← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 1

“Trò kia! Đến đây!”

Sherlock Holmes quay lại để xem ai đang gọi và gọi ai. Hàng trăm học sinh đang đứng trong ánh nắng rực rỡ bên ngoài Trường Nam sinh Deepdene sáng hôm đó, đứa nào cũng mặc đồng phục sạch bong, và đứa nào cũng có một cái rương có đai da hay một chồng hành lý căng phồng ngồi chễm chệ phía trước như một con chó trung thành. Những giáo viên ở Deepdene có thói quen không bao giờ gọi học sinh bằng tên, cứ luôn là “Trò kia!” hay “Cậu kia!” hay “Nhóc kia!”. Việc này làm cho cuộc sống thật khó khăn và làm bọn con trai luôn phải cảnh giác, cũng có thể đó là lý do các giáo viên gọi như vậy. Cũng có thể là từ lâu họ đã không còn buồn nhớ tên các học sinh của mình. Sherlock không chắc cách giải thích nào là đúng nhất. Có lẽ là cả hai.

Không học sinh nào khác để ý. Chúng đang nói chuyện với những người thân tới đón hoặc háo hức nhìn về phía cổng trường tìm bóng dáng chiếc xe ngựa sẽ đưa chúng về nhà. Sherlock miễn cưỡng quay người lại để xem ngón tay độc ác của số phận có đang chỉ về hướng mình hay không.

Không sai. Ngón tay đó là của thầy Tulley, giáo viên dạy môn Latin. Thầy vừa vòng qua góc trường, nơi Sherklock đang đứng tách biệt khỏi những học sinh khác. Bộ đồ của thầy luôn phủ đầy bụi phấn, giờ đã được giặt một cách đặc biệt cho dịp kết thúc học kỳ và những cuộc gặp gỡ không thể tránh khỏi với các ông bố – những người đang trả tiền để trường dạy dỗ con họ, và cái mũ vuông của thầy ngay ngắn trên đầu như thể được thầy hiệu trưởng dán lên đó.

“Thầy gọi em?”

“Vâng, thưa ngài, tôi gọi ngài”, thầy Tulley gắt lên. “Hãy đến phòng hiệu trưởng quam celerrime . Trò có hiểu nghĩa của từ Latin đó không?”

“Nghĩa là “ngay lập tức”, thưa thầy”

“Vậy thì chạy đi.”

Sherlock liếc nhanh về phía cổng trường. “Nhưng thưa thầy – Em đang chờ ba em tới đón”.

“Tôi chắc là ba trò sẽ không bỏ đi nếu không thấy trò đâu, nhóc”.

Sherlock cố gắng phản đối một lần cuối. “Hành lý của em…”.

Thầy Tulley liếc một cách xem thường cái rương gỗ mòn vẹt của Sherlock – một thứ đồ quân dụng cha nó cho, ố bẩn và trầy trụa do sử dụng lâu. “Tôi chẳng thấy có ai muốn ăn trộm nó”, thầy nói, “trừ người sưu tập đồ cổ. Tôi sẽ để mắt tới nó giùm trò. Bây giờ thì đi nhanh đi”.

Sherlock miễn cưỡng để lại những đồ dùng cá nhân của mình – mấy cái áo sơ-mi và đồ lót dự phòng, những cuốn thơ và sổ ghi chép những ý tưởng, suy nghĩ, suy đoán và những giai điệu bất chợt hiện ra trong đầu – rồi bước về phía cái cổng vòm ở trước trường, len qua đám đông học sinh và gia đình chúng trong khi vẫn tiếp tục hướng mắt về phía cổng, nơi một đám hỗn độn ngựa và xe đang cùng lúc cố gắng vào và ra cái cổng hẹp.

Tiền sảnh ốp gỗ sồi và xung quanh là những bức tượng bán thân bằng đá cẩm thạch của các vị hiệu trưởng tiền nhiệm và những nhà bảo trợ, mỗi bức được đặt trên một bệ tượng riêng. Những tia nắng chiếu xiên từ những cửa sổ ở trên cao xuống sàn lát gạch đen và trắng, làm hiện rõ những hạt bụi phấn xoay tít. Tiền sảnh có mùi phenol mà những người lao công sử dụng để lau sàn mỗi sáng. Đám đông trong tiền sảnh khiến ít nhất một trong những bức tượng chẳng bao lâu nữa sẽ đổ nhào. Một vài tượng đã có những vết nứt lớn làm hỏng mặt đá cẩm thạch hoàn hảo, cho thấy mỗi học kỳ ít nhất một bức tượng ngã xuống sàn, vỡ tan và sau đó được phục chế.

