Chương 26
Họ không nhận được nhau nữa. Họ không nhận ra được binh phục nữa. Chỉ còn mũ sắt và tiếng nói để giữ liên lạc giữa mọi người. Chiến hào đã bị sụt từ lâu. Mặt trận chỉ còn là một chuỗi ngoằn ngoèo những hố đạn đại bác và những lô cốt boongke luôn luôn chuyển động. Chỉ còn đêm tối, tiếng máy bay rú, những ánh lửa của những viên đạn nổ, những đám bùn lớn văng lên và mưa tầm tã. Bầu trời đã đổ xụp dưới những phát đạn lửa. Nước, bom, đạn đại bác rơi như trút.
Đèn pha rọi đi rọi lại những đám mây rách xơ xác. Súng phòng không bắn dữ dội và chân trời chuyển động theo từng đợt bắn. Những máy bay bị cháy rạch đêm tối như những ngôi sao chổi. Những vùng lửa sáng chói lên rồi tắt ngay ở phía chân trời. Và súng lại nổ vô hồi kỳ trận.
Cứ như thế đã mười hai ngày. Trận địa đứng vững trong ba ngày đầu tiên. Lô cốt boongke bị trọng pháo bắn mà không thiệt hại mấy. Nhưng chẳng bao lâu, các công sự tiền tuyến đã không chống đỡ nổ. Xe tăng địch lao qua những lỗ thủng rồi bị pháo chống tăng chặn lại sau đấy vài cây số. Ngày hôm sau, khi trời còn sớm tinh mơ, người ta thấy có những chiếc đã bị cháy, vài chiếc bị lật ngửa như những con bọ hung. Các tiểu đoàn cải hối lên tiền tuyến để sửa chữa đường giây điện thoại. Hầu như không có gì che chở họ và trong nửa giờ, quân số bị hao hụt tới quá nửa. Những phi đội máy bay ném bom lẫn với nền trời u ám, chúng bay thấp để bắn phá các boongke. Trong sáu ngày, nửa số boongke đã bị hư hại. Chúng chỉ còn dùng được làm hầm trú ẩn. Ngày thứ bảy quân Nga tiến công và bị đánh lui. Rồi trời bắt đầu mưa như thác lũ. Không nhận ra người nữa. Họ bò trong những hố bom nhầy nhụa như ốc sên, đồng một mầu xám xịt. Đại đội chỉ còn hai khẩu súng máy đặt trên hai lô cốt đã đổ, được vài khẩu súng cối tăng cường yểm hộ. Mọi người nấp trong hố đạn và sau vài mảng tường. Rabê chỉ huy một chiếc lô cốt, Mátxơ chỉ huy chiếc kia.
Họ giữ được vị trí trong ba ngày, dưới trời mưa. Ngày thứ hai đạn dược đã cạn, quân Nga cứ đeo súng lên vai cũng tiến lên được. Nhưng rồi cũng không có cuộc tấn công nào. Buổi chiều, lợi dụng chút ánh sáng cuối cùng của ngày, vài chiếc máy bay Đức bay trên trận địa và thả dù thức ăn cùng đạn dược. Đến đêm, viện binh tới.
Các tiểu đoàn hối cải đã đặt vội được những bệ bắn bằng gỗ cây. Súng máy mới và súng cối được đặt ở tư thế bắn. Một giờ sau, lại có cuộc tấn công không có pháo bắn chuẩn bị làm mọi người đều bị bất ngờ. Một số lựu đạn không nổ, Gơrebê thấy ở trước mặt anh một cái mũ sắt trên cặp mắt trắng dã, và cái miệng đen ngòm. Một cánh tay giơ cao nổi lên trên cái bóng đó như một cành cây sống, đen thui. Anh bắn hù dọa, giật lựu đạn trong tay một lính mới đứng sau anh, đang mân mê quả lựu đạn đó rồi ném về phía cái bóng. Lựu đạn nổ.
– Mở nắp ra, đồ ngốc! anh quát người lính mới. Đừng giật bừa như thế.
