Chương 4
Họ choàng dậy. Hầm rung chuyển. Tai họ ù lên. Vữa và gạch vụn rơi như mưa. Súng phòng không phía sau làng bắn dữ dội.
– Ra hết ngoài kia! Một lính mới kêu.
– Im ngay! Không được thắp đèn.
– Chuồn ngay khỏi cái bẫy chuột này thôi!
– Đồ ngốc! Mày còn muốn đi đâu nữa! Câm đi! Trời ơi! Chúng mày là lính mới cả đấy à?
Một tiếng nổ vang trời làm chấn động cả hầm. Có vật gì đó đổ sập trong bóng tối. Gạch đá và những mảnh gỗ kêu răng rắc trên đầu. Những ánh lửa mờ nhạt nhảy múa trước lỗ hổng trên nóc hầm.
– Có đứa bị kẹt dưới tường rồi!
– Câm mồm! Đó chỉ là góc tường thôi.
– Ra ngay, không bị chôn sống mất thôi.
Những bóng người hiện lên trong khung cửa mở.
– Đồ ngu! Có tiếng người rủa. Ở đây ít ra cũng tránh được mảnh bom.
Nhưng không ai nghe ai. Cái hầm này đã bị rung chuyển vì bom đến hai mươi lần rồi, không làm ai tin tưởng nữa. Họ nói đúng, những người ở lại nói cũng đúng không kém. Đây chỉ là vấn đề may rủi. Cũng có thể bị chết bẹp hay chết vì mảnh bom.
Họ chờ đợi. Ruột gan họ thắt lại, họ nín thở. Họ đợi tiếng nổ kế tiếp. Chắc không lâu nữa. Họ đợi mãi vẫn không thấy gì. Một tiếng nổ xa xa cho họ biết mối nguy đã xa dần.
– Trời ơi! Có tiếng người thét lên, không biết máy bay khu trục của chúng ta làm gì vậy?
– Chúng bay sang bên Anh rồi.
– Câm mồm lại! Muychkê quát.
– Chúng nó ở Stalingrát! Immecman nói.
Giữa hai loại súng phòng không, có tiếng máy bay ù ù.
– Chúng nó đây rồi, Staibrennơ đắc chí nói. Máy bay của ta đấy.
Tất cả lắng nghe. Bỗng nhiên có ba tiếng nổ mỗi lần một lớn dần. Chắc bom đã rơi ngay sau làng. Một ánh chớp xanh nhợt ào vào hầm. Đồng thời, một chùm ánh sáng trắng, đỏ và xanh lè tràn ngập cả khoảng không chật hẹp. Đất bốc lên giữa những tiếng kêu răng rắc và những tia chớp dồn dập như bão, khi bóng tối trở lại thì có tiếng sập đổ ầm ầm và những tiếng kêu ở phía ngoài lọt vào. Gơrebê đã thoát ra khỏi đống gạch vụn phủ lên người anh. Anh nghĩ, nhà thờ bị rồi, và anh cảm thấy vô cùng trống rỗng, hình như anh chỉ còn là một cái túi da mềm nhũn, bẹp nát, ở trong có gì đã bị tống ra hết. Cửa hầm đã mở rộng. Mắt bị lóa vì ánh chớp và bóng tối dầy đặc tiếp theo và vật đầu tiên mọi người nhìn thấy được là cái khung cửa màu xám hình chữ nhật. Gơrebê gắng sức để thoát ra ngoài. Anh không bị thương.
– Mẹ cha nó chứ! Daoê nói ở gần anh. Không xa đâu. Tớ đoán cả cái hầm bên cạnh cũng sập rồi.
Họ lần lượt chui ra. Tiếng nổ ầm ầm lại bắt đầu vang lên xa hơn một chút. Trong khoảng cách ngắn ngủi giữa hai đợt tiếng nổ, người ta nghe thấy tiếng Muychkê quát tháo ra lệnh. Gã bị một viên gạch văng trúng trán. Máu chảy trên mặt gã.
– Ra hết ngoài! Dọn dẹp đi! Còn thiếu ai không?
Không ai trả lời. Câu hỏi thật ngớ ngẩn. Gơrebê và Daoê bắt đầu chuyển đá và gạch vụn. Cả hai làm chậm chạp, luôn phải dừng lại vì gặp những tảng bê tông và những thanh sắt cong queo. Họ như không trông thấy gì dưới bầy trời mờ nhạt và ánh những đám cháy lập lòe.