Nó di chuyển trong đám đông, không ai quan tâm đến nó, và cuối cùng nó thoát ra khỏi đám đông và đi vào hành lang dẫn ra khỏi tiền sảnh. Văn phòng thầy hiệu trưởng ở cách đó vài mét. Nó dừng ở ngưỡng cửa, hít sâu, phủi bụi ở cổ áo và gõ cửa.

“Mời vào!” Một giọng nam đầy phô trương vang to.

Sherlock vặn nắm cửa và đẩy cửa mở, cố gắng kiềm chế sự bồn chồn đang lan truyền trong người nó như tia sét. Trước đây nó chỉ đến phòng hiệu trưởng hai lần – một lần với cha nó khi nhập học Deepdene, và sau đó một năm với một nhóm học sinh bị kết tội gian lận khi thi. Ba học sinh cầm đầu bị phạt roi và bị đuổi học; bốn hay năm đứa a dua bị “đòn tét đít” và được ở lại trường. Sherlock – chính là đứa bị nhóm kia copy bài – đã thoát đòn nhờ nói rằng nó không biết gì cả. Thực sự, nó biết tất cả mọi thứ, nhưng nó luôn làm một kẻ ngoài cuộc ở trường, và nếu việc cho các học sinh khác chép bài làm nó khó chịu, nó cũng không đưa ra lý do đạo đức nếu không chấp nhận. Mặt khác, nó cũng không khai ra những đứa chép bài – việc này có thể khiến nó bị đánh và có thể còn bị giữ chặt trước một lò sưởi cháy rừng rực luôn có trong mọi ký túc xá cho đến khi da bị rộp lên và quần áo bốc khói. Cuộc sống ở trường là vậy – luôn phải đi dây giữa thầy giáo và những học sinh khác. Và nó ghét việc đó.

Văn phòng hiệu trưởng vẫn như nó nhớ – rộng mênh mông, mờ tối và có một mùi kết hợp giữa da thuộc và thuốc hút tẩu. Thầy Tomblinson đang ngồi phía sau chiếc bàn giấy đủ lớn để chơi bowling trên đó. Thầy là một người đàn ông béo tốt mặc bộ đồ hơi chật, có lẽ việc đó giúp ông tin rằng mình không thật sự mập như thực tế.

“À, Holmes phải không? Vào đi, chàng trai, vào đi. Đóng cửa lại”.

Sherlock làm theo, nhưng khi nó đẩy cánh cửa, nó nhìn thấy một người khác trong phòng: một người đàn ông đứng trước cửa sổ với ly rượu sherry trên tay. Ánh nắng khúc xạ thành những mảnh cầu vồng từ những hoa văn của cái ly. “Mycroft?” Sherlock thốt lên, kinh ngạc.

Anh trai của nó quay về phía nó, một nụ cười lướt nhanh trên khuôn mặt anh, nhanh đến nỗi nếu Sherlock chớp mắt không đúng thời điểm nó sẽ không thấy được. “Sherlock. Em đã lớn lên nhiều rồi”.

“Anh cũng vậy”, Sherlock trả lời. Thực vậy, anh của nó đã bắt đầu phát phì. Anh ấy trở nên phục phịch gần bằng thầy hiệu trưởng, nhưng bộ đồ của anh được may đo để che đi cái mập hơn là làm nổi bật nó lên. “Anh đi chung xe với ba à?”

Mycroft nhướng một bên lông mày “Điều gì khiến em nghĩ vậy, chàng trai trẻ?”

Sherlock nhún vai “Em thấy những nếp nhăn song song trên quần của anh, chỗ ngồi trên ghế, và em nhớ rằng chiếc ghế trên xe của ba có một vết rách đã được sửa lại khá vụng cách đây vài năm. Vết sửa ấy in trên quần anh, cạnh các vết nhăn”. Nó ngừng lại. “Mycroft, ba đâu?”