Quả lựu đạn sau không nổ. Anh nghĩ, lại có phá hoại rồi! Tù binh ở các xưởng làm vũ khí chống lại ta đấy! Anh ném một trái nữa rồi nằm bẹp xuống bùn khi trông thấy quả lựu đạn Nga bay tới. Lúc anh nghe tiếng nổ xé bầu không khí thì cũng là lúc bùn bắn tung tóe, phủ lên người anh. Anh nhỏm dậy và quát tên lính mới: “Nhanh lên! Đưa lựu đạn khác đây!” Vì không nghe tiếng trả lời ở phía sau, anh quay lại và không thấy ai. Đám bùn loãng ở dưới lòng hố chỉ còn là một vũng bùn lẫn máu đỏ ngầu. Anh thục tay xuống bùn, lôi lên được một cái thắt lưng và tháo lấy hai trái lựu đạn còn lại ở đó ra. Anh toan đứng dậy thì trông thấy bóng hai người xuất hiện trên đầu anh và nhảy qua hố. Anh lại ngồi thụp xuống.
Anh nghĩ, mình bị làm tù binh, bị bắt làm tù binh như bị sa vào bẫy chuột. Anh thận trọng leo lên miệng hố. Anh còn nằm yên thì lớp bùn phủ kín người sẽ làm cho không ai trông thấy anh. Nhờ ánh lửa của viên pháo sáng, anh nhận ra được những gì còn lại của chú lính mới. Thân hắn bị lựu đạn xé rách đã che chở cho Gơrebê tránh được mảnh.
Gơrebê nằm đầu sát đất. Anh thấy khẩu súng máy ở lô cốt phải lại hoạt động rồi đến khẩu ở lô cốt trái. Súng máy còn bắn thì tình hình chưa phải là tuyệt vọng. Chúng vẫn kiểm soát được khu vực giữa hai lô cốt, trong tầm hỏa lực của chúng. Vả lại cũng không thấy quân Nga xuất hiện. Chắc chỉ có vài tên lính lẻ loi vượt qua được lưới lửa. Anh nghĩ, mình phải bò đến gần một cái lô cốt nào mới được. Đầu anh choáng váng; anh gần như bị ngất. Nhưng trong lúc nửa mê nửa tỉnh, một vài ý nghĩ hiện lên rất rõ ràng và chính xác. Đó là tất cả sự khác nhau giữa lính cũ và lính mới. Bọn lính mới hoàn toàn hoảng hốt và chúng bị tê liệt trước cơn nguy khốn. Gơrebê biết rằng nếu quân Nga có tới thì anh cũng còn cách giả vờ chết. Khó mà nhận ra được anh trong vũng bùn. Tuy nhiên, anh càng đến gần được một lô cốt nào đó bao nhiêu thì sau này, anh càng trở về được đơn vị nhanh bấy nhiêu.
Anh nhảy vọt vào một hố đạn đại bác ở bên cạnh, trượt trên lớp đất trơn và rơi xuống một cái ao xám. Một lát sau, anh lại tiếp tục tiến. Trong hố đạn sau mà anh nấp ở đó, có hai xác chết. Anh đợi. Rồi anh nghe tiếng lựu đạn nổ và trông thấy ánh lửa ở phía boongke trái. Lúc này quân Nga từ hai mặt cùng tấn công một lúc. Súng máy gào lên. Một lát sau, tiếng lựu đạn ngừng nổ nhưng lô cốt vẫn bắn ra, Gơrebê cứ tiến. Anh biết rằng quân Nga sẽ lại tấn công. Thế nào họ cũng đoán là trong các hố to còn nhiều người nên cứ nấp vào các hố nhỏ là hơn. Anh chạy đến được một hố nhỏ và nằm trong đó. Một cơn mưa rào đổ xuống. Súng máy ngừng bặt. Đúng lúc đó pháo binh Nga bắt đầu bắn. Một trái đạn trúng giữa lô cốt phải. Nó từ từ bay bổng lên không. Ngày bắt đầu, ẩm ướt và lạnh.
