sẽ bị đẩy lui ra biển như chúng ta đã đuổi chúng trước đây, năm 1940. Hitle muôn năm!
– Hitle muôn năm! Khoảng nửa trung đội dửng dưng nhắc lại.
Những người đánh bài lại cầm bài lên ngay. Một nắm tuyết tan rơi tõm vào cái thùng làm văng nước ra ngoài.
– Tôi hy vọng chúng ta được ở trong một cái hầm tốt, Snaiđê, một người vạm vỡ, có bộ râu ngắn, đỏ, lầu bầu.
– Đảng viên Saibrennơ, Immecman hỏi, cậu có tin gì về nước Nga không?
– Sao?
– Bởi vì chúng ta đang ở đây. Có vài anh em quan tâm đến vấn đề này. Anh bạn Gơrebê sắp được đi phép chẳng hạn.
Staibrennơ lúng túng. Nó không tin Immecman, nhưng lòng trung thành với Đảng đã thắng thế. Nó loan tinh; “Việc rút ngắn chiến tuyến đã gần hoàn thành. Bọn Nga đã bị kiệt sức vì những tổn thất khổng lồ của chúng. Những vị trí mới được tăng cường để phản công, đã được chuẩn bị. Việc bố trí chiến lược cho lực lượng dự bị của chúng ta đã được hoàn tất. Cuộc phản công bằng vũ khí mới của chúng ta sẽ không sao chống đỡ nổi.”
Nó giơ tay lên nửa chừng rồi để rơi xuống mà không hô “Hitle muôn năm” một lần nữa. Đã từ lâu nước Nga và Hitle không cùng hòa được với nhau. Càng ngày càng khó nói bất cứ điều gì về vấn đề này, mọi người đã thấy tận mắt những việc gì đã diễn ra ở đây. Đột nhiên Staibrennơ giống như một thí sinh loạn trí đang cố gắng một cách tuyệt vọng, chữa lại bài thi của mình một lần cuối. “Tất nhiên không phải chỉ có thể - nó nói - Những tin quan trọng nhất phải giữ tuyệt đối bí mật. Lúc này chưa thể thông báo cho toàn dân chúng biết được. Nhưng có điều hoàn toàn chắc chắn, chúng ta sẽ tiêu diệt địch trong năm nay”. Nó ngập ngừng một chút rồi quay đi, bước ra phái cửa, theo sau là Muychkê.
– Đồ liếm gót, một người ngủ lầu bầu, rồi quay mặt vào tường và ngáy.
Những người đánh bài lại bắt đầu chơi tiếp.
– Tiêu diệt, Snaiđê nói. Chúng ta tiêu diệt chúng mỗi năm hai lần. Y nhìn vào bài. Tớ đánh hai mươi đồng vào đây nhé!
– Người Nga vốn có sẵn máu phản bội trong người, Immecman nói. Trong chiến tranh với Phần Lan họ cố tình làm ra vẻ yếu. Đúng là cái mưu kế thấp kém của bọn bônsevích.
Daoê ngẩng đầu lên:
– Mày không để chúng tao được yên thân à? Có phải mày biết hết mọi chuyện của Cộng sản không?
– Tất nhiên - Họ đã có lần là đồng minh với chúng ta mà. Ngoài ra, chính thống chế Gơrinh[15] của chúng ta đã nói về thủ đoạn của người Nga ở Phần Lan đấy. Ai có ý kiến khác?
– Chúng mày có thôi cãi vã không, đồ con nít! Có người ở gần tường nói. Hôm nay không biết chúng mày làm sao vậy?
Tất cả nín lặng. Chỉ thấy tiếng những quân bài đập xuống mặt phản và tiếng nước nhỏ giọt. Gơrebê biết rõ điều gì đã xảy ra. Thông thường, cứ sau mỗi lần xử bắn hay chôn người chết là thế nào cũng có chuyện như vậy xảy ra.
