Chương 27
Du kích đấy!
Staibrennơ liếm môi và nhìn mấy người Nga. Có hai người đàn ông và hai người đàn bà. Một người đàn bà còn trẻ. Má cô ta tròn và gò má cao. Cả bốn người vừa bị giải đến sáng nay.
– Trông không có vẻ du kích, Gơrebê nhận xét.
– Du kích đấy, Staibrennơ quả quyết. Mày trông thế nào mà bảo là không phải?
– Họ không có vẻ du kích. Giống nông dân nghèo thì đúng hơn.
Staibrennơ cười.
– Cứ như thế thì chẳng bao giờ bắt được bọn giết người hết.
Gơrebê nghĩ, đúng đấy. Mày là dẫn chứng cụ thể nhất. Anh thấy Rabê đi tới.
– Làm gì với bọn này bây giờ? viên chỉ huy đại đội hỏi.
– Chúng bị bắt ở đây, viên đội nói. Cần phải giam chúng lại cho đến khi có lệnh.
– Không có cái của này cũng đã rắc rối chết đi rồi! Sao không gửi chúng lên trung đoàn?
Rabê không đợi trả lời. Đã từ lâu, trung đoàn không có địa điểm nhất định rồi. Theo họ đoán, thì ban tham mưu sẽ cử một sĩ quan có trách nhiệm xuống hỏi cung những người Nga và quyết định về số phận của họ. Đó là giả thuyết thuận lợi nhất.
– Ở cổng làng, có một nhà to có một kho củi đã bị cháy, cửa có khóa đấy, Staibrennơ nói xen vào.
Rabê quay về phía nó. Hắn đoán được ý định của Staibrennơ. Với nó, thì những người Nga sẽ tìm cách vượt ngục như thường lệ và đó là điều bất hạnh của họ. Ra khỏi làng, muốn bố trí làm giả cái gì cũng rất dễ.
– Gơrebê, đem tù binh đi. Rabê nói. Staibrennơ sẽ chỉ cho anh biết cái kho củi ở đâu. Kiểm tra xem cửa có khóa chắc và có lối ra vào khác không. Sau báo cáo với tôi và để một người gác ở đấy. Lấy người ở tiểu đội anh. Anh phải chịu trách nhiệm với tôi. Một mình anh thôi, - hắn nói tiếp.
Một tù nhân đi tập tễnh. Người đàn bà già nhất có những mạch máu nổi phồng lên, người kia đi chân đất. Họ vừa ra khỏi làng. Staibrennơ đấm một người đàn ông.
– Ê, thằng này, chạy lên đi!
Người ấy sửng sốt quay lại. Staibrennơ cười và ra hiệu cho người đó.
– Chạy lên! Mày được tự do đấy.
Người Nga già nhất nói vài câu bằng tiếng của họ. Người kia không động đậy. Staibrennơ đá anh ta một cái nữa.
– Chạy đi, đồ chó chết!
– Thôi ngay, Gơrebê nói. Mày không nghe rõ lệnh của Rabê à?
– Có thể cứ để chúng bỏ chạy, Staibrennơ thầm thì. Tao bảo là để cho những thằng đàn ông ấy. Chúng nó chạy được mười bước là chúng ta bắn. Ta nhốt bọn đàn bà lại và đêm nay, ta lại tìm con trẻ nhất.
– Để yên đấy và biến ngay đi. Tao chỉ huy ở đây mà!
Staibrennơ đăm đăm nhìn bắp chân chị người Nga trẻ. Chị ta mặc váy ngắn và chân chị đỏ hồng, vạm vỡ.
– Thế nào rồi chúng cũng đến bị bắn chết thôi, nó năn nỉ. Không chúng ta thì cũng bọn SD. Tao còn có thể chơi con bé trẻ nhất. Mày vừa đi phép về nên mày đếch cần là phải.
– Câm ngay và nghĩ tới vợ chưa cưới của mày đi, Gơrebê nói. Con gái ông đại tá. Rabê ra lệnh cho mày chỉ kho củi cho chúng tao, có thế thôi.
Họ rẽ vào lối dẫn đến ngôi nhà trắng. Staibrennơ tức tối chỉ một căn nhà nhỏ còn tốt, và nói.
– Đây.
Tường nhà xây bằng đá và cửa có thêm một tấm rào sắt rèn có thể khóa ở ngoài được.