* * *
Trước khi trời sáng hẳn, Gơrebê đã theo kịp Daoê và hai tên lính mới sau một xác xe tăng. Daoê bị chảy máu mũi. Một quả lựu đạn nổ ngay bên cạnh y. Một tên lính mới bị thủng bụng. Nước mưa đổ xuống đống ruột y ôm trong tay. Không có gì để băng bó cả. Vả lại có buộc cũng vô ích. Y càng chết mau, càng may. Người lính mới kia bị gãy chân vì ngã vào hố đạn. Không hiểu sao chỉ có bùn loãng lại có thể thế được. Trong một chiếc xe tăng bị vỡ toác, người ta thấy xác đen thui của mấy người lính ngồi trong. Thân trên một người vắt vẻo nửa trên xe, nửa dưới đất. Mặt bị cháy một nửa, nửa kia sưng phù lên, tím bầm, nứt nẻ. Răng trắng nhởn như phấn.
Một liên lạc viên chạy từ boongke trái tới.
– Tập hợp ở boongke. Y thét to. Còn ai ở trong các hố đạn không?
– Không biết. Có y tá đấy không?
– Chết hay bị thương hết rồi.
Y lại bò đi.
– Chúng tớ đi kiếm y tá đến đây cho cậu. Gơrebê nói với người lính bị lòi ruột. Nếu không có, chúng tớ sẽ đi kiếm bông băng cho, chúng tớ trở lại ngay.
Người lính bị thương không nói gì. Y nằm co quắp trên đất nhão nhoét, môi tái nhợt, người nhỏ hẳn lại.
– Không thể kéo cậu đi trong bùn được, Gơrebê nói với người lính bị gãy chân. Vịn vào chúng tớ rồi cố nhảy lò cò với chân kia.
Cả bọn vây quanh tên lính mới và kéo lê hắn từ hố nọ sang hố kia. Họ từ từ tiến lên. Tên lính bị thương rên rỉ theo mỗi bước chân đi. Cuối cùng, cái cẳng chân chẹo hẳn đi và phải bỏ hắn lại sau một mảng tường đổ, và họ đặt cái mũ sắt của hắn lên tường để đánh dấu cho dễ nhận. Hai người Nga nằm gần hắn, một người đã mất đầu; người kia nằm sấp trong một vũng máu.
Họ còn thấy nhiều người Nga khác. Rồi họ mới trông thấy những thương binh của họ. Rabê đã bị thương. Tay trái hắn mới được băng bó tạm thời. Ba thương binh nặng được cuộn vào một tấm vải bạt và bỏ dưới trời mưa. Không còn bông băng nữa. Một giờ sau, một chiếc Giungke[105] bay sát đất và ném xuống vài gói đồ. Chúng rơi xa quá, tận trận địa của quân Nga.
Lại có bẩy người nữa đến. Những người khác đã tập hợp ở sau boongke bên phải. Trung úy Mátxơ đã chết. Viên đội Rainechkê lên chỉ huy thay. Đạn dược đã cạn gần hết. Súng cối không còn dùng được, nhưng hai khẩu trọng liên và hai trung liên vẫn hoạt động đều.
Mười người ở đại đội cải hối lên tận chỗ họ. Những người đó tải đạn, đồ hộp và cáng đến để khiêng thương binh. Có hai người đã nổ tung cùng với thương binh cách đấy khoảng một trăm mét. Suốt buổi sáng, hỏa lực pháo binh cắt đứt mọi liên lạc với tuyến sau.
Giữa trưa, trời lạnh. Mặt trời hiện ra. Thời tiết lại nóng ngay. Bùn đất bắt đầu khô nẻ.
– Chúng sắp đem xe tăng nhẹ tấn công chúng ta đây, Rabê nói. Nếu không đưa pháo chống tăng đến thì chúng ta đi đứt mất.