Gơrebê bỏ việc thu dọn mò mẫm để đi dọc theo bờ tường trong gian hầm đổ này. Thỉnh thoảng, anh dán tai vào tường, tay sờ soạng mặt tường nứt nẻ. Anh hết sức chú ý lắng nghe để cố phân biệt tiếng gọi hay tiếng rên rỉ đồng thời anh cũng tìm lối vào hầm. Cần nhất là không được chậm trễ chút nào nếu có người bị vùi trong hầm.
Bỗng nhiên anh rờ được một bàn tay đang cựa quậy.
– Có người đây rồi! Anh kêu lên.
Anh cuống cuồng đào để tìm cái đầu. Không thấy gì, anh lắc mạnh bàn tay đang cựa quậy.
– Cậu ở đâu thế? Nói đi! Đánh tiếng lên nào! Cậu ở đâu?
– Ở đây! Người bị vùi thầm thì ngay bên tai anh. Đừng bỏ tôi bị mắc kẹt đấy.
Bàn tay vẫn cựa quậy. Gơrebê hất đống gạch vụn và thấy khuôn mặt. Anh đụng phải cái mồm.
– Lại giúp một tay nào! Anh gọi. Có người bị nạn đây.
Chỉ vài người có chỗ đứng để đào bên anh. Gơrebê nghe thấy tiếng Staibrennơ nói.
– Lui ra! Người ta sắp phá mảnh tường phía bên kia đó.
Gơrebê nép sát tường để mọi người đi qua. Rồi anh lại hấp tấp đào tiếp.
– Ai đấy? Daoê hỏi.
– Không biết.
Gơrebê cúi xuống cái khối lờ mờ.
– Cậu là ai vậy?
Một tiếng lầm bầm không rõ tiếng gì đáp lại anh. Anh nghe thấy phía bên kia tường, tiếng người chuyền những khối gạch lớn.
– Nó còn sống không? Staibrennơ hỏi.
Gơrebê sờ bộ mặt đầy vôi vữa. Không thấy động đậy.
– Không biết nữa. Mới cách đây vài phút thấy hãy còn sống.
Tiếng ồn ào lại nổi lên. Gơrebê ghé sát khuôn mặt.
– Sắp gỡ được cậu ra rồi. Anh nói to. Cậu có nghe thấy tớ nói không?
Anh cảm thấy như có một luồng hơi thoáng qua mà anh không chắc lắm. Anh chỉ nghe rõ Staibrennơ, Daoê và Snâyđe thở hổn hển.
– Hắn không trả lời nữa.
Xẻng của Daoê vướng phải một vật bằng kim khí.
– Không thể đào được nữa! Đụng phải cốt tường rồi. Phải thắp đèn và có mỏ hàn mới được.
– Không được thắp đèn. Muychkê gầm lên. Tao sẽ bắn ngay đứa nào thắp một cái gì.
Ai cũng biết rằng nhen một chút lửa trong một trận bom có nghĩa là tự vẫn.
– Thằng ngu! Snâyđe rủa. Lúc nào nó cũng phải làm ra vẻ khôn ngoan.
– Không thể làm gì được nữa. Chỉ có cách đợi trời sáng.
– Đúng.
Gơrebê ngồi xổm gần chân tường. Anh ngước mắt nhìn trời đang trút một dòng thác tàn khốc xuống mặt đất. Anh không thấy gì nhưng tiếng động ầm ĩ và sin sít của cái chết vẫn lẩn quất quanh đấy. Trận ném bom này không có gì lạ. Anh từng biết những phút chờ đợi hãi hùng hơn.
Anh khẽ đưa tay lên mặt người lạ. Bây giờ bộ mặt đã sạch hết bùn và vừa. Ngón tay Gơrebê sờ thấy gặp một. Rồi đến răng. Hàm răng hơi cắn vào đầu ngón tay anh. Một cơn co giật mạnh hơn rồi hàm răng nới lỏng.
– Hắn còn sống, anh nói.
– Nói với cậu ta là đã có hai người đi lấy dụng cụ.
Gơrebê lại sờ đôi môi. Môi không động đậy nữa. Anh với lấy bàn tay đã thò ra ngoài đống gạch đổ và nắm chặt lấy nó. Anh chỉ có thể làm được như vậy. Anh cứ chờ như thế cho đến lúc hết báo động.
Người ta mang dụng cụ đến và gỡ được người bị kẹt ra. Đó là Lamme, một con người bé nhỏ, đeo kính. Cái kính còn nguyên vẹn bắn ra cách đấy mấy mét. Nhưng Lamme đã chết.