Gơrebê xem xét bên trong, chắc nó đã được dùng làm chuồng bò hay kho củi. Nền nhà bằng ximăng. Những người bị giam nếu không có sự giúp đỡ bên ngoài, không sao ra được.
Anh mở cửa và đưa họ vào. Hai tên lính mới, trẻ, súng lăm lăm trên tay, đứng gác. Các tù nhân lần lượt theo nhau vào cái phòng chật hẹp đó. Gơrebê khóa chặt và giật thử khóa. Nó vẫn vững.
– Như khỉ vào chuồng nhé. Chuối! Chuối! Này lũ khỉ, chúng mày có thích chuối không? Staibrennơ cười khẩy.
Gơrebê quay lại bọn lính mới.
– Còn các cậu, đứng gác ở đây. Các cậu phải chịu trách nhiệm về mọi việc xẩy ra. Sẽ có người đến đổi gác. - Anh quay lại hỏi những người Nga. - Bọn các người có ai nói được tiếng Đức không?
Không ai trả lời.
– Rồi sẽ kiếm cho các người một ít rơm. Đi thôi, anh gọi Staibrennơ.
– Mày kiếm cả chăn bông cho chúng nó nữa đi. Staibrennơ châm biếm.
– Đi thôi! Còn các cậu, mở mắt ra nhé!
Anh đến trình diện với Rabê và báo cáo là anh xin bảo đảm về nơi anh đã giam các tù nhân.
– Anh phải chịu trách nhiệm gác chúng nó cùng với vài người nữa nhé. Vài hôm nữa, khi tình hình sáng sủa hơn đôi chút, chắc chắn là người ta sẽ đến đem cái của nợ ấy đi.
– Thưa đại úy, rõ.
– Hai người có đủ không?
– Thưa đại úy, không cần hơn, kho củi chắc lắm. Tôi có thể ngủ ngay ở đấy để canh.
– Đồng ý, tôi cũng muốn như thế. Chúng ta cần huấn luyện cho tân binh chiến đấu được nhiều chừng nào hay chừng ấy. Tin tức thì… - Rabê ngừng lại. - Chắc anh cũng biết như tôi là tình hình ra sao rồi. Anh có thể về được đấy.
Gơrebê đi lấy đồ đạc. Anh mới biết vài người trong tiểu đội.
– Thế là bây giờ cậu đã thành cai ngục rồi hả? Immécman hỏi anh.
– Phải, tớ thích thế hơn là dạy bọn lính mới. Ít ra cũng được ngủ.
– Tớ có cảm giác là cậu không có thì giờ đâu. Cậu có nghe tin gì không?
– Có, không tốt lắm.
– Lại một lần nữa, bọn mình phải chiến đấu ở đội hậu vệ. Quân Nga lọt từ khắp các phía tới. Toàn là nói khoác. Tấn công qui mô đấy. Ở đây là giữa đồng bằng. Không thể nào chống cự được đâu. Tớ có cảm giác là bọn mình sẽ nhẩy vọt về sau khá xa.
– Cậu tưởng là cứ qua được biên giới là xong chuyện phải không?
– Còn cậu, cậu có nghĩ thế không?
– Không.
– Tớ cũng vậy. Cậu cho rằng ai sẽ phải chịu trách nhiệm nào? Bộ tham mưu ư, chắc chắn là không rồi. Bọn ấy không chịu nhận trách nhiệm đâu, - Immécman cười khẩy. Năm 1918, chúng nó trút cả lên đầu cái chính phủ lâm thời được thành lập vội vã để đáp ứng với nhu cầu. Lũ ngốc kia giơ đầu chịu báng, chúng ký hiệp ức đình chiến, và tám ngày sau, người ta lên án chúng là đồ phản tổ quốc. Bây giờ không làm thế được. Chính phủ độc tài có nghĩa là thất bại hoàn toàn. Không có một đảng chính trị nào để điều đình đâu.
– Tất nhiên là trừ Đảng của cậu ra, Gơrebê chua chát nói. Cậu đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần với tớ mà. Tóm lại thì lại là một chính phủ độc tài khác và phương pháp thì vẫn thế. Thôi, tớ đi nghỉ đây. Tất cả yêu cầu của tớ chỉ là muốn nghĩ gì thì nghĩ, muốn nói gì thì nói và muốn làm gì thì làm. Nhưng từ ngày mà cánh hữu cũng như cánh tả đều lọt vào tay những nhà tiên tri, thì đó là một tội ác tầy trời.