Cuộc bắn phá lại tiếp tục. Buổi chiều, một chiếc Giungke vận tải, có máy bay Métsơmít đi kèm hiện ra. Súng Stócmôvích bắn chống trả. Hai chiếc bị hạ ngay tức khắc. Rồi đến hai chiếc Métsơmít bị cháy rơi. Chiếc Giungke phải quay về. Nó thả các gói đồ xuống sau mặt trận quá xa. Máy bay Métsơmít tiếp tục chiến đấu. Chúng bay nhanh hơn máy bay Nga nhưng vì một phải chọi với ba, nên chúng đành phải rút lui.
Ngay hôm sau, xác chết bắt đầu có mùi. Gơrebê đã tìm được một chỗ trong lô cốt boongke. Có hai mươi người tất cả. Rainechkê cũng tập họp được ở sau boongke kia một số người gần bằng thế. Vài ngày trước họ có một trăm hai mươi người.
Anh ngồi lau vũ khí. Bùn chui vào tận các bộ phận nhỏ. Anh không nghĩ gì. Anh chỉ còn là một cái máy. Không có gì đáng kể bằng ngủ, ăn uống, chờ đợi và những động tác tự vệ, phản ứng tự nhiên khi có nguy hiểm.
Sáng hôm sau xe tăng xuất hiện. Suốt đêm, pháo binh, súng cối và súng máy làm trận tuyến bị cô lập với tuyến sau. Đường dây điện thoại luôn luôn được sửa lại nhưng cũng luôn luôn bị đứt. Pháo binh Đức bắn trả lại hỏa lực ác liệt của quân Nga một cách yếu ớt. Chiếc boongke bị trúng đạn hai lần nhưng còn đứng được. Nói cho đúng thì không còn boongke nữa mà chỉ còn là một khối ximăng không ra hình thù gì lắc lư trên đống bùn như một chiếc lá trong cơn bão. Khoảng nửa tá đại bác bắn gần nhau đã làm nó lung lay đến tận móng. Mỗi lần nó trúng đạn, người lại bị quật mạnh vào tường.
Gơrebê bị toạc vai nhưng anh không thể nào băng được; anh tạm đổ ít rượu cô-nhắc vào vết thương. Chiếc boongke vẫn tiếp tục nhẩy cẫng, rền rĩ và lảo đảo. Nó không còn là chiếc tàu trong cơn bão nữa, mà là một chiếc tàu ngầm đèn đóm tắt hết, bị xóc dưới đáy bể. Thời gian cũng không còn nữa. Thời gian cũng bị bom đạn phá hủy. Mọi người chờ đợi, chết dí trong bóng tối. Không còn cái thành phố nào đó ở Đức mà anh đã sống cách đây vài tuần. Và anh chưa hề được đi phép lần nào, cũng chưa có Elidabét. Chỉ có một giấc mơ điên dại giữa cái chết này với cái chết kia - trong nửa tiếng đồng hồ ngủ như chết, trong lúc đó một viên đạn hỏa tiễn bay lên rồi tắt phụt. Chỉ còn cái boongke tối tăm và tiếng sấm vang rền.
Tăng nhẹ xông lên trước, theo sau là bộ binh. Đại đội để xe tăng đi qua và bắn bộ binh đã lọt vào tầm hỏa lực của mình. Nòng súng máy nóng bỏng. Vẫn cứ phải bắn. Pháo binh Nga đã phải ngừng bắn. Hai chiếc xe tăng trở lui và đã đến gần. Không có pháo chống tăng, chúng đến thật là dễ. Đối với súng máy thì vỏ bọc thép của chúng quá dầy. Chỉ còn cách bắn vào kẽ hở của xe nhưng may lắm mới trúng. Chiếc xe tăng vận động ra khỏi tầm súng máy và bắt đầu bắn. Chiếc boongke rung lên. Bên trong, bêtông rạn nứt.
– Lựu đạn đâu? Rainếchkê quát.
Hắn buộc lựu đạn thành bó rồi đưa lên vai và đi ra cửa. Giữa hai đợt bắn, hắn lao ra ngoài.