Hồi chiều, nhiều đoàn thương binh được đưa tới. Một số được chuyển đi ngay. Họ đến từ vùng đồng bằng mờ nhạt với những vết thương rỉ máy đã được băng bó, để lại đi tiếp về phía chân trời ảm đảm bên kia. Hình như không bao giờ họ tìm ra được một bệnh viện và sẽ mất hút ở một nơi nào đó trong khoảng mênh mông u ám. Đa số im lặng. Tất cả đều đói.
Người ta đã cấp tốc tổ chức trong nhà thờ một bệnh viện dã chiến cho những thương binh còn lại, những người không đi xa hơn được và những người phải ở lại vì không đủ xe cứu thương. Trần nhà bị thủng đã được che bằng vải và một bác sĩ đã mệt lả cùng hai y tá đã bắt đầu làm việc ở đó. Cửa được để mở khi trời còn sáng và người ta khiêng cáng ra vào. Ánh đèn trắng chiếu xuống bàn mổ trông giống một căn lều sáng trong khoảng bóng tối vàng mờ của gian phòng. Hai bức tượng đã gãy nằm một xó. Tượng Đức bà Maria giang hai cánh tay đã mất bàn tay, còn tượng Chúa thì mất một chân, trông như người ta đóng đinh một người cụt chân lên cây thập tự. Những người bị thương không la hét mấy. Bác sĩ còn thuốc tê. Nước réo sôi trong các ấm và chậu. Chân tay bị cưa được chất đống, đã gần đầy chiếc bồn tắm lấy từ nhà viên đại úy ra. Một con chó không biết từ đâu đến, ngồi bên cạnh cửa ra vào. Bị đuổi, nó vẫn không chịu đi.
– Chó ở đâu đến thế? Gơrebê hỏi.
Anh đứng cùng Phrêdenbua gần căn nhà của cha cố từ thời Nga hoàng.
Phrêdenbua nhìn con vật có bộ lông xù đang run rẩy và vươn dài cổ. Y nói:
– Chắc ở trong rừng ra.
– Nó kiếm gì trong rừng nhỉ? Ở đấy, có gì cho nó ăn đâu?
– Có chứ. Nhiều là khác. Không phải chỉ có ở rừng. Mà chỗ nào cũng có.
Hai người đi cạnh nhau. Con chó quay đầu thận trọng nhìn Phrêdenbua, như sắp chạy. Hai người lại đứng yên.
Con chó cao và thon, lông màu xám hơi hung đỏ, đầu dài và hẹp.
– Không phải chó tồi trong làng đâu, Phrêdenbua nói. Con này là chó tốt đấy.
Y tặc lưỡi suỵt. Con chó vểnh tai. Phrêdenbua lại suỵt và nói với nó.
– Cậu có nghĩ là nó đến kiếm ăn không? Gơrebê hỏi.
Phrêdenbua lắc đầu.
– Quanh đây, có nhiều thức ăn. Nó đến đây không phải vì cái đó. Ở đây có đèn sáng, có nhà. Ở đây lại có người. Tớ cho là nó đến đây để tìm một nơi đông đúc.
Một cái cáng được đưa ra ngoài. Trên cáng là một người đã chết trên bàn mổ. Con chó nhảy ra xa. Nó nhảy nhẹ nhàng như có sợ dây chun kéo. Rồi nó lại đứng yên và nhìn Phrêdenbua. Y nói với nó và bước chậm về phía nó. Nó lại thận trong lùi bước nữa rồi dừng lại nhìn thẳng vào y, và khẽ vẫy đuôi một lát.
– Nó sợ. Gơrebê nói.
– Tất nhiên là nó sợ. Nhưng chó tốt đấy.
– Lại ăn thịt người nữa.
Phrêdenbua quay lại nói:
– Thì chúng ta cũng đều thế cả.
– Sao?
– Chúng ta đều thế cả. Cũng như con chó này, chúng ta nghĩ rằng mình vẫn tốt. Và cũng như nó, chúng ta đi tìm một chút hơi ấm, ánh sáng và tình bạn.
