CHƯƠNG 2
Ngồi ở cánh rừng bên ngoài Farnham, Sherlock có thể nhìn thấy từ chỗ nó, mặt đất dốc về phía một con đường đất chạy ngoằn ngoèo qua những bụi cây thấp giống như một lòng sông cạn cho đến khi biến ra khỏi tầm mắt. Phía bên kia thị trấn, trên lưng đồi có một lâu đài nhỏ nép mình bên rặng cây. Không có ai khác ở quanh đó. Nó ngồi đó thật lặng lẽ và thật lâu đến mức các con thú đã dần quen với nó. Rất hay có tiếng sột soạt trong đám cỏ cao khi một chú chuột nhắt hoặc chuột đồng chạy qua, trong khi những con diều hâu lượn vòng một cách lười biếng trên bầu trời xanh cao, chờ đợi một con thú nhỏ nào đó khờ khạo xuất hiện ở khoảng trống.
Gió thổi xào xạc trên những tán lá phía trên nó. Nó để đầu óc mình thơ thẩn, cố không nghĩ đến quá khứ hay tương lai, cố chỉ sống những giây phút này càng lâu càng tốt. Quá khứ như một vết bầm làm nó đau đớn, còn tương lai gần thì không phải là thứ nó muốn nhanh chóng đối mặt. Chỉ có cách để tiếp tục là không nghĩ về bản thân, để mình bị cuốn theo tiếng gió thổi nhẹ và để các con thú di chuyển quanh nó.
Đến giờ nó đã sống ở Trang viên Holmes được ba ngày, và mọi thứ cũng không tốt hơn cảm nhận ban đầu của nó. Điều tệ nhất là bà Eglantine. Bà quản gia là một bóng ma luôn hiện hữu ở mọi ngóc ngách của căn nhà. Bất cứ khi nào quay đầu lại, dường như nó đều thấy bà, đứng trong bóng tối quan sát nó bằng đôi mắt nheo lại. Bà hiếm khi nói quá ba câu với nó. Còn nó, theo nó biết được yêu cầu xuất hiện vào bữa sáng, bữa trưa, buổi trà xế và bữa tối, không nói năng gì, ăn ít hết mức có thể, rồi biến mất cho đến bữa ăn sau; cuộc đời của nó sẽ tiếp diễn như vậy cho đến khi kỳ nghỉ hè kết thúc và Mycroft đến để giải thoát nó khỏi cái án tù này.
Sherrinford và Anna Holmes – chú và thím nó – thường có mặt vào bữa sáng và bữa tối. Sherrinford có dáng vẻ oai vệ: cao như người anh trai nhưng ốm hơn nhiều, gò má cao, trán dô ra ở phía trước nhưng lại lõm vào ở hai bên thái dương, bộ râu trắng rậm rạp dài đến tận ngực nhưng tóc thì lại thưa thớt đến nỗi Sherlock thấy giống như vẽ từng sợi tóc lên trên da đầu, sau đó quét một lớp véc-ni mỏng. Giữa các bữa ăn ông biến mất trong phòng làm việc hay thư viện. Từ những mẩu đối thoại, Sherlock biết được rằng ông đang viết những cuốn sách tôn giáo và các bài thuyết giáo cho các cha xứ khắp cả nước. Trong ba ngày qua, điều duy nhất có nội dung mà ông nói với Sherlock khi nhìn nó chằm chằm một cách đáng ngại trong buổi ăn trưa là: “Trạng thái tâm hồn của con là gì vậy cậu bé?” Sherlock chớp mắt, đưa nĩa lên miệng. Nhớ đến thầy Tulley, giáo viên tiếng Latin ở Deepdene, nó đáp: “Extra ecclesiam nulla salus;”. Câu này nó khá chắc chắn nghĩa là: “Không có sự cứu rỗi nào bên ngoài nhà thờ”. Câu trả lời có vẻ hiệu quả: Sherrinford Holmes gật đầu, lẩm bẩm: “À, Thánh Cyprian của Carthage, tất nhiên rồi”, và quay lại với đĩa thức ăn.