Gơrebê cùng gác với Snâyđe. Không khí đầy khói và sặc mùi diêm sinh. Cả một chái nhà thờ bị đổ. Ngôi nhà của đại úy Rahê cũng không còn nữa. Có lúc Gơrebê tự hỏi, không biết Rahê có bị chết không, nhưng anh lại thấy ngay bóng dáng mảnh khảnh của ông ta sau nhà thờ. Ông ta kiểm tra việc hốt gạch đá và khiêng người bị thương đi. Một số thương binh đã chết.Những người chết và những người thoát chết được bọc trong chăn và sắp thành hàng trên sân trước nhà thờ. Những người sống sót không còn rên la. Họ mở to mắt, sợ hãi nhìn chăm chăm lên trời.
Gơrebê đi quanh nhiều hố bom mới. Chúng đã có mùi và tạo thành những vết đen xì trên tuyết, trông như không có đáy. Trên gò có những lỗ huyệt mới đào hôm qua, có một cái hố nhỏ hơn.
– Có thể làm huyệt được đấy, Snâyđe nói. Còn biết bao nhiêu người chết phải chôn đây này.
Gơrebê lắc đầu.
– Cậu định lấy đất ở đâu để lấp hố?
– Lấy ở quanh miệng hố chứ sao.
– Không được. Như vậy mả sẽ thấp hơn chỗ đất xung quanh. Cứ đào huyện mới là hơn.
Snâyđe vuốt bộ râu đỏ.
– Tại sao mả lại cứ phải cao hơn mặt đất xung quanh nhỉ?
– Không nhất thiết như vậy, nhưng người ta quen thế rồi.
Họ tiếp tục đi. Gơrebê để ý thấy cây thập tự của Raikê đã biến mất. Chắc hơi bom đã văng nó đi xa.
Snâyđe dừng lại lắng tai nghe.
– Cậu nghe thấy không? Thế là phèo đi phép nhé!
Cả hai căng tai. Mặt trận vừa chuyển dậy. Hỏa pháo và đạn sáng treo lơ lửng trên không. Hỏa lực pháo binh bắn mạnh và đều hơn. Có tiếng súng cối nổ ran.
– Pháo bắn liên tục. Snâyđe nói. Như vậy là chúng ta sẽ lên tiền tuyến. Vĩnh biệt đi phép nhé?
– Ừ!
Snâyđe nói đúng. Những tiếng họ nghe được không giống tiếng một cuộc chiến đấu nhỏ. Pháo đã bắt đầu bắn chuẩn bị trên quy mô lớn. Có lẽ ngày mai sẽ tổng tấn công. Ban đêm trời có sương mù. Quân Nga chắc lợi dụng bức màn sương để tấn công, như hai tuần trước đây, lần mà đại đội bị mất bốn mươi hai người.
Việc đi phép sẽ bị đình lại. Thật ra, Gơrebê không mong được đi phép lắm. Anh cũng không viết thư báo cho bố mẹ biết. Từ ngày vào lính, anh mới gặp lại bố mẹ có hai lần, và lần đi phép sau cùng, xa xôi đến nỗi anh tưởng việc đó không có thật, đã gần hai năm rồi. Hai năm bằng hai mươi năm. Không tính được thời gian nữa. Anh không thất vọng, chỉ cảm thấy vô cùng trống rỗng.
– Cậu đi về phía nào? Anh hỏi Snâyđe.
– Phía nào cũng được. Bên phải nhé.
– Được. Tớ rẽ trái đây.
Sương mù bốc lên và trở thành dày đặc rất nhanh. Họ lội trong đám sương mù đặc quánh xam xám. Gơrebê thấy cái đầu của Snâyđe đi xa dần, bồng bềnh trên một biển bông. Anh định rẽ bên trái để đi một vòng rộng quanh làng. Thình thoảng anh biến trong đám sương và lại xuất hiện và anh trông thấy chuỗi ánh sáng muôn màu của tiền tuyến giáp với lớp sương trắng đục như sữa. Tiếng đạn nổ cứ to dần đều đều.
Anh không biết đã đi được bao lâu, bỗng nghe thấy vài tiếng súng lẻ tẻ. Anh nghĩ, có lẽ lại Snâyđe bắn. Chắc hắn bực dọc trong người nên không chịu nổi. Tiếng súng lại nổ. Anh nghe có những tiếng gọi. Anh cúi người đi về phía trước để lẩn trong sương mù và, súng trong tay, anh đợi. Có người gọi tên anh. Anh trả lời:
– Cậu ở đâu thế?