Thầy hiệu trưởng đằng hắng để thu hút sự chú ý của nó.

“Ba của em đang—”.

“Ba sẽ không đến”, Mycroft nhẹ nhàng cắt ngang lời thầy. “Trung đoàn của ba được điều sang Ấn Độ để tăng viện cho lực lượng quân sự ở đó. Có vài bất ổn ở khu vực biên giới Tây Bắc. Em biết nó nằm ở đâu chứ?”

“Dạ biết. Tụi em đã học về Ấn Độ trong những bài Địa và Sử”.

“Giỏi lắm”

“Tôi không nghĩ những người dân bản xứ lại gây ra rắc rối”, thầy hiệu trưởng nói lớn. “Trên tờ Times không đăng gì, chắc chắn là như vậy”.

“Không phải những người Ấn Độ đâu”, Mycroft tự tin nói. “Khi chúng ta giành lại Ấn Độ từ công ty Tây Ấn, những người lính ở đó được đặt trở lại dưới quyền kiểm soát của Quân đội. Người ta cho là cách cai trị mới… khắt khe hơn nhiều… so với cách cai trị trước đây. Người ta cảm giác cực kỳ bất an, và chính phủ đã quyết định kiên quyết tăng cường lực lượng quân sự ở Ấn Độ để cho họ thấy những người lính-thật-sự; là như thế nào. Tình hình đủ xấu để người Ấn nổi dậy; không thể nghĩ được sẽ có một cuộc nổi loạn trong quân đội Anh”.

“Vậy là sẽ có một cuộc nổi loạn?” Sherlock hỏi, trái tim nó trĩu nặng như một hòn đá rơi xuống ao. “Ba sẽ an toàn chứ?”

Mycroft nhún đôi vai rộng. “Anh không biết”, anh trả lời một cách đơn giản. Đó là một trong những chuyện làm Sherlock tôn trọng anh trai mình. Anh luôn thẳng thắn đáp lại những câu hỏi thẳng. Không nói giảm. “Đáng buồn là anh không biết hết mọi việc. Ít ra là chưa biết”.

“Nhưng anh làm việc cho chính phủ mà”, Sherlock nhấn mạnh. “Anh phải biết vài điều về chuyện có thể xảy ra. Sao anh không điều trung đoàn khác sang đó. Sao không giữ ba ở lại nước Anh?”

“Anh chỉ mới làm việc ở Bộ Ngoại giao có vài tháng”, Mycroft đáp lại, “và mặc dù anh thấy vui vì em nghĩ anh có quyền thay đổi những việc quan trọng như vậy, nhưng anh e là anh không thể. Anh là một cố vấn. Thật ra anh chỉ là một thư ký”.

“Ba sẽ đi bao lâu?” Sherlock hỏi, nó nhớ người đàn ông to lớn mặc áo khoác đỏ với hai dây đai trắng bắt chéo qua ngực, rất hay cười và hiếm khi mất bình tĩnh. Nó cảm thấy ngực thắt lại nhưng cố kiềm chế cảm xúc. Có một bài học mà nó học được ở Trường Deepdene là đừng bao giờ để lộ bất kỳ cảm xúc nào. Nếu bạn để lộ cảm xúc, nó sẽ được dùng để chống lại bạn.

“Theo anh tính thì mất sáu tuần trên biển, sáu tháng ở đó, và thêm sáu tuần để quay về. Tổng cộng là chín tháng”.

“Gần một năm”. Nó cúi đầu một lúc, tự trấn tĩnh, rồi gật đầu. “Giờ chúng ta có thể về nhà chứ?” Mycroft trả lời.

“Em sẽ không về nhà”, Sherlock chỉ đứng yên đó, từ ngữ như bị nuốt hết vào bụng, không nói gì được.

“Trò ấy không thể ở lại đây”, thầy hiệu trưởng càu nhàu, “Nơi này đang làm vệ sinh”.

Mycroft chuyển cái nhìn điềm tĩnh của anh từ Sherlock sang thầy hiệu trưởng. “Mẹ của chúng tôi… không khỏe”, anh ấy nói, “Đa số thời gian thể chất của bà yếu ớt, và chuyện cha đi xa làm mẹ rất đau khổ. Bà cần sự thanh bình và yên tĩnh, và Sherlock cần một người lớn tuổi hơn chăm nom em”.