Bà Holmes – hay thím Anna – là một phụ nữ nhỏ nhắn, như một con chim, luôn chuyển động không ngừng. Ngay cả khi đang ngồi tay của bà cũng vặn vẹo liên tục, không bao giờ để yên phút nào dù đang ở đâu. Theo Sherlock thì bà nói liên tục, nhưng không thật sự nói với bất kỳ ai. Dường như bà thích độc thoại không ngừng mà không mong bất kỳ ai tham gia vào hay trả lời những câu hỏi tu từ của bà.
Thức ăn ở đây ít nhất là ăn được – khá hơn những bữa ăn ở Trường Deepdene. Hầu hết là rau củ – cà rốt, khoai tây và bông cải mà Sherlock đoán được trồng trên đất của trang viên – nhưng bữa ăn nào cũng có thịt, và không như cái thứ thịt xam xám, sừng sực và thường là khó nhận ra thịt gì mà nó hay ăn ở trường, món thịt ở đây luôn thơm ngon: đùi heo giăm-bông, đùi gà, thịt phi-lê nghe nói là cá hồi, và một dịp còn có những miếng thịt lớn lạng ra từ tảng vai cừu đặt ở giữa bàn ăn. Nếu không cẩn thận nó có thể sẽ tăng cân rất nhiều và sẽ bắt đầu giống như Mycroft.
Phòng của nó ở tầng áp mái, không hoàn toàn là khu của người hầu nhưng cũng không nằm trong khu của người nhà. Trần của căn phòng nghiêng dần từ cửa đến cửa sổ cùng độ nghiêng với mái nhà, nghĩa là muốn đi quanh quẩn trong phòng nó phải khom người xuống, trong khi sàn nhà là những tấm gỗ láng được bao phủ bằng một tấm thảm cổ bạc màu. Giường của nó cũng cứng như cái giường ở Trường Deepdene. Hai đêm đầu, sự yên lặng làm nó thao thức hàng giờ. Nó đã quen nghe tiếng ngáy của ba mươi thằng con trai, tiếng tụi nó lầm bầm trong mơ hay nức nở lặng lẽ, việc thiếu những tiếng động này làm nó khó chịu, rồi nó mở cửa sổ cho thoáng và phát hiện ra rằng đêm tối không hề yên lặng chút nào, mà tràn ngập một loại tiếng động tinh tế hơn. Từ đó nó được ru ngủ bởi tiếng cú kêu, tiếng cáo hú và tiếng vỗ cánh đột ngột khi có gì đó làm những con gà phía sau nhà hoảng sợ.
Mặc dù anh nó có khuyên, nó cũng không thể vào thư viện và ngồi đó với một quyển sách. Sherrinford Holmes ở trong đó suốt ngày, nghiên cứu những quyển sách tôn giáo hay thuyết giáo, và Sherlock sợ quấy rầy ông. Thay vào đó, nó lang thang ngày càng xa, bắt đầu là khu đất ở trước và sau nhà, khu vườn có tường bao, khu chuồng gà và khu trồng rau cải, rồi trèo qua những bức tường đá bao quanh nhà ra ngoài đường, và cuối cùng là mở rộng ra khu rừng cổ nép sát phía sau ngôi nhà. Trước đây nó thường đi khám phá khu rừng sau nhà một mình hoặc với chị nó, nhưng những khu rừng ở đây thì già và bí hiểm hơn.
“Dân thành phố có thể thật sự ngồi yên như vậy hả?”
“Cậu cũng vậy thôi”, Sherlock trả lời với giọng nói phía sau nó. “Cậu ngồi nhìn mình nữa tiếng rồi”.
“Sao cậu biết?” Sherlock nghe tiếng uỵch một cái như có người nào vừa nhảy từ một cành cây thấp xuống đám dương xỉ phủ kín mặt đất.
“Cây nào cũng có chim đậu trừ một cây – cái cây cậu ngồi đó. Rõ ràng là cậu làm cho tụi nó sợ”.
“Mình không làm hại tụi nó, cũng như mình không hại cậu”.
Sherlock chậm rãi quay đầu lại. Giọng nói là của một thằng bé trạc tuổi nó, người nhỏ nhưng chắc hơn cái thân hình gầy và cao lêu nghêu của nó. Tóc thằng bé dài vừa chấm vai. “Mình không chắc là cậu có thể”, nó nói điềm tĩnh hết mức có thể trong hoàn cảnh đó.