Anh tự trách mình đã đi tranh luận với Immécman một lần nữa: những cuộc nói chuyện tay đôi với gã cũng vô ích như với Staibrennơ vậy. Anh đưa sắc lên vai và đi ra phía nhà bếp lưu động. Anh nhận muôi xúp đậu, bánh mì và xúc xích khẩu phần của anh. Như vậy là cho đến sáng hôm sau, anh không phải trở về làng nữa.
Buổi trưa im ắng lạ lùng. Sau khi mang vài bó rơm đến, bọn lính mới đã đi khỏi. Mặt trận vẫn không yên tiếng súng nhưng suốt ngày không có báo động. Trước kho củi là một bãi cỏ đã trở lại tình trạng hoang dại. Nó đã bị dầy xéo và lỗ chỗ đầy hố đạn, nhưng nó vẫn xanh tốt và những khóm hoa vẫn nở dọc lối đi cũ.
Gơrebê tìm ra ở bên kia lối đi một ngôi nhà nhỏ chưa bị hư hại và có thể đứng ở đó mà quan sát kho củi được. Anh bước vào nhà và thấy ở đó có vài cuốn sách. Đó là những tác phẩm cũ, bìa da, gáy chữ vàng nhưng đã bị thời tiết hủy hoại. Chúng đã bị tuyết và nước mưa làm hư hại đến nỗi chỉ còn một cuốn là đọc được. Gơrebê không đọc được bản in bằng chữ Pháp nhưng những bản vẽ thể hiện những phong cảnh nên thơ chìm đắm trong một giấc mơ êm dịu và u buồn đã làm anh say sưa lạ thường. Một mối nhớ nhung đau xót và vô vọng dần dần tràn ngập trong anh và sau khi anh gập sách lại rồi, nó còn tồn tại.
Anh đi vào con đường râm mát và đến bờ ao gần bức tượng đồng nội đang im lặng nhẩy múa mà không hề nhúc nhích giữa những cây tầm ma. Nó chỉ mất một chiếc sừng nhỏ trong những năm đã được chứng kiến hai cuộc chiến tranh và một cuộc cách mạng. Nó sống cùng một thời với những bức tranh ở cuốn sách Pháp cũ, cuốn sách lại được chứng kiến một thời đại thần thoại và kỳ diệu mà Gơrebê chưa hề biết. Gơrebê ra đời trong chiến tranh thứ nhất, anh đã lớn lên trong cảnh khốn cùng của nạn lạm phát và những năm hỗn tạp tiếp theo đó; anh chỉ thật sự bắt đầu sống trong cuộc chiến tranh thứ hai này. Anh đi vòng qua bể nước và đến gần kho củi. Anh lấy tay giật thử tấm cửa sắt ra. Có lẽ cái nhà có nhiều tác dụng này thoạt tiên không có tấm rào sắt, về sau, người ta mới gắn nó vào đây. Có lẽ chính người chủ ngôi nhà và cái vườn đã đợi cái chết sau những thanh sắt này.
Bà già ngủ. Cô gái ngồi xổm trong góc. Hai người đàn ông đứng nhìn trời. Đồng thời họ nhìn cả Gơrebê. Gơrebê quay đi và ra ngả lưng trên bãi cỏ.
Một đám mây thong thả bay qua bầu trời. Chim hót líu lo trong đám cây bạch dương. Một con bướm xanh bay loạng choạng từ bông hoa này sang bông hoa khác và trên các hố đạn. Một lát sau, một con bướm khác bay lại. Cả hai nô rỡn và đuổi nhau. Tiếng gầm thét của mặt trận mỗi lúc một to dần. Hai con bướm sát cánh nhau, bay từ từ lên cao trong không khí nóng bức và trong sáng. Gơrebê ngủ thiếp đi.
Buổi chiều một tên lính mới mang một ít xúp đến cho các người bị giam. Đó là bữa xúp buổi trưa được đổ thêm nước. Tên lính mới đợi những người bị giam ăn hết rồi lấy gamen đi. Y còn mang đến cho Gơrebê khẩu phần thuốc lá. Hôm nay được nhiều hơn thường lệ. Đó là điềm xấu. Mỗi khi ăn uống khá và được nhiều thuốc lá hơn, là những trận đánh lớn không còn xa nữa.
– Trưa nay, chúng tôi phải tập thêm hai giờ, khướt quá. Tên lính mới ủ rũ nhìn Gơrebê và nói. Tập bò, ném lựu đạn và đâm lê.