Phrêdenbua mỉm cười với nửa mặt của y. Nửa mặt kia bị một cái sẹo lớn làm cho gần như bất động, trông như đã bị chết và Gơrebê luôn luôn ngạc nhiên khi thấy nụ cười bị chết ở cái giới hạn ngăn cách trên mặt y. Trông không có vẻ là một sự rủi ro.
– Chứng ta không khác bất cứ người nào. Đó là do chiến tranh, có thế thôi.
Phrêdenbua lắc đầu và dùng đầu cây gậy chống đập nhẹ vào đôi ghệt của mình cho rơi tuyết.
– Không Ernest. Chúng ta đã đánh mất hết các tiêu chuẩn của chúng ta rồi. Đã mười năm nay, chúng ta bị cô lập - cô lập trong thái độ kiêu căng, ghê tởm, vô nhân đạo và lố bịch, thấu đến tận trời. Người ta dạy chúng ta rằng, chúng ta là một dân tộc - làm thầy[16], còn các dân tộc khác phải phục vụ chúng ta như nô lệ - Y cười chua chát - Dân tộc - làm thầy mà đi phục tùng từng mệnh lệnh, từng tên bịp bợm bất tài - điều đó có liên quan gì đến dân tộc - làm thầy này. Đó là câu trả lời tại đây. Và dĩ nhiên, những kẻ ngây thơ bị tổn thương mạnh hơn những tên có tội.
Gơrebê nhìn y. Phrêdenbua là người duy nhất ở đây mà anh tin tưởng hoàn toàn. Hai người cùng ở một thành phố và quen biết nhau từ lâu. Anh nói:
– Cậu đã biết tất cả những điều đó, sao cậu lại ở đây?
– Sao tới lại ở đây à? Để khỏi phải vào trại tập trung hay bị xử bắn vì không chịu đi phục vụ chứ sao?
– Tớ không muốn nói thế. Cậu đã quá tuổi bị động viên vào đợt 1939 mà? Sao cậu lại tình nguyện đi?
– Lúc đó quá tuổi thật. Nhưng từ lúc đó, mọi việc đã thay đổi. Bây giờ người ta gọi cả những lớp già hơn như tớ. Nhưng đấy không phải là vấn đề, và cũng không có gì để bào chữa cả. Sự có mặt ở đây không giải quyết được gì hết. Người ta chỉ tìm lý lẽ để tự thuyết phục mình thôi. Người ta viện lý do không muốn bỏ mặc tổ quốc đang lâm nguy, trong thời chiến, bất kể vì lý do gì. Lý do ấy cũng giống cái lý do dễ dãi hơn là ra đi để ngăn chặn không cho sự việc trở nên tồi tệ hơn. Đấy lại là một lời bào chữa khác. Để thuyết phục chính mình. Không có gì hơn.
Y quật mạnh cái roi vào tuyết. Con chó lặng lẽ nhảy xa về phía sau nhà thờ.
– Chúng ta đã thử thách cả Chúa. Ernest. Cậu có hiểu thế không?
– Không. Gơrebê đáp lại. Anh không muốn hiểu.
Phrêdenbua nín lặng một lát:
– Cậu không thể hiểu được, y nói tiếp vẻ bình tĩnh hơn. Cậu còn trẻ quá. Cậu không biết gì ngoài cái trò điên cuồng nhảy múa tập thể[17] và chiến tranh. Nhưng tới đã trải qua cuộc chiến tranh trước. Và tớ cũng biết cái thời gian giữa hai cuộc chiến tranh.
Y lại cười, nửa mặt y cười, nửa kia vẫn cứng đơ. Nụ cười như một ngọn sóng mệt mỏi dân lên nhưng không vượt qua được sang phía bên kia.
– Tớ mơ ước trở thành một ca sĩ opera, y nói. Một ca sĩ với cái đầu trống rỗng và giọng hát có sức thuyết phục. Hoặc trở thành một người già, hay một đứa trẻ. Không, không là một đứa trẻ. Bởi vì còn những gì sắp tới. Chúng ta thua trận rồi. Ít ra cậu cũng biết điều đó chứ, phải không?