“Mình có thể đánh lén, và mình có một con dao”. Thằng bé nói.
“Vậy à, nhưng mình đã coi rất nhiều trận đấm bốc ở trường, và mình có sải tay dài”. Sherlock nhìn trừng trừng thằng bé với vẻ trầm trọng. Quần áo thằng bé đầy bụi, may từ loại vải thô và bị sờn ở nhiều chỗ, mặt, hai bàn tay và các móng tay dơ bẩn.
“Trường học?” thằng bé hỏi. “Họ dạy đấm bốc ở trường hả?”
“Trường mình có dạy. Họ nói môn đó làm tụi mình cứng rắn lên”.
Thằng bé ngồi xuống kế bên Sherlock. “Chính cuộc sống làm cậu cứng rắn”, nó lầm bầm rồi nói thêm: “Tên của mình là Matty. Matty Arnatt”.
“Matty giống như Mathews hả?”
‘Mình nghĩ vậy. Cậu sống ở căn nhà lớn phía dưới con đường hả?”
Sherlock gật đầu. “Chỉ những ngày hè thôi. Với chú và thím mình. Tên mình là Sherlock – Sherlock Holmes”.
Matty liếc nhìn Sherlock với vẻ trầm trọng. “Đó không phải là tên riêng”.
“Cái gì, Sherlock hả?” Nó nghĩ một lúc. “Tên đó có gì không đúng?”
“Cậu có biết người nào khác tên Sherlock không?”
Sherlock nhún vai. “Không”.
“Vậy tên ba cậu là gì?”
Sherlock nhíu mày. “Siger”
“Còn chú cậu? Người mà cậu đang ở nhờ?”
“Sherrinford”.
“Cậu có anh em trai không?”
“Có, một”.
“Tên anh ta là gì?”
“Mycroft”.
Matty lắc đầu với vẻ trầm trọng. “Sherlock, Siger, Sherrinford and Mycroft. Đúng là một mớ bòng bong! Sao không đặt tên gì truyền thống hơn, như Matthew, Mark, Luke hay John?”
“Đó là họ”, Sherlock giải thích. “Và đó đều là những cái tên truyền thống. Tất cả những người đàn ông trong gia đình mình đều có những cái tên như vậy”. Nó ngừng một lúc rồi tiếp. “Có lần ba mình nói một nhánh của gia đình mình đến Anh từ vùng Scandinavia, và những cái tên chắc xuất phát từ nơi đó. Mình nghĩ “Siger” có thể là tên của người Scandinavia nhưng những cái tên khác nghe giống như địa danh trong tiếng Anh cổ. Mặc dù nơi xuất phát cái tên “Sherlock” là một bí ẩn. Có thể lúc đầu nó là Sher Lock hay là Sheer Lock tên một con kênh nào đó”.
“Cậu có vẻ biết nhiều thứ”, Matty nói, “nhưng cậu không biết nhiều về các con kênh đâu. Mình chưa đi qua bất kỳ con kênh nào tên là Sher Lock hay Sheer Lock hết. Còn chị em cậu? Họ có vài cái tên ngớ ngẩn chứ?”
Sherlock cau mày, nhìn qua chỗ khác. “Cậu sống ở quanh đây hả?”
Matty liếc nhìn Sherlock một lát, rồi dường như chấp nhận chuyện Sherlock muốn thay đổi chủ đề câu chuyện. “Ừ”, nó nói, “chỉ một thời gian thôi. Mình là loại người hay đi đây đó”.
Sherolck ngẩng lên chú ý. “Đi đây đó. Ý cậu là cậu là dân Di-gan? Hay là người của gánh xiếc?”
Matty khụt khịt mũi vẻ chế giễu. “Khi có ai gọi mình là dân Di-gan mình sẽ đấm vào mặt họ. Mà mình cũng không ở bất cứ gánh xiếc nào. Mình nói thật đó”.
Sherlock bất chợt nhớ ra vài điều thằng bé đã nói trước đó. “Cậu nói là chưa thấy con kênh nào tên là Sher Lock hay Sheer Lock hết. Cậu sống trên kênh rạch hả? Gia đình cậu có một con thuyền hả?”