“Nhưng mà em đã có anh rồi!” Sherlock phản đối.

Mycroft lắc đầu một cách buồn bã. “Bây giờ anh sống ở London, và công việc của anh đòi hỏi phải làm nhiều giờ mỗi ngày. Anh e là anh không phải là một người giám hộ tốt cho một cậu bé, đặc biệt là một cậu bé hay hỏi như em”. Anh quay về phía thầy hiệu trưởng, như thể nói thông tin tiếp theo với thầy sẽ dễ hơn với Sherlock. “Mặc dù nhà chúng tôi ở Horsham, chúng tôi có họ hàng ở Farnharm, không xa đây lắm. Đó là chú thím chúng tôi. Sherlock sẽ ở với họ trong dịp hè này”.

“Không!” Sherlock bùng nổ.

“Có”. Mycroft nói nhẹ nhàng. “Việc này đã được sắp xếp. Chú Sherinford và thím Anna đã đồng ý nhận em hè này”.

“Nhưng em thậm chí còn chưa gặp họ bao giờ!”

“Tuy vậy, họ là người nhà”.

Mycroft từ biệt thầy hiệu trưởng trong khi Sherlock đứng ngây ra, cố gắng chấp nhận sự tàn nhẫn của việc vừa xảy ra. Không được về nhà. Không được gặp cha mẹ. Không được khám phá những cánh đồng, những khu rừng xung quanh căn nhà trang viên, nơi nó đã sống trong suốt mười bốn năm. Không được ngủ trên cái giường cũ trong căn phòng nằm dưới hiên nhà, nơi nó cất giữ toàn bộ sách vở. Không được lẻn vào bếp nơi bà bếp sẽ đưa cho nó một miếng bánh mì phết mứt nếu nó cười với bà. Thay vào đó, phải ở hàng tuần với những người nó không quen, phải cư xử thật khéo léo ở một thị trấn, ở một hạt hoàn toàn xa lạ. Một mình, cho đến ngày nó quay lại trường.

Nó sẽ xoay xở thế nào đây?

Sherlock đi theo Mycroft ra khỏi phòng hiệu trưởng và dọc theo hành lang dẫn đến tiền sảnh. Một cỗ xe ngựa đang chờ bên ngoài, bốn bánh xe vấy bùn và thành xe bám đầy bụi từ chuyến đi đến trường của Mycroft. Gia huy của gia đình Holmes được vẽ trên cửa xe. Cái rương của Sherlock đã được chất lên sau xe. Một người đánh xe gầy guộc mà Sherlock không quen đang ngồi trên ghế phía trước, sợi dây cương nằm hờ hững trên tay anh ta.

“Làm thế nào anh ta biết cái rương của em?”

Mycroft khoát tay như muốn nói không có gì khó. “Anh thấy nó từ cửa sổ phòng hiệu trưởng. Chỉ có cái rương đó là không có ai trông. Hơn nữa, hồi trước ba hay dùng nó. Thầy hiệu trưởng tốt bụng đã nhờ một cậu bé bảo người đánh xe chất nó lên xe”. Anh mở cửa xe và ra hiệu cho Sherlock bước lên. Thay vì lên xe, Sherlock nhìn quanh trường và nhìn các học sinh.

Mycroft bảo, “Em nhìn cứ như là em sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa.”

“Không phải vậy”, Sherlock đáp. “Chỉ là em đã từng nghĩ em sẽ rời nơi này để đến một nơi tốt hơn. Giờ thì em biết sẽ rời khỏi đây để đến một nơi tệ hơn. Ở đây dù tệ cũng có vài điểm tốt”.

“Sẽ không như vậy đâu. Chú Sherrinford và thím Anna là những người tốt. Chú Sherinford là em của ba”.

“Nếu vậy thì tại sao em chưa bao giờ nghe nói về họ?” Sherlock hỏi. “Tại sao ba không bao giờ nhắc về việc có anh em?”

Mycroft thoáng cau mày. “Anh e rằng đã có một sự rạn nứt trong gia đình. Quan hệ căng thẳng một thời gian. Mẹ đã nối lại liên lạc qua thư cách đây vài tháng. Anh cũng không chắc là ba biết”.