– Ở đây.
Anh ngẩng đầu lên một lát và nhảy sang bên để đề phòng. Không ai bắn cả. Bây giờ thì tiếng nói như ở rất gần, nhưng thật khó mà ước lượng được xa gần cho đúng, trong sương mù cũng như trong đêm tối. Đột nhiên, Staibrennơ xuất hiện.
– Bọn khốn nạn! Chúng nó hạ Snâyđe rồi. Một viên đạn trúng đầu.
Lại du kích. Họ lợi dụng sương mù để tiến lại gần. Bộ râu đỏ của Snâyđe là mục tiêu tốt. Có lẽ họ định đánh úp đại đội lúc đang ngủ nhưng công việc dọn gạch đã làm họ bị trở ngại. Tuy vậy, họ cũng hạ được Snâyđe.
– Đồ khốn kiếp! Không sao đuổi theo được bọn chúng trong lúc tối mò này.
Đôi mắt của Staibrennơ lóe lên trên khuôn mặt đẫm sương.
– Phải đi hai người, nó nói. Lệnh của Rahê đấy. Mà cũng đừng đi xa.
– Được.
Hai người đi gần nhau để có thể nhận ra nhau, Staibrennơ nhìn kỹ lớp sương mù và tiến thận trọng. Nó là một tên lính giỏi.
– Tao muốn tóm được một thằng du kích quá. Nó lầm bầm. Tao biết trước tao sẽ làm gì nó trong sương mù này. Nhét giẻ vào mồm để không ai nghe tiếng nó kêu, trói chặt chân tay nó lại và lúc đó mới ra tay. Mày có thể tưởng moi mắt ra khỏi tròng mà kéo, sao nó lâu dứt thế. Mày có tin như vậy không?
Nó làm điệu nén chặt một vật gì trong tay.
– Tao biết chứ, Gơrebê nói.
Anh nghĩ đến Snâyđe. Nếu hắn rẽ trái còn mình đi về phía phải thì bây giờ chính mình bị viên đạn vào đầu. Ý nghĩ đó không làm anh xúc động mấy! Thứ may rủi như vậy là chuyện hàng ngày của lính.
Họ cứ tiếp tục đi tuần cho đến lúc được đổi gác. Nhưng cũng không thấy ai. Mặt trận như nhích lại gần. Bây giờ có thể nghe rõ tiếng súng máy nổ giòn tan. Trời sáng dần, trận đánh bắt đầu.
– Gay đấy! Staibrennơ nói. Giá bọn ta ở tuyến đầu nhỉ. Sau những trận đánh lớn, thế nào cũng có thăng cấp. Chỉ vài ngày là có thể thành hạ sĩ rồi.
– Hạ sĩ hay bị xe tăng nghiền nát?
– Chà! Sao tụi bay là lính cũ mà lúc nào cũng bi quan thế? Nghĩ như vậy được gì? Có phải ai cũng chết cả đâu?
– Hẳn rồi, nếu chết hết thì làm gì còn chiến tranh.
Họ lại chui vào hầm. Staibrennơ giở chăn ra và nằm dài trên giường. Gơrebê ngắm nó. Thằng nhóc này mới hai mươi tuổi mà đã giết người nhiều hơn cả mọi số lính cũ gộp lại. Không phải chết ở mặt trận, mà là giết ở hậu phương hay trong các trại tập trung. Đã nhiều lần nó mang việc ấy ra khoe, tự hào là một tay sừng sỏ. Gơrebê cũng lên giường nằm và cố ngủ. Dù không muốn anh cũng cứ phải nghe tiếng súng nổ rền. Staibrennơ thì đã ngủ từ lâu.
Trời rạng dần, u ám và ẩm ướt. Mặt trận rung chuyển dữ dội. Xe tăng đã bắt đầu hoạt động. Ở phía Nam cuộc rút lui đã bắt đầu. Máy bay bay qua ầm ầm. Trên cánh đồng, xe tải chở lính đi ngược chiều với những đoàn xe khác chở thương binh. Đại đội đang chờ lệnh ra mặt trận.
Gơrebê có lệnh của Rahê gọi vào lúc mười giờ. Viên đại úy đã xếp dọn lại chỗ ở. Ông ta ở một góc căn nhà trước mặt chưa bị tàn phá mấy. Nhà nền đất nện. Đồ đạc có một cái ghế chân đã bị roãng, một cái bếp lò to đã rạn nứt, trên xếp chăn mền, một cái giường gấp và một cái bàn làm bếp. Cửa sổ, kính đã được thay bằng những miếng bìa cứng trông thằng ra một hố bom. Trời lạnh. Trên bàn có một cái bếp đun cồn và một ấm cà phê.