– Phải.
– Không một viên tướng nào có tinh thần trách nhiệm mà không ngưng chiến từ lâu rồi. Chúng ta chiến đấu ở đây không vì cái gì hết, y nhắc lại. Không vì cái gì hết. Không vì cả những điều kiện có thể chịu đựng trong một cuộc đầu hàng.
Y chỉ tay về phía chân trời tăm tối:
– Không ai muốn điều đình với chúng ta đâu. Chúng ta đã hành động như Atila hay Thành Cát Tư Hãn[18]. Chúng ta đã vi phạm mọi hiệp định, mọi luật pháp của loài người. Chúng ta đã...
– Đấy là do bọn SS làm chứ, Gơrebê nói, vẻ tuyệt vọng. anh đến gặp Phrêdenbua để tránh Immecman, Daoê và Staibrennơ. Anh muốn cùng Phrêdenbua nói về cái thành phố thanh bình cổ kính bên bờ sông; về những con đường hai bên có những hàng cây và về thời xa xưa. Nhưng bây giờ lại tồi tệ hơn trước. Những ngày này, chỉ có những điều rủi đến với anh. Anh không trông đợi sự giúp đỡ của bất cứ ai, nhưng anh muốn sự giúp đỡ của Phrêdenbua, anh đã mất liên lạc với y một thời gian dài trong cảnh rút lui hỗn độn. Và bây giờ chính y đã nói với anh những điều mà anh không muốn chấp nhận, những điều mà anh sợ nghe hơn bất cứ điều nào.
Phrêdenbua nói vẻ khinh bỉ:
– Chúng ta còn chiến đấu là để bọn SS, bọn Ghextapô, bọn nói dối, bọn lừa đảo, bọn cuồng tín, bọn giết người và bọn mất trí, chỉ để bọn đó được cầm quyền thêm một năm nữa. Chỉ có thế và không có gì khác. Chúng ta đã thua trận từ lâu rồi.
Trời đã tối, các cửa nhà thờ đã đóng kín, không một tia sáng lọt ra ngoài. Có những bóng người lấy vải treo lên các cửa sổ để che kín ánh đèn. Cửa vào các hầm trú ẩn cũng được che kín. Phrêdenbua đưa mắt nhìn quanh một lượt.
– Chuộc chũi, chúng ta đã trở thành chuột chũi, y nói, cả linh hồn đáng nguyền rủa của chúng ta cũng vậy. Chúng ta đã có những tiến bộ rực rỡ như thế đấy.
Gơrebê rút ở trong túi ra một bao thuốc lá đã bóc và đưa cho y. Phrêdenbua xua tay:
– Cậu hút đi. Hay cứ giữ lấy. Tớ có đủ thuốc rồi.
– Cầm lấy một điếu vậy. Gơrebê hất đầu nói.
Phrêdenbua thoáng mỉm cười, cầm một điếu thuốc và hỏi:
– Bao giờ cậu đi?
–Tớ không biết. Giấy phép cũng chưa tới mà.
Gơrebê hút một hơi dài cho thấm sâu tận lồng ngực rồi thở khói ra xa, hút thuốc lá thật là tốt. Đôi khi chúng làm ấm lòng hơn là bạn. Những điếu thuốc không gây xáo trộn, chúng dễ chịu và câm lặng.
– Mình không biết nữa, anh nhắc lại. Đã từ lâu, mình không biết thêm gì hết. Trước kia, mọi việc đều rõ ràng, bây giờ cái gì cũng rối rắm. Mình muốn nằm ngủ và khi tỉnh giấc thấy mình ở một thời kỳ khác. Nhưng mọi việc có dễ dàng như vậy đâu. Mình bắt đầu suy nghĩ thì đã muộn quá. Mình cũng không tự hào về điều đó.
Phrêdenbua đưa tay lên xoa vết sẹo trên mặt y.