“Và đó là nơi anh muốn gửi em tới?”

Mycroft vỗ vai Sherlock. “Tin anh đi, nếu còn cách nào khác anh đã làm rồi. Giờ em có cần từ biệt bạn bè không?”

Sherlock nhìn quanh. Có những đứa nó quen, nhưng có đứa nào trong đám đó thật sự là bạn không?

“Không”, nó nói. “Chúng ta đi thôi”.

Chuyến đi Farnham mất vài tiếng. Sau khi đi qua Dorking, nơi có những cụm nhà gần Trường Deepdene nhất, chiếc xe ngựa tiếp tục lóc cóc chạy dọc theo những con đường quê, bên dưới những cành cây chìa ra đường, chạy qua những mái nhà tranh đây đó hay những căn nhà to hơn và dọc theo những cánh đồng lúa mạch chín. Ánh nắng gay gắt từ bầu trời không một gợn mây làm chiếc xe như cái bếp lò dù đã có những cơn gió nhẹ thổi vào. Côn trùng vo ve một cách lười biếng bên ngoài cửa sổ. Sherlock nhìn vạn vật lướt qua một lúc. Họ dừng lại ăn trưa ở một quán trọ với thịt giăm-bông, phô-mai và nửa ổ bánh mì. Sherlock ngủ gà ngủ gật. Khi nó tỉnh lại, nhiều tiếng đồng hồ đã trôi qua, chiếc xe ngựa vẫn tiếp tục chạy qua những phong cảnh không đổi. Sherlock nói chuyện một lúc với Mycroft về tình hình ở nhà, về người chị gái, và về sức khỏe yếu ớt của mẹ. Mycroft hỏi thăm chuyện học hành của Sherlock, và Sherlock kể cho anh nghe về các bài học khác nhau mà nó đã học được và nhiều chuyện về các thầy giáo. Nó nhái giọng và kiểu cách trưởng giả của họ, làm cho Mycroft cười vỡ bụng vì sự cay độc và hài hước của nó khi đóng vai họ.

Sau một lúc đã có nhiều nhà hơn nằm ở ven đường và chẳng bao lâu họ đi qua một thị trấn lớn, vó ngựa gõ lộp cộp trên đá sỏi. Ló đầu ra ngoài cửa xe, Sherlock nhìn thấy một tòa nhà trông như tòa thị chính – ba tầng, tường thạch cao màu trắng và xà nhà màu đen, một chiếc đồng hồ lớn treo trên một giá đỡ bên ngoài hai cánh cửa lớn “Farnham à?” Nó đoán.

“Guildford”, Mycroft trả lời. “Sắp tới Farnham rồi”.

Con đường rời Guildford đi dọc theo một dãy đồi, hai bên mặt đất thoải xuống thấp, những cánh đồng và rừng nằm rải rác như đồ chơi, với những mảng hoa vàng vắt qua chúng.

“Dãy đồi này tên là Hog’s Back[1]”, Mycroft nói. “Có một trạm truyền tin ở phía trước, trên đồi Pewley, là một trong chuỗi trạm truyền tin bắt đầu từ tòa nhà Bộ Hải quân ở London đến tận cảng Portsmouth. Họ có dạy cho em về truyền tin ở trường không?”

Sherlock lắc đầu.

“Thật điển hình”, Mycroft càu nhàu. “Nhồi vào sọ thằng bé tất cả tiếng Latin, nhưng lại không dạy nó những thứ có thể áp dụng trong thực tế”. Anh ấy thở dài một cách nặng nề. “Truyền tin là phương pháp để truyền tin tức một cách nhanh chóng qua khoảng cách xa mà người ta có thể mất nhiều ngày nếu dùng ngựa. Trạm truyền tin có những tấm bảng đặt trên mái nhà có thể nhìn thấy từ xa, có sáu lỗ lớn có thể đóng hay mở bằng cửa chớp. Tùy theo lỗ nào mở hay đóng mà tấm bảng thể hiện một ký tự. Một nhân viên ở trạm truyền tin sẽ quan sát trạm trước và trạm sau bằng kính viễn vọng. Nếu anh ta thấy một tin nhắn được phát ra anh ta sẽ viết nó lại và sau đó lặp lại thông qua bảng truyền tin của anh ta, và nhờ vậy các tin nhắn được truyền đi. Chuỗi truyền tin đặc biệt này bắt đầu từ Bộ Hải quân, rồi đi qua Chelsea và Kingston đến đây, rồi đi thẳng đến Xưởng đóng tàu Portsmouth. Có một chuỗi khác chạy xuống Xưởng đóng tàu Chatham, và những chuỗi khác đến Deal, Sheerness, Great Yarmouth và Plymouth. Chúng được xây dựng để Bộ Hải quân có thể truyền tin nhanh chóng đến lực lượng Hải quân trong trường hợp người Pháp xâm chiếm đất nước. Bây giờ, nói cho anh biết, nếu có sáu cái lỗ, và mỗi cái có thể đóng hoặc mở, thì có bao nhiêu kết hợp khác nhau có thể biểu thị ký tự, chữ số hay những ký hiệu khác?”