“Mình có một chiếc thuyền nhỏ, nhưng mình không có gia đình. Chỉ có một mình thôi. Mình và Albert”.
“Ông của cậu hả?” Sherlock đoán.
“Một con ngựa”, Matty sửa lại. “Albert kéo chiếc thuyền”.
Sherlock chờ một lúc để nghe Matty nói tiếp. Khi nó không nói gì, Sherlock hỏi: “Gia đình cậu thì sao? Việc gì xảy ra với họ?”
“Cậu có thấy là cậu hỏi quá nhiều không?”
“Đó là cách duy nhất để biết mọi việc”.
Matty nhún vai. “Ba mình từng ở trong Hải quân. Ông ấy ra khơi trên một con tàu rồi không bao giờ quay về. Mình không biết là ba mình chết chìm hay là ở lại một cảng nào đó trên thế giới, hay đã trở lại nước Anh và không buồn trở về nhà. Mẹ mình chết cách đây vài năm. Bệnh phổi”.
“Mình rất tiếc”.
“Họ không cho mình gặp mẹ”, Matty tiếp tục như không nghe thấy, mắt nhìn ra xa. “Bà yếu dần. Ốm và nhợt nhạt hơn, giống như là bà chết dần từng phân một. Bà ho ra máu hằng đêm. Mình biết họ sẽ đưa mình vào trại tế bần khi bà mất nên mình trốn đi. Mình không thể vào trại tế bần. Hầu hết những người vào đó đều không thể trở ra lại, hay nếu có thể ra họ cũng không thể ra ngoài một cách lành lặn, cả về thể xác lẫn tinh thần. Đi bằng đường kênh đào nhanh hơn là đi bộ, mình có thể đi xa hơn trong thời gian ngắn”.
“Cậu lấy chiếc thuyền ở đâu?” Sherlock hỏi. “Có phải của gia đình cậu không?”
“Gần như không”, Matty thở hắt ra nói. “Cứ xem như là mình tìm thấy nó và đừng bàn về nó nữa”.
“Vậy làm sao cậu sống được? Cậu làm gì để kiếm ăn?”
Matty nhún vai. “Mùa hè mình làm việc ở các cánh đồng, hái trái cây hoặc cắt lúa mì. Mọi người đều muốn nhân công rẻ, nên họ không ngại mướn trẻ em. Mùa đông mình làm những việc lặt vặt: nơi này thì làm vườn, nơi khác thì thay ngói đầu mái nhà thờ. Mình làm mọi thứ trừ việc lau ống khói và làm việc dưới hầm mỏ. Đó là những cái chết từ từ”.
“Cậu nghĩ đúng”, Sherlock đồng ý. “Cậu ở Farnharm bao lâu rồi?”
“Khoảng hai tuần. Một nơi tốt đấy”, Matty thừa nhận. “Mọi người ở đây khá thân thiện và họ không quấy rầy cậu nhiều. Đây là một thị trấn đáng tin và đáng kính”. Nó do dự một chút. “Ngoại trừ việc…”
“Ngoại trừ việc gì?”
“Không có gì”. Nó lắc đầu, tự kiềm chế mình. “Nghe nhé. Mình đã quan sát cậu một hồi lâu. Cậu không có bạn bè ở đây và trông cậu không ngu ngốc. Cậu có thể hiểu ra vấn đề. Thế này, mình nhìn thấy một thứ ở thị trấn và mình không thể giải thích được”. Nó hơi xấu hổ nhìn ra chỗ khác. “Mình nghĩ là cậu có thể giúp mình”.
Sherlock nhún vai, háo hức. “Mình sẽ cố. Cái gì vậy?”
“Tốt nhất là mình cho cậu xem” Matty lau hai tay lên quần. “Cậu có muốn đi vòng quanh thị trấn trước không? Mình có thể nói với cậu đâu là nơi tốt nhất để ngồi ăn uống và ngắm người qua lại. Và đâu là con hẻm tốt nhất để chạy trốn và những đường cùng mà cậu cần tránh”.
“Cậu cũng chỉ mình chiếc thuyền của cậu nhé?”
Matty liếc nhìn Sherlock. “Có thể. Nếu mình quyết định là có thể tin cậu”.