– Súng máy, bắn vào xe tăng. Rabê ra lệnh.
Họ cố yểm hộ Rainếchkê đang chạy đường vòng để đến gần được xe tăng và dùng bó lựu đạn để phá xích xe. Hành động có vẻ như tuyệt vọng. Súng máy của xe tăng đã hoạt động.
Nhưng một lát sau, một chiếc xe tăng ngừng bắn. Không ai trông thấy ánh lựu đạn nổ.
– Trúng rồi! Immécman gào lên. - Đây không còn là một người cộng sản chiến đấu chống các bạn đồng đội nữa mà là một sinh vật đang bảo vệ tính mạng của mình.
Chiếc xe tăng đã dừng lại. Hỏa lực súng máy tập trung bắn vào chiếc kia đã quay lui và biến mất.
– Có sáu xe tăng đã vượt qua được chiến tuyến, Rabê kêu lên. Chắc thế nào chúng cũng trở lại. Tự do bắn! Phải chặn bộ binh lại.
– Rainếchkê đâu? Trong lúc ngừng bắn, Immécman hỏi.
Không ai đáp lại. Bọn họ không bao giờ thấy hắn nữa.
Họ còn cầm cự suốt buổi trưa. Chiếc boongke gần như đã bị nát vụn, nhưng súng máy vẫn tiếp tục bắn, tuy có thưa thớt hơn. Đạn đã cạn dần. Mọi người mở vài hộp đồ ăn ra và uống nước múc trong hố đạn gần bên cạnh. Hiếcsưlan bị một viên đạn xuyên thủng bàn tay.
Mặt trời chiếu gay gắt. Bầu trời đầy những đám mây to, sáng lóe. Boongke nồng nặc mùi thuốc súng và máu. Bên ngoài, xác chết trương phềnh. Ai có thể ngủ được cũng đều ngủ một chút. Không ai còn biết được là đường rút đã bị cắt đứt hay còn có thể rút được.
Buổi chiều, hỏa lực lại tăng cường mạnh lên rồi nín bặt. Mọi người xô ra ngoài, đề phòng một cuộc tấn công. Nhưng không có gì. Suốt trong hai giờ, im lặng hoàn toàn. Cảnh chờ đợi trong tình trạng yên tĩnh làm họ kiệt sức hơn một cuộc chiến đấu.
Chiếc boongke chỉ còn là một đống bê tông và thép méo mó. Đành phải bỏ. Có sáu người bị chết, ba bị thương. Ba giờ sáng, họ định phá vòng vây. Họ kéo một thương binh đi được độ vài trăm mét rồi cũng phải bỏ lại người đó, đã bị chết.
Quân Nga lại tấn công. Đại đội còn hai khẩu súng máy. Họ đặt súng lên mép một hố đạn và đánh lui được cuộc tấn công. Rồi họ bắt đầu lùi. Có lẽ quân Nga tưởng họ đông và trang bị nhiều vũ khí hơn là thật. Nhờ thế họ thoát. Đến đợt ngủ lần sau, Daoê bị trúng đạn vào đầu và ngã gục xuống; y chết ngay tức khắc. Xa hơn một chút, Hiếcsưlan đang cắm đầu chạy thì đổ nhào về trước. Y từ từ lật mình lại và không động đậy nữa. Gơrebê kéo y cùng lăn vào một hố đạn. Ngực Hiếcsưlan bị đạn xuyên thủng. Gơrebê rút ở trong túi của y ra chiếc ví đẫm máu. Bây giờ thì không cần cải chính giấy báo tử do Staibrennơ gửi về cho mẹ Hiếcsưlan nữa.
Sau cùng họ đã về tới tuyến thứ hai. Sau đó, họ nhận được lệnh tiếp tục rút lui. Đại đội được rút khỏi chiến đấu.
Họ tập trung lại cách đấy vài cây số. Đại đội chỉ còn ba mươi người. Hôm sau, có thêm quân tiếp viện làm quân số lại lên một trăm hai mươi người.