Cố gắng hết sức để chứng tỏ với anh trai rằng mình vừa kết thúc học kỳ. Sherlock nhắm mắt lại và tính toán một thoáng. Một lỗ có hai trạng thái: mở và đóng. Hai lỗ có bốn trạng thái: mở-mở, mở-đóng, đóng-mở, đóng-đóng. Ba lỗ… Nó tính nhanh trong đầu, và rồi một kết quả hiện ra. Cuối cùng nó nói “Sáu mươi bốn”.

“Giỏi lắm”. Mycroft gật đầu. “Anh mừng vì môn toán của em ít nhất cũng đạt yêu cầu”. Anh nhìn ra cửa sổ bên phải. “A, Aldershot, Một nơi thú vị. Cách đây mười bốn năm nó được nữ hoàng Victoria chọn làm căn cứ địa của quân đội Anh. Trước đó nó là một xóm nhỏ với chưa đến một ngàn dân. Bây giờ thì có khoảng mười sáu ngàn người và con số vẫn còn tăng thêm”.

Sherlock vươn cổ nhìn qua hướng anh trai để xem có gì ở ngoài, nhưng từ góc nhìn đó nó chỉ thấy vài căn nhà rải rác và dường như là một đường xe lửa chạy song song với con đường ở cuối con dốc. Nó lại dựa người vào ghế và nhắm mắt lại, cố gắng không nghĩ đến những gì chờ đợi ở phía trước.

Một lúc sau nó có cảm giác xe đang chạy xuống dốc và một lúc sau xe quẹo vài lần, tiếng vó ngựa gõ xuống mặt đá đã chuyển thành mặt đất nện. Nó nhắm mắt thật chặt, cố trì hoãn thời điểm nó phải chấp nhận hiện thực.

Chiếc xe dừng lại trên sỏi. Tiếng chim hót và tiếng gió thổi qua lá tràn ngập trong xe. Sherlock có thể nghe tiếng bước chân lạo xạo đi về phía họ.

“Shelock”, Mycroft nhẹ nhàng nói. “Đã đến lúc trở về hiện thực”.

Nó mở mắt ra.

Xe dừng lại ngoài cổng một căn nhà lớn. Căn nhà được xây bằng gạch đỏ, cao vút tầm mắt: ba tầng cộng thêm một loạt các phòng ở tầng áp mái với những cửa sổ nhỏ nằm giữa lớp ngói xám. Một người hầu chuẩn bị mở cửa xe cho Mycroft. Sherlock nhích qua để bước xuống sau Mycroft.

Một phụ nữ đang đứng trong bóng mát ở bậc trên cùng của ba bậc đá dẫn tới vòm cổng ngay trước lối vào chính. Bà ta mặc toàn màu đen. Mặt bà ốm và choắt lại, môi mím chặt, mắt ti hí, như thể ai đó đã bỏ giấm vào tách trà của bà sáng nay. “Chào mừng quí vị đến trang viên của gia đình Holmes; tôi là bà Eglantine”, bà ta nói với giọng khô khốc và lạt lẽo. “Tôi là quản gia ở đây”. Bà ta liếc nhìn Mycroft. “Ông Holmes sẽ tiếp ông ở thư viện, khi ông đã sẵn sàng”. Bà ta chuyển ánh nhìn chằm chằm sang Sherlock. “Người giúp việc sẽ mang… hành lý của cậu… lên phòng cậu, thưa cậu Holmes. Buổi trà trưa sẽ được dọn lúc ba giờ. Xin vui lòng ở yên trong phòng cho đến lúc đó”.