– Đại đội trưởng biết việc của ông ấy. Không phải để hành các cậu đâu.
Tên lính gật đầu. Y ngắm những người Nga như những con vật kỳ quặc.
– Người đấy mà, Gơrebê nói.
– Phải, nhưng là người Nga.
– Đúng, người Nga, thế thì sao? Cầm lấy súng, chúng ta cho bọn đàn bà ra từng người một. - Rồi anh nói qua chấn song sắt. - Tất cả vào góc trái. Mụ già kia, đi ra ngoài. Những người khác ra sau.
Ông già người Nga nói vài câu bằng tiếng của ông. Những người bị giam làm theo. Tên lính mới lăm lăm cầm súng trên tay đứng cách đấy vài bước. Bà nông dân già đi lại gần. Gơrebê mở cửa, cho bà cụ ra xong lại đóng cửa vào. Bà cụ tưởng bị đem đi bắn, òa lên khóc.
– Bảo với bà ta không sợ gì. Cho ra để đi ngoài đấy thôi. Gơrebê nói với ông già người Nga.
Ông già nói vài câu. Bà cụ nín ngay. Gơrebê và tên lính mới dẫn bà cụ ra sau một bức tường đổ và đợi cho đến lúc bà ta trở về. Rồi họ cho cô gái trẻ ra. Cô đi trước, bước chân mềm mại thoăn thoắt. Khi đưa người đàn ông ra, thì công việc đỡ phức tạp hơn. Họ dẫn những người đó ra sau nhà và đứng kèm ngay tại chỗ. Tên lính trẻ hai tay cầm súng, vẻ nghiêm trang, môi dưới bĩu ra, nét mặt trầm mặc và chăm chú. Chính y lại đưa người thứ hai ra và đóng cửa.
– Tôi mê công việc này lắm, lúc trở về với Gơrebê, y nói.
– Mỗi người một thích. Bây giờ cậu có thể về được rồi. Gơrebê đặt súng xuống và nói.
Anh đợi cho tên lính trẻ đi khuất hẳn rồi, mới lấy thuốc lá ra, cho ông già Nga bốn điếu. Anh đánh một que diêm và đưa qua chấn song cho ông cụ. Cả bốn người cùng hút. Những điếu thuốc làm thành bốn chấm đỏ trong bóng tối chạng vạng và mỗi lần họ hút, thuốc lại chiếu sáng lờ mờ nét mặt họ. Gơrebê trông thấy bóng cô gái Nga. Anh thấy nhớ Elidabét một cách đau đớn lạ lùng.
– Anh… tốt, ông già người Nga vẫn theo dõi mắt anh, nói.
Ông cụ ghé sát mặt vào chấn song.
– Người Đức… thua rồi… Anh… tốt, ông nói nho nhỏ.
– Câm mồm đi!
– Sao không để chúng tôi ra… đi với chúng tôi đi? Khuôn mặt răn rúm quay nhìn cô gái Nga một lát rồi lại quay về phía Gơrebê. - Đi với chúng tôi và Marútgia… Chúng tôi dấu anh… chỗ kín lắm… Sống… ông cứ nhắc đi nhắc lại mãi.
Gơrebê lắc đầu. Anh nghĩ, đó không phải là một giải pháp. Không làm như thế được. Nhưng thế nào là giải pháp chứ?
– Sống… không chết… bị tù. Ông già Nga nói thì thầm. Cả anh nữa, không chết… tốt với chúng tôi lắm… chúng tôi vô tội…
Sao mà đơn giản vậy! Gơrebê quay lưng đi. Trong ánh ngày tàn êm dịu sao mà đơn giản vậy! Có lẽ họ vô tội thật! Không tìm thấy vũ khí trên người họ và trông họ không giống du kích. Chắc chắn là hai người già vô tội. Gơrebê nghĩ, hay mình để cho họ đi nhỉ? Ít ra mình cũng làm được một việc gì, mình cũng cứu được vài người vô tội. Nhưng mình không thể đi theo họ được, không thể đến đàng ấy được. Mình không thể đi theo cái mà mình muốn bỏ trốn. Anh đi một vòng quanh vườn. Anh thấy anh lại đứng ở bờ ao. Lúc này, bóng những cây bạch dương nổi lên đen sẫm trên nền trời. Anh trở lại kho củi. Sau hàng rào sắt, điếu thuốc cuối cùng còn sáng. Mặt ông lão Nga vẫn kề sát bên hàng chấn song.