Cả hai đứa cùng nhau đi xuống con dốc về phía con đường dẫn vào thị trấn. Bầu trời trong xanh, và Sherlock có thể ngửi thấy mùi khói từ một lò sưởi và tiếng ai đó xa xa đang chặt cây nghe đều đặn như tiếng tích tắc của đồng hồ bỏ túi. Khi hai đứa băng qua một bãi cây tạp, Matty chỉ vào một con chim đang lượn trên cao. “Chim ó”, nó nói ngắn gọn. “Chúng luôn theo dõi mọi thứ”.
Chúng mất gần một giờ để đến thị trấn cách đó vài dặm. Sherlock cảm thấy các bắp thịt ở chân và phần dưới lưng căng ra mỗi khi nó bước đi. Ngày mai nó sẽ bị căng cơ và đau nhức, nhưng ngay lúc này việc vận động làm tan đi cái cảm giác chán nản u ám thường trực từ khi nó đến Trang viên Holmes.
Khi chúng đến gần thị trấn hơn, các căn nhà bắt đầu xuất hiện ngày càng thường xuyên dọc hai bên đường, Sherlock bắt đầu nhận ra một thứ mùi mốc meo khó chịu theo gió bay qua vùng quê.
“Mùi gì vậy?” nó hỏi.
Matty hít hít mũi. “Mùi gì đâu?”
“Cái mùi đó đó. Chắc chắn cậu phải ngửi thấy chứ? Mùi giống như một tấm thảm bị ướt và không được phơi khô”.
“Đó là mùi từ nhà máy bia. Có khá nhiều nhà máy rải rác dọc theo con sông. Nhà máy của Barratt là cái lớn nhất. Ông ta đang mở rộng nhà máy vì quân đội vừa đóng ở Aldershot. Đó là mùi của lúa mạch ướt. Bia đã biến ba mình thành người xấu. Ông ấy vào Hải quân để trốn nó, nhưng ở đó ông ấy lại dính vào rượu mạnh”.
Bây giờ bọn nó đã đến rìa nội thị, có nhiều căn nhà gạch và nhà gỗ hơn là đất trống. Nhiều căn nhà được xây bằng gạch đỏ, với mái lợp bằng tranh buộc chặt và phồng lên như ổ bánh mì hoặc với mái ngói màu đỏ sậm. Đằng sau những ngôi nhà là một con dốc thoai thoải dẫn đến một lâu đài đá màu xám nằm chót vót phía trên thị trấn. Con dốc chạy lên cao hơn, vượt qua tòa lâu đài, đến một đỉnh dốc phía xa xa. Sherlock không thể không thắc mắc tại sao lại xây lâu đài ở vị trí đó nếu bất kỳ kẻ tấn công nào cũng có thể lên cao hơn nó và dội xuống đó một trận mưa tên, đá và lửa cho đến khi chán thì thôi.
“Ở đây họ họp chợ mỗi ngày”, Matty tình nguyện giới thiệu. “Ở quảng trường thị trấn, người ta bán cừu, bò, bánh và mọi thứ. Đây là chỗ tốt để mót đồ ăn sau khi mọi người dọn hàng vào cuối ngày. Họ luôn vội vã ra khỏi đây trước khi mặt trời lặn nên có đủ thứ món rớt khỏi các quầy hàng, hoặc bị vứt đi vì hơi bị hư hoặc bị sâu. Cậu có thể ăn được kha khá những thứ họ để lại”.
“Thật thú vị”, Sherlock nói không hào hứng. Các bữa ăn ở Trang viên Holmes ít nhất cũng đáng mong đợi, mặc dù bầu không khí trong bữa ăn thì không.
Giờ chúng đã vào nội thị, và đường sá đầy người đến nỗi hai đứa phải bước khỏi vỉa hè và đi xuống lòng đường lồi lõm để khỏi đụng người đi đường. Sherlock bỏ hầu hết thời gian để dòm chừng những đống phân, cố không đạp trúng. Quần áo nhìn chung đã khá hơn, với áo vét và cà vạt trang nhã cho đàn ông và áo đầm cho phụ nữ lấn át các kiểu quần ống túm, áo chẽn và áo khoác ngoài được những người chúng đã gặp ở nông thôn hay mặc. Có nhiều chó ở đây, cả được chăm sóc tốt và được dẫn đi dạo lẫn chó hoang ghẻ lở đang tìm thức ăn. Những con mèo ốm o, mắt to đang ngồi dưới các bóng râm. Trên đường phố những con ngựa kéo xe chở hàng và các cỗ xe qua lại ở cả hai hướng, đè nghiến lên các đống phân làm chúng lún sâu hơn vào các vết hằn trên đường.