“Tôi không ở lại dùng trà được”, Mycroft nói một cách nhẹ nhàng. “Thật tiếc vì tôi phải quay về London”. Anh quay về phía Sherlock, ánh mắt vừa có vẻ thông cảm, vừa trìu mến của một người anh và vừa như nhắc nhở. “Hãy cẩn thận nhé, Sherlock”, anh nói. “Anh chắc chắn sẽ quay lại vào cuối hè để đưa em về trường, và nếu có thể anh sẽ ghé thăm em trong kỳ nghỉ hè. Hãy là một cậu bé ngoan, và tìm dịp để khám phá khu vực xung quanh. Anh nghĩ là chú Sherrinford có một thư viện hiếm có. Hãy hỏi chú nếu em muốn đọc những điều khôn ngoan chứa ở đó. Anh sẽ để lại địa chỉ liên lạc của anh cho bà Eglantine – nếu cần em hãy gửi điện tín hoặc viết thư cho anh”. Anh vươn tới đặt tay lên vai an ủi Sherlock. “Họ là những người tốt”, anh nói nhỏ để bà Eglantine không nghe thấy, “nhưng như mọi người trong họ nhà Holmes, họ có tính lập dị. Hãy để ý và cẩn thận đừng chọc giận họ. Hãy viết thư cho anh nếu em gặp rắc rối. Nhớ là em sẽ không ở đây suốt đời. Chỉ vài tháng thôi. Can đảm lên”. Anh siết vai Sherlock một cách trìu mến.

Sherlock cảm thấy một cơn giận và cảm giác thất vọng sôi trào lên cổ họng và chặn ngang ngực nó. Nó không muốn Mycroft nhìn thấy phản ứng của nó và cũng không muốn khởi đầu thời kỳ ở Trang viên Holmes một cách tồi tệ. Điều nó làm trong vài phút tới có thể sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ thời gian nó ở đây.

Nó đưa tay ra. Mycroft mỉm cười ấm áp bỏ tay khỏi vai Sherlock và nắm lấy tay nó.

“Tạm biệt”, Sherlock nói với giọng điềm tĩnh nhất mà nó có thể. “Cho em gửi lời thăm mẹ và Charlotte. Nếu anh có thêm tin gì về ba nhớ cho em biết”.

Mycroft quay đi và bước lên các bậc thang vào sảnh. Bà Eglantine nhìn thẳng mặt Sherlock một thoáng với vẻ vô cảm, rồi bà quay đi và dẫn đường cho Mycroft vào nhà.

Quay lại nhìn, Sherlock thấy người hầu đang cố gắng nhấc cái rương của nó lên vai. Khi đã lấy được thăng bằng, anh ta loạng choạng bước lên lầu, Sherlock bước theo với nỗi chán chường.

Tiền sảnh được lát gạch trắng, đen, chân tường ốp gỗ gụ, với chiếc cầu thang lộng lẫy bằng đá hoa cương từ lầu trên chảy xuống như một thác băng, trên tường treo vài bức tranh tôn giáo, phong cảnh và thú vật. Mycroft vừa bước qua cửa một căn phòng ở bên trái cầu thang. Sherlock thoáng thấy trong phòng đầy những cuốn sách bìa bọc da màu xanh lá cây. Một ông già gầy gò mặc bộ đồ đen kiểu cũ đang đứng lên khỏi một chiếc ghế bọc da hợp màu một cách hoàn hảo với những cuốn sách phía sau. Ông ta để râu, mặt nhìn góc cạnh và nhợt nhạt, da đầu lốm đốm những vết đồi mồi.

Cửa phòng đóng lại khi họ đang bắt tay nhau. Người hầu đi qua sàn gạch đến chân cầu thang, xốc lại cái rương trên vai anh ta. Sherlock đi theo sau.

Bà Eglantine đang đứng ở chân cầu thang, bên ngoài thư viện. Bà ta nhìn chòng chọc phía trên đầu Sherlock về phía cửa thư viện.

“Cậu bé, hãy nhớ rằng cậu không được chào đón ở đây”, bà ta rít lên khi nó đi ngang qua.