* * *
Gơrebê gặp Phrêdenbua ở một y viện mặt trận. Đó là một căn lều dựng vội. Chân trái Phrêdenbua đã bị dập nát.
– Họ muốn cưa chân tớ, y nói. Một thằng vào loại trợ lý hạng bét. Nó chỉ biết có thế. Tớ đã xin được đưa đi ngày mai. Dù sao tớ cũng muốn có một tay thầy thuốc nhiều kinh nghiệm xem lại chân trước khi quyết định cưa.
Y nằm dài trên một chiếc giường gỗ, gần cửa sổ, qua đó có thể trông thấy một phần đồng ruộng. Cánh đồng cỏ đầy hoa đỏ, vàng và xanh bát ngát tận chân trời. Trong lều vải, không khí sặc mùi nước tiểu, thuốc mê và mùi người chết.
– Rabê ra sao? Phrêdenbua hỏi.
– Bị thương ở tay. Xương không việc gì.
– Hắn ở quân y viện à?
– Không, hắn ở lại cùng đơn vị.
– Tớ cũng đoán như vậy. - Phrêdenbua nhăn mặt lại. Một nửa mặt y mỉm cười, nửa kia vẫn lạnh lùng với vết sẹo. - Có những người không muốn đi, như vậy đấy. Tớ biết Rabê thuộc số người như thế.
– Tại sao vậy?
– Hắn không thiết gì rồi. Không còn hy vọng nữa. Hắn không tin gì cả.
Gơrebê nhìn bộ mặt vàng nhợt của y.
– Thế còn cậu?
– Tớ không biết. Phải giải quyết cái này trước đã. - Y chỉ cái chân.
Một làn gió mát và thơm ngát thổi từ cửa sổ tới.
– Kỳ cục nhỉ? Khi tuyết rơi, người ta tin chắc là ở cái đất thổ tả này, không bao giờ có mùa hè. Thế mà bỗng nhiên, nó ở đây, lại đến bất ngờ, nhiều nữa chứ!
– Phải.
– Ở nhà mình, không biết ra sao rồi?
– Mình không biết. Mình không làm sao gắn liền hai mảnh lại với nhau được: mảnh thời gian đi phép và mảnh thời gian ở mặt trận. Thoạt tiên còn tạm được. Bây giờ thì khác quá. Mình không còn biết đâu là hiện tại nữa.
– Ai mà biết được.
– Tớ tưởng là tớ biết. Ở nhà, tất cả đều có vẻ rõ ràng. Nhưng cũng không được bao lâu. Bây giờ thì xa xôi quá. Tớ còn tin là tớ sẽ không bao giờ giết người nữa.
– Không phải chỉ có mình cậu như vậy đâu.
– Ừ. Cậu có đau lắm không?
Phrêdenbua lắc đầu.
– Lều này có moócphin. Lạ lắm nhé. Họ tiêm cho tớ một phát. Vẫn đau ở đấy, nhưng tớ có cảm giác như người khác chịu thay mình vậy. Tớ hãy còn một hay hai tiếng đồng hồ để suy nghĩ.
– Sắp có xe lửa chở thương binh đi chưa?
– Không, có quân y lưu động thôi. Họ sắp chuyển bọn mình đến trạm điều trị ở gần đây.
– Cậu cũng sắp đi. Thế là cả đại đội chỉ còn một mình tớ là cựu binh.
– Chắc họ cũng chạy chữa qua loa cho tớ rồi lại tống tớ ra với bọn cậu mất, Phrêdenbua nói.
Họ nhìn nhau. Cả hai đều biết rằng sẽ không có điều ấy.
– Tớ cũng cố tin như vậy, Phrêdenbua nói tiếp. Ít ra trong lúc có moócphin trong người, tớ cũng tin như vậy. Một đoạn đời, nhiều lúc cũng ngắn ngủi thật? Rồi sau đó là cảnh xa lạ. Đây là cuộc chiến tranh thứ hai của tớ đấy.