Khi bọn nó đến con hẻm rẽ ngang khỏi đường chính, Matty ngừng lại.
“Có chuyện gì vậy?” Sherlock hỏi.
Matty lưỡng lự. “Thứ mình đã nhìn thấy”. Nó nhún vai. “Nó ở phía dưới đó, cách đây vài ngày. Có gì đó mà mình không biết”.
“Cậu có muốn chỉ cho mình không?”
Thay cho câu trả lời, Matty chạy xuôi con hẻm. Sherlock chạy nước rút để bắt kịp nó.
Vượt qua khúc quanh gắt, chúng đến một con hẻm hẹp đến nỗi Sherlock có thể đưa tay ra chạm vào những căn nhà ở cả hai bên hẻm. Mọi người đang nhô người ra khỏi những cửa sổ ở tầng trên nói chuyện với người khác dễ dàng như họ đang tựa vào hàng rào sân vườn. Matty nhìn chằm chằm lên một cái cửa sổ. Căn phòng trống không, cửa ra vào phía dưới đang đóng. Chỗ này nhìn như bị bỏ hoang.
“Nó ở trên đó”, nó nói. “Mình thấy một làn khói, nhưng nó di chuyển được. Nó đi ra phía ngoài cửa sổ, bò lên tường rồi biến mất trên mái nhà”.
“Làn khói không làm được như vậy”, Sherlock nói.
“Nhưng cái làn khói này đã làm vậy”, Matty khẳng định.
“Hay là gió thổi nó”.
“Có thể”. Matty dường như chưa bị thuyết phục. Chân mày nó nhíu tít lại khi hồi tưởng chuyện đã xảy ra. “Mình nghe tiếng ai đó thét lên bên trong. Rồi mình bỏ chạy, vì mình rất sợ, nhưng sau đó mình có quay lại. Lúc đó, có một chiếc xe ngựa trước nhà và người ta chất một xác chết vào xe. Có một tấm vải liệm đắp lên cái xác, nhưng nó bị vướng ở cửa rồi rơi ra. Mình nhìn thấy cái xác. Mình đã nhìn thấy khuôn mặt”. Nó quay sang Sherlock, mặt nó trông như một cái mặt nạ đầy sợ hãi và hoang mang. “Anh ta bị bao phủ bởi mụn nhọt – những nhọt lớn màu đỏ, đầy trên mặt, cổ và hai cánh tay – và mặt của anh ta co rúm lại giống như anh ta chết trong cơn đau tột độ. Cậu có nghĩ đó là bệnh truyền nhiễm? Mình có nghe nói về nó, nó đã tàn phá đất nước này trước đây. Cậu có nghĩ nó đã quay trở lại?”
Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc hai vai Sherlock. “Mình nghĩ đó có thể là sự bắt đầu của một đại dịch, nhưng một người chết thì chưa phải là dịch. Có thể đó là bệnh ban đỏ hay một thứ nào đó khác.
“Vậy còn cái bóng mình thấy di chuyển lên mái nhà – đó là cái gì? Đó có phải là linh hồn của người chết? Hay thứ đến lấy linh hồn của ông ta?”
“Đó chỉ là ảo giác do các tia nắng và bóng mây lướt qua lúc đó tạo ra”, Sherlock khẳng định. Nó nắm vai Matty và kéo nó đi. “Thôi nào, mình đi đi”.
Nó hướng Matty đi xa khỏi căn nhà và xuôi con đường hẹp. Chỉ trong giây lát bọn nó đã trở lại con đường chính đi qua Farnham. Matty trông nhợt nhạt và lặng lẽ.
“Cậu ổn chứ?” Sherlock hỏi nhẹ nhàng.