– Giấy phép của cậu đã ký rồi, Rahê nói.
Ông ta rót cà phê vào một cái tách mẻ.
– Cậu ngạc nhiên lắm hả?
– Thưa đại úy, vâng.
– Tôi cũng vậy! Lệnh đi đường ở văn phòng. Đến đấy lấy rồi cố mà chuồn cho sớm. Lệnh bãi bỏ việc đi phép có thể tới lúc nào không biết. Cậu đi rồi là xong, phải không?
– Thưa đại úy, vâng.
Rahê như muốn nói gì thêm. Nhưng ông ta thay đổi ý định và đi quanh bàn đến bắt tay Gơrebê.
– Đi cho vui nhé, cố mà thoát khỏi nơi này. Đến lượt cậu từ lâu rồi. Cậu đáng được nghỉ lắm.
Ông ta quay lại, đến bên cửa sổ. Cửa thấp quá, ông ta phải cúi xuống để trông ra ngoài. Gơrebê đi ra để đến văn phòng. Đi ngang qua cửa sổ, anh chỉ thấy huân chương của Rahê. Đầu ông ta bị phía của cửa sổ che khất.
Viên thư ký trao cho anh giấy tờ đi đường đã ký và đóng dấu cẩn thận.
– Bở nhé, y lầu bầu nói. Chưa có vợ phải không?
– Phải, đã hai năm nay, tôi mới được nghỉ phép lần đầu tiên đấy.
– Bở lắm rồi, viên thư ký nhắc lại. Đi phép trong lúc đang gay go thế này kể cũng lạ.
– Tôi có chọn lúc này đâu.
Gơrebê trở về hầm của trung đội mình. Anh không tin là được đi phép nên chưa sửa soạn ba lô. Anh cũng không có gì nhiều để mang theo. Anh thu nhặt đồ đạc thật nhanh. Trong đống quần áo, anh thấy một bức tượng thánh Nga bằng sứ tráng men nhặt được trong làng, anh định mang về tặng mẹ.
Ngước mắt lên, anh thấy Hiếcsưlan đứng trước mặt anh, tay cầm một mảnh giấy.
– Cái gì thế? Gơrebê hỏi, rồi anh nghĩ - Lại lệnh cấm nghỉ phép chắc, cuối cùng mình vẫn cứ bị tóm được.
Hiếcsưlan liếc mắt nhìn quanh để biết chắc chỉ có hai người trong hầm.
– Cậu đi đấy à? Y thầm thì.
– Ừ. Gơrebê thở dài nhẹ nhõm và trả lời.
– Cậu có thể tạt qua nhà mình - địa chỉ đây - nhắn là tớ vẫn khỏe được không?
– Sao vậy? Cậu không viết thư được à?
– Tớ vẫn viết đấy chứ! Viết luôn. Nhưng ở nhà không ai tin. Mẹ tới không tin vào những gì tớ viết. Bà cụ cho rằng mình nói thế vì...
Y ngừng lại rồi đưa tờ giấy cho Gơrebê.
– Đây, địa chỉ đây. Có người gặp tớ kể lại bà cụ mới tin. Bà cho rằng mình không được tự do viết, cậu hiểu chưa?
– Được, tớ hiểu rồi, Gơrebê nói.
Anh cầm mảnh giấy cất vào sổ quân nhân, Hiếcsưlan rút ở túi ra một gói thuốc.
– Này, cầm lấy mà hút khi đi đường.
– Gì vậy?
– Tớ không hút thuốc.
Gơrebê ngước mắt lên. Thật vậy, anh chưa thấy Hiếcsưlan hút thuốc bao giờ. Y chỉ về phía mặt trận.
– Cứ nói là chúng ta đang nghỉ thôi.
– Được rồi. Còn gì nữa không?
– Không. Cảm ơn.
Hiếcsưlan biến đi như cái bóng. Gơrebê tự hỏi, sao lại cảm ơn nhỉ?
Anh kiếm được một chỗ trong xe chở thương binh. Xe chật ních người bị thương, bị sa xuống một hố bom. Người thợ máy bị bắn ra khỏi xe và gẫy tay. Gơrebê lên ngồi chỗ anh ta.