– Sau này, cậu định sẽ làm gì? Cậu có dự kiến gì không?
Phrêdenbua mỉm cười yếu ớt.
– Trước hết, tớ cần phải biết là người ta định dùng tớ vào việc gì đã. Bây giờ thì tớ cứ đợi xem sao. Tớ không mong thoát thân đâu, cậu ạ. Tớ tin là cũng chẳng còn bao lâu nữa. Bọn chúng nhất định tóm được tớ một lần cuối cùng, thế là hết! Bây giờ chúng nó mới tóm được một nửa tớ thôi. Rồi tớ cũng phải quen dần với những ý nghĩ ấy mới được. Rắc rối lắm. Tớ đã quyết định rằng tất cả cái chuyện tồi tệ này sẽ không còn dính dáng gì đến mình nữa: tớ sẽ góp phần mình và thôi không nói đến việc ấy nữa. Thế rồi tớ lại thấy mình bị ngập đến tận cổ vào đấy! Người ta dễ dàng tưởng tượng rằng cứ chết là hết, cuối cùng rồi cũng đâu vào đó, vân vân… Nhưng, đó chỉ là chuyện bịp. Tớ mệt lắm, Ernest ạ. Trước khi cảm thấy là đã què, tớ cố ngủ một chút. Chúc cậu may mắn!
Y đưa tay cho Gơrebê.
– Chúc cậu may mắn, Lútvích, anh nói.
– Tớ đành phó mặc, làm thế dễ thôi. Cứ để cho giòng nước cuốn đi. Đó là cái bản năng căn bản nhất của con người. Trước kia, dù sao cũng khác hẳn. Ít ra thì người ta cũng tưởng là như thế. Lúc nào người ta cũng có một góc kín đáo dành riêng cho hy vọng, cho tự do. Thế cũng được. Dù sao thì người ta cũng vẫn còn giữ được cái năng lực để tối hậu quyết định đời mình tùy theo ý mình. Nhưng không bao giờ người ta nghĩ đến cái ấy. Thế mà đó là một tính trời phú cho cùng với cái được gọi là lý trí đấy.
Gơrebê lắc đầu.
Phrêdenbua mỉm cười với cái cười nửa mặt của y.
– Cậu nói đúng, anh nói. Đó không phải là một giải pháp. Tốt nhất là làm sao cho những chuyện ghê tởm ấy không thể xẩy ra nữa.
Phrêdenbua để rơi đầu xuống gối. Y bỗng như kiệt sức. Trước khi đi ra, Gơrebê còn quay mặt lại thì y đã nhắm nghiền mắt.
Gơrebê trở về làng. Trời hơi đổi màu dưới ánh chiều tà. Mưa đã ngớt. Bùn khô cứng lại. Hoa và cây dại lấn cả những cánh đồng hoang. Mặt trận chuyển động rầm rầm. Tất cả hình như xa lạ và không cùng kích thước với cái gì quen thuộc. Gơrebê hiểu tình cảm đó. Anh thường có cảm giác ấy ban đêm khi anh tỉnh giấc mà không biết mình đang ở đâu. Lúc đó hình như anh rơi ra ngoài trái đất và đang lơ lửng, cô đơn trong khoảng không vô tận tăm tối. Ảo ảnh đó chỉ thoáng qua và anh tìm rất nhanh ngay được một điểm tựa, một điểm chuẩn, nhưng mỗi lần như thế, lại tồn tại một mối lo vơ vẩn, mối lo có ngày không trở lại được trái đất.
Anh không sợ, anh chỉ co người lại như đứa trẻ rất nhỏ bị bỏ mặc ở một vùng thảo nguyên mênh mông và thê lương. Anh đút tay vào túi và nhìn chung quanh. Vẫn là cảnh tượng hàng ngày, nhà cửa bị tàn phá, cánh đồng bỏ hoang, mặt trời lặn trên đất Nga, và ở rất xa, những ánh lửa xanh nhợt của mặt trận đã bắt đầu hiện rõ. Tất cả đều ở đó, như mọi chiều, và như mọi chiều, mối tuyệt vọng giá lạnh xuyên thấu tim anh.