– Đừng để tâm đến những điều đó. Đã mười năm nay, người ta đã làm chúng ta đinh tai nhức óc với những lời tuyên truyền, thật khó mà nghe những gì khác được. Đặc biệt là những tiếng không la lối om sòm. Như tiếng nói của hoài nghi và lương tâm. Cậu có biết Pônman không?
– Ông ta là giáo sư dạy sử và tôn giáo của tớ đấy, anh nói.
– Khi nào về phép đến thăm thầy nhé. Có lẽ thầy còn sống. Cho tớ gửi lời hỏi thăm thầy.
– Tại sao thầy lại không còn sống. Thầy không phải đi lính mà.
– Không.
– Thế thì chắc chắn thầy còn sống. Thầy chưa ngoài sáu mươi lăm tuổi.
– Cho tớ gửi lời hỏi thăm thầy.
– Được.
– Tớ phải đi đây. Cậu chú ý giữ mình cẩn thận. Không chắc chúng ta có gặp lại nhau được nữa đâu.
– Cho đến khi tớ trở về thì không gặp được thật. Cũng không lâu đâu. Chỉ ba tuần thôi.
– Tất nhiên rồi. Thôi chú ý giữ mình nhé!
– Cả cậu cũng vậy.
Phrêdenbua dẫm trên tuyết trở về đơn vị đóng tại khu nhà đổ ở làng bên. Gơrebê nhìn theo cho đến khi y biến vào bóng tối mới quay lại. Anh thấy bóng đen của con chó ở trước cửa nhà thờ, Cửa nhà thờ mở và một vệt sáng nhỏ lóe lên trong chốc lát. Vải bạt được căng trước cửa ra vào. Tia sáng ngắn ngủi như nắng ấm và nó có thể làm người ta cảm thấy như ở nhà nếu không để ý đến nguyên nhân vì sao tia sáng ấy lại ở đây. Anh lại gần con chó. Nó nhảy ra xa và Gơrebê thấy hai bức tượng vỡ nằm trên tuyết bên ngoài nhà thờ cạnh chiếc xe đạp gẫy. Chúng bị đưa ra ngoài vì người ta cần thêm chỗ.
Anh đi về phía hầm, nơi đơn vị anh trú quân. Ánh hoàng hôn leo lét chiếu xuống cảnh hoang tàn. Bên cạnh nhà thờ là những người chết. Người ta lại tìm thấy ba xác chết từ hồi tháng mười, trong đống tuyết tan. Xác mềm nhũn và như đã gần thành đất. Cạnh đó là những người mới chết hồi chiều trong nhà thờ. Những xác đó tái nhợt, thù địch, xa lạ, và dường như chưa an phận.
[15] Bộ trưởng không quân của phát xít Đức, một trong những chiến hữu từ những ngày đầu của Hitle, sau đã phản lại. Khi bị bắt và đem ra xử tại tòa án chiến tranh Nurembe, Gơrinh đã tự tử chết.
[16] Nguyên văn tiếng Đức: Herr: ông thầy (maitre); volk: dân tộc, nhân dân.
[17] Nguyên văn: Trò điên cuồng nhảy múa như khỉ (ý nói sự a dua bắt chước rởm như loài khỉ).
[18] Tên những vua Mông Cổ đã từng đem quânđi xâm chiếm chinh phục nhiều nước trên thế giới và những năm thuộc thế kỷ 5 và thế kỷ 12 Công nguyên. Atila đã đem quân đánh chiếm ở châu Âu qua nước Nga đến tận xứ Gôn (nước Pháp cũ), Ý (đến tận thủ đô Roma). Thành Cát Tư Hãn (Gangis Khan) đã xâm chiếm miền Bắc lục địa Trung Hoa và Afganistan vào những năm 1215, Gengis Khan đã thành lập đế quốc Mông Cổ đầu tiên. Cả hai nổi tiếng về tàn ác dã man và đã có câu: “Quân của Gengis Khan đi đến đâu, cỏ không mọc được nữa”.