Matty gật đầu. “Mình xin lỗi”, nó nói, mặt ngượng ngùng. “Chỉ là… nó làm mình sợ. Mình không thích bệnh tật, kể từ khi…”
“Mình hiểu. Nhìn nè, mình không biết cậu đã nhìn thấy gì, nhưng mình sẽ suy nghĩ về nó. Chú mình có một thư viện – câu trả lời có thể ở đó. Hoặc ở chỗ lưu trữ báo của thị trấn”.
Cả hai đi qua một chiếc cầu nhỏ và trở lại thị trấn. Con đường đi qua một loạt cửa gỗ gắn trong một bức tường đá.
Một con thú gì đó đang nằm bên các cánh cổng, chân duỗi dài cứng nhắc, không nhúc nhích. Lông nó dơ và xám xịt. Mới đầu Sherlock nghĩ đó là con chó, nhưng khi đến gần hơn nó thấy cái mõm nhọn, những cái chân ngắn, những đường sọc vằn trắng đen – giờ thành màu xám nhạt và xám đậm – chạy dọc đầu nó. Đó là một con lửng, và Sherlock để ý thấy bụng nó gần như dẹp lép trên mặt đường. Nó đã bị cán, thủ phạm có lẽ là bánh xe ngựa.
Matty đi chậm lại khi tiến đến gần. “Cậu nên cẩn thận khi đi ngang qua đây”, nó giãi bày như thể nó hoàn toàn an toàn, còn Sherlock mới là người phải lo lắng. “Mình không biết người ta làm gì trong đó, nhưng có những bảo vệ ở trong.
Họ có dùi cui và câu liêm. Cả những gã “khỉ đột” nữa”.
Sherlock đang tính nói rằng rất có thể những người đàn ông đang bảo vệ tiền lương của công nhân thì cánh cổng mở ra. Có hai người đàn ông bước ra ngoài đường, mặt họ méo mó, đầy sẹo và hung tợn nhưng những bộ quần áo bằng nhung đen của họ lại không tì vết. Họ nhìn trái nhìn phải, quan sát bọn trẻ một thoáng và không để ý đến chúng, rồi ra dấu cho ai đó bên trong.
Một chiếc xe được một con ngựa ô kéo chầm chậm ra khỏi sân. Đánh xe là một người đàn ông đồ sộ với hai bàn tay như hai cái xẻng, cái đầu trọc của ông ta đầy sẹo. Bọn họ đóng cổng, nhảy lên phía sau xe, bám chặt khi chiếc xe rời đi.
“Để xem những ngài quí phái này có cho chúng ta đồng xu lẻ nào không”, Matty huýt sáo. Trước khi Sherlock có thể cản lại, nó đã chạy về phía chiếc xe.
Do ngạc nhiên, con ngựa khựng lại trên hai cái càng xe. Người lái xe cố gắng kìm lại bằng cách quật nó bằng roi da, nhưng ông ta chỉ làm mọi thứ xấu đi. Chiếc xe xoay vòng trong khi con ngựa nhảy dựng lên để tránh Matty.
Qua cửa sổ xe, Sherlock sững người khi nhìn thấy một khuôn mặt tái nhợt trông như sọ người với mái tóc bạc lưa thưa đang thản nhiên nhìn nó với đôi mắt nhỏ màu hồng giống như mắt chuột bạch. Nó cảm giác ngay tức thì một nỗi sợ bản năng như khi nó với tay để lấy rau diếp trên đĩa thức ăn nhưng lại chạm phải con sên. Nó muốn nhúc nhích, muốn lùi lại, nhưng nó như bị cái nhìn xấu xa xám xịt trói chặt không thể di chuyển được. Cuối cùng thì người đánh xe lực lưỡng đã kiểm soát được tình hình và con ngựa chạy nước kiệu nhỏ qua hai cậu bé, kéo theo chiếc xe và cả những người trên đó.
“Không có lấy một cơ hội”, Matty rên rỉ, tự trách móc mình. “Mình đã nghĩ rằng gã khỉ đột kia sẽ quất mình bằng cái roi đó”.
“Người đàn ông trên xe là ai vậy?” Sherlock hỏi, giọng yếu ớt.
Matty lắc đầu. “Mình thậm chí chưa bao giờ nhìn thấy ông ta. Trông ông ta giàu không?”, nó hỏi đầy hy vọng.
“Ông ta nhìn giống như người chết được ba ngày rồi”, Sherlock trả lời.