Anh cảm thấy những lá thư của Elidabét ở trong túi của anh. Những lá thư ngọt ngào và nồng nhiệt, dịu dàng, có mối xúc cảm của tình yêu lướt qua. Nhưng thật chẳng khác gì những ánh lửa ma trơi trên một bãi lầy, và anh càng cố tiến lên để nắm lấy chúng thì bãi lầy càng tối xầm lại và thụt sâu dưới chân anh. Anh đã thắp đèn để tìm đường về, nhưng anh đã thắp nó trước khi ngôi nhà được dựng lên. Nó le lói trong một túp nhà đổ nát, nó đã không làm ngôi nhà đó ấm áp hơn chút nào mà còn làm nó tan hoang hơn. Anh đã làm quá nhanh, quá vội, bây giờ anh thấy rõ điều đó rồi.
Đã từ lâu, anh vẫn chống lại điều chua xót đó. Nhưng rút cục rồi cũng phải chấp nhận sự thật; cái đáng lẽ phải cổ vũ anh, giúp anh sống, tạo cho anh một nơi nương tựa, một nơi căn cứ lại chỉ làm anh thấy cô độc hơn. Ánh lửa yếu ớt và xa xôi xoa dịu lòng anh, nhưng đồng thời cũng làm anh mềm lòng. Đó là một thứ hạnh phúc riêng biệt, bé nhỏ, nghèo nàn và mỏng manh, lạc lõng trong bãi lầy của đau khổ và tuyệt vọng đang bao vây quanh anh. Anh dở thư của Elidabét ra và đọc một lần nữa. Nắng chiều nhuộm hồng các lá thư. Anh đã thuộc lòng chúng nhưng anh vẫn đọc và cảnh cô đơn, nặng như chì lại đè chĩu lòng anh. Hạnh phúc của anh ngắn ngủi quá: anh thấy bất lực trước cuộc đời cuồn cuộn theo anh. Hạnh phúc chỉ bằng thời gian một cuộc nghỉ phép. Nhưng cuộc đời người lính lại tính bằng những ngày chiến đấu chứ không phải bằng những ngày nghỉ phép.
Anh cất thư vào túi, cùng với thư của bố mẹ anh mà anh tìm thấy ở văn phòng. Phrêdenbua nói đúng, không nên suy nghĩ làm gì, người ta chỉ cần khiêm tốn bước từng bước, đặt chân nọ trước chân kia, không nên đặt những câu hỏi về số phận, về cuộc sống và cái chết. Bao giờ sự nguy hiểm cũng có những yêu sách chính xác và tỉ mỉ. Anh nghĩ, tại Elidabét đấy. Tại sao lúc nào anh cũng nghĩ đến nàng, như nghĩ đến một của riêng dứt khoát đã bị mất rồi? Thư của nàng còn đây, thế là nàng còn sống!
Làng đã hiện rõ. Nó trống rỗng và điêu tàn. Những làng này như không bao giờ còn có thể xây dựng lại. Một con đường nhỏ giữa hàng cây bạch dương đưa đến một căn nhà to, sơn trắng. Trước kia hẳn là chung quanh nhà có vườn, vài bông hoa quí mọc rải rác giữa đám cỏ dại và một pho tượng nhỏ hiện lên gần một hồ nước đọng. Đó là tượng thần Păng[106] đang thổi sáo. Nhưng không ai đáp lại tiếng sáo đồng nội ấy. Chỉ có vài lính mới đi tìm trái anh đào còn xanh trong vườn hoang.
[105] Máy bay vận tải của phát xít Hítle (Junker).
[106] Thần của đồng nội, theo truyền thuyết Hy Lạp, chuyên ngự trị nơi thôn dã, che chở các gia súc. Thần này đầu có sừng, chân như chân dê, thường hay săn bắn và thổi sáo trên các cánh đồng mênh mông và có các tiên cô nhảy múa chung quanh.