– Sống, ông lão nói, tốt với chúng tôi.
Gơrebê lấy ở trong túi những điếu thuốc cuối cùng ra đặt vào bàn tay chai cứng đang chìa ra rồi bỏ thêm vào đó một nắm que diêm.
– Này, cho để hút đêm đấy.
– Sống… anh còn trẻ… chiến tranh hết với anh… anh tốt… chúng tôi vô tội… sống… anh… chúng tôi… tất cả mọi người sống.
Đó là một bài kinh dịu dàng và thâm trầm. Ông già nói sống như một tên buôn lậu nói bơ, như một gái điếm nói tình với một giọng quyến rũ yêu thương lẫn vẻ khêu gợi dâm ô. Gơrebê bỗng giận sôi lên.
– Câm miệng ngay! Anh quát ông già. Có câm ngay hay muốn tôi đi tố cáo bây giờ!
Anh quay lưng lại và vội vã bỏ đi. Tiếng ầm ầm ở xa mỗi lúc một lớn. Sao bắt đầu lấp lánh. Bỗng anh cảm thấy cảnh cô đơn đè nặng xuống người anh, anh luyến tiếc mùi hôi hám, những tiếng ngáy ở nơi trú quân. Anh cảm thấy hình như các bạn anh đã bỏ mặc anh trước một việc đáng sợ, phải quyết định lấy.
Anh nằm dài trên ổ rơm trong căn lều và cố ngủ. Anh nghĩ, có thể họ trốn thoát mà mình không biết chăng. Anh hiểu rằng những người Nga này không mảy may có chút hy vọng tự họ thoát được khỏi kho củi.
Mặt trận như tiến gần từng giờ. Những chiếc máy bay mắt không thấy được, bay rầm rầm qua làng. Tiếng súng máy lắp bắp nghe rất rõ. Rồi đến tiếng bom nổ ầm ầm. Gơrebê lắng tai. Tiếng động to dần như thủy triều dâng. Anh nghĩ mãi: “Nếu họ trốn được nhỉ?”. Anh dậy và đi tới kho củi. Không có gì động tĩnh. Chắc những người Nga ngủ rồi. Nhưng anh thấy hình như có bộ mặt ông già và anh vội vã bỏ đi.
Khoảng nửa đêm, thì không còn nghi ngờ gì nữa; một trận chiến ác liệt đang diễn ra. Trọng pháo bắn mãi phía sau trận địa. Chẳng bao lâu nữa, làng này cũng nằm trong tầm bắn. Gơrebê biết rõ là trận địa rất mỏng manh. Vô tình anh đã theo dõi xem cuộc chiến đấu tiến triển ra sao. Chắc chẳng bao lâu nữa, xe tăng sẽ xuất hiện. Pháo bắn chuyển làn làm mặt đất rung lên. Tiếng sấm động vang dội khắp các chân trời. Anh cảm thấy điều đó đến tận xương tủy. Anh biết rằng thủy triều đang từ từ dâng lên, sắp tới anh rồi nhưng hình như đồng thời nó đang quay cuồng quanh anh, và căn lều nhỏ, trắng, mỏng manh, bốn người Nga và chính anh đã trở thành nơi trung tâm của một trận chiến đấu này mà số phận là do những người đó và chỉ những người đó quyết định.
Anh đi đi lại lại, đến gần kho củi, nắn chiếc chìa khóa trong túi, trằn trọc trên lớp rạ và mãi đến tận sáng, anh mới thiếp đi trong giấc ngủ nặng nề và hoảng loạn.
Lúc này anh giật mình tỉnh dậy thì bầu trời xám xịt. Mặt trận rung chuyển ầm ầm. Đạn đại bác đã rội vào làng và vào tuyến sau. Anh nhìn kho củi. Tấm rào sắt vẫn nguyên vẹn, bóng mấy người Nga nổi lên ở phía sau. Vừa lúc đó Staibrennơ chạy đến.
– Rút lui! nó kêu. Quân Nga chọc thủng được rồi. Mau lên! Tất cả loạn xạ lên rồi. Lấy đồ đạc đi. - Nó lại gần Gơrebê. - Còn mấy đứa Nga này chúng ta khử luôn đi.
Gơrebê thấy tim đập rộn ràng.
– Lệnh đâu? anh hỏi.