Chiếc xe đi theo con đường được đánh dấu bằng những cây cột và những bó rơm. Họ đi qua làng. Gơrebê thấy đại đội của mình đang xếp hàng trên sân nhà thờ.
– Họ ra mặt trận đấy, người lái xe nói với anh. Ngoài ấy, đánh nhau to. KHông hiểu bọn Nga lấy trọng pháo ở đâu?
– Ừ.
– Lại xe tăng nữa? Không biết cơ man nào mà kể!
– Từ bên Mỹ hay ở Siberi? Hình như chúng có nhiều xí nghiệp ở đấy lắm.
Người lái xe tránh một chiếc xe tải hỏng máy đang phải dừng lại.
– Nước Nga rộng quá. Tớ bảo là rộng lắm mà. Vào đấy là bị lạc mất.
Gơrebê gật đầu và định cuốn chân vào một mảnh chăn. Bỗng anh có cảm tưởng như mình đang đào ngũ. Đơn vị anh đang thành hàng ngũ chiến đấu chỉnh tề ở nhà thờ, còn anh, anh bỏ đi. Anh nghĩ, mình nghỉ phép là xứng đáng chứ. Chính Rahê cũng nói vậy. Vả lại, mình cũng chẳng cần đi phép lắm. Thật ra mình chỉ sợ có người chạy theo kéo mình trở lại.
Cách đó vài cây số, họ lại vượt qua một chiếc xe chở thương minh đang sa vào một vũng bùn loãng. Họ dừng xe và kiểm tra các cáng. Có hai người bị chết ở dọc đường. Họ bỏ người chết xuống xe và cho ba thương binh ở xe kia lên. Gơrebê đỡ thương binh lên xe. Có hai người bị cưa chân, người thứ ba bị thương ở mặt, anh ta có thể ngồi được. Những người phải ở lại chửi rủa những người kia. Đó là những thương binh phải nằm cáng mà quả thật là không còn chỗ. Cũng như các thương binh khác, họ sợ đến phút cuối cùng rơi vào nanh vuốt của chiến tranh.
– Bây giờ lại đến trục xe bị cong. Người lái xe đã chui xuống gầm xe, than vãn.
– Cong à! Cong thế nào? Đi trên tuyết mà cong à? Người lái xe kia hỏi lại.
– Có lần có người chỉ đút ngón tay vào lỗ mũi mà bị gãy đấy. Mày đã được nghe chuyện ấy chưa hả nhóc con?
– Dù sao cũng may cho mày là mùa đông đã qua rồi. Không thì tất cả thương binh của mày sẽ chết vì cóng cả đám.
Họ lại đi. Người lái xe rút ở trong túi ra một bó thuốc lá nhai và đưa lên mồm cắn.
– Hai tháng trước đây, tớ đã bị thế này rồi, y nói. Máy bị trục trặc. Lò dò đi bước một. Tất cả thương binh bị rét cóng trên cáng. Cũng đành chịu. Đến nơi chỉ có sáu người sống sót. Dĩ nhiên, tay, chân và mũi đều tê cứng. Mùa đông mà bị thương ở mặt trận Nga thật chẳng có gì thú cả. Lại còn những người đi được chứ. Trời rét mà phải cuốc bộ hàng chục cây số trong đêm. Mỗi lần xe vượt qua đoàn nào là tụi chúng nó như muốn nhào lên chiếm lấy xe. Chúng bám vào cửa và bậc xe như ong. Phải đập cho chúng rớt ngã xuống.
Gơrebê lơ đãng gật đầu, mắt nhìn phong cảnh đang diễu qua. Làng đã khuất. Chỉ còn bầu trời mênh mông, u ám và cánh đồng bát ngát lùi về phía sau. Một điểm sáng chỉ vị trí của mặt trời sau những đám mây. Tuyết lấp lánh yếu ớt. Bỗng nhiên Gơrebê bàng hoàng nhận thấy là anh đã được cứu sống, anh đã thoát khỏi cảnh địa ngục và chết chóc. Bánh xe nuốt từng thước tuyết và mỗi thước tuyết lùi về phía sau đã đưa anh gần thêm về phía Tây, với thành phố, với nhà anh, với cuộc sống.
Người lái xe sang số, chạm khẽ phải tay anh. Gơrebê giật mình. Anh lục túi, lấy ra một gói thuốc lá. Đó là gói thuốc của Hiếcsưlan.
– Cầm lấy này, anh nói.
– Cám ơn, người lái xe không quay đầu lại, trả lời. Tớ không hút. Tớ nhai thuốc.