– Lệnh à? Trời ơi, nếu mày thấy được cảnh ở trong làng, chắc mày không hỏi nữa! Mày không nghe thấy tấn công à?
– Có.
– Nếu thế thì mày biết chúng ta ra sao rồi đấy. Mau lên! Mày tưởng chúng ta sẽ dắt lũ khốn nạn này đi theo hẳn? Khử chúng nó qua chấn song đi cho rồi.
Cặp mắt xanh của Staibrennơ ánh lên sáng quắc. Hàm dưới của nó bạch ra, vẻ dữ tợn. Nó lên đạn.
– Không được, Gơrebê nói. Tao chịu trách nhiệm ở đây. Nếu không có lệnh mày có thể quay về đi.
Staibrennơ cười phá lên.
– Được, nếu mày muốn khử lấy, tao để cho mày hưởng cái thú ấy vậy.
– Không.
– Dù sao thì một trong hai ta phải làm việc ấy chứ. Nếu mày không được bình tĩnh thì cứ đi trước, tao theo kịp ngay trong một phút.
– Không, mày sẽ không bắn họ, Gơrebê nhắc lại.
– Tao sẽ không bắn chúng nó à? Staibrennơ ngước mắt lên. Tao sẽ không bắn chúng nó hả? Nó nhắc lại chậm hơn. Mày hiểu mày nói gì đấy chứ?
– Hiểu. Tao nói gì tao phải hiểu chứ.
– Thế thì tao, tao cũng biết.
Nét mặt Staibrennơ thay đổi. Nó cầm khẩu súng ngắn lên, Gơrebê ngắm và bóp cò. Staibrennơ loạng choạng ngã xuống với tiếng rên rỉ như một đứa trẻ. Khẩu súng ngắn rời khỏi tay nó.
Gơrebê kinh tởm nhìn mãi cái xác. Một viên đạn đại bác rú trên đầu anh bay qua làng. Anh rùng mình chạy đến kho củi, rút chìa khóa ở trong túi ra và mở cửa.
– Cút đi, anh quát.
Những người Nga nhìn anh, không nhúc nhích. Họ không dám làm theo lệnh của anh. Anh vất khẩu súng trường xuống.
– Chạy đi! Tôi đã bảo chạy đi mà! Anh giơ hai tay không ra và nóng nẩy la lên.
Người Nga trẻ đặt một chân ra ngoài kho. Gơrebê quay lại gần xác Staibrennơ và lẩm bẩm: “Quân giết người” mà chính anh cũng không hiểu anh đã nói gì. Anh nhìn Staibrennơ với một cảm giác trống rỗng.
Và đột nhiên luồng tư tưởng của anh lồng lên. Một hòn đá đã lăn xuống rồi bây giờ thì đất lở đang đổ dồn. Anh đã hành động không thể nào gỡ lại được, anh cảm thấy tự do và nhẹ nhàng. Anh biết rằng anh phải làm một việc gì nhưng anh cũng thấy rằng nếu anh cử động thêm một chút nữa thôi là anh sẽ bay bổng lên trời mất. Ý nghĩ đó quay cuồng trong đầu anh. Anh đi vài bước trên con đường nhỏ. Phải làm một cái gì vô cùng quan trọng nhưng anh cảm thấy mình mới lạ quá, yếu đuối quá và sáng suốt một cách đau đớn.
Anh đưa mắt tìm mấy người Nga. Họ đang chạy, thân người khom về phía trước, những người đàn bà chạy trước. Một người quay lại. Tay anh ta cầm một khẩu súng trường. Anh ta dừng lại, đưa súng lên vai và ngắm, Gơrebê thấy nòng súng đen ngòm chĩa vào anh. Anh muốn kêu lên, anh còn biết bao nhiêu điều cần phải nói, cần phải kêu lên hết sức mình…
Anh không cảm thấy viên đạn đi tới. Ngay trước mắt anh, bỗng là cỏ, một tán hoa kiều diễm, những cánh hoa xinh xắn, những nhụy hồng và hình ảnh đó lớn dần, lớn dần, - như anh đã từng trông thấy một lần không biết vào lúc nào. Cánh hoa nghiêng nghiêng tỏa khắp chân trời, nó lặng lẽ nở to, cảnh thanh bình đầm ấm của cái thế giới nhỏ nhoi đó chiếm lĩnh cả bầu trời, bông hoa đã biến thành cả vũ trụ - và mắt anh nhắm lại.
HẾT.