← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 1

“Có bao giờ cháu nghĩ tới lũ kiến chưa?” ông Amyus Crowe hỏi.

Sherlock Holmes lắc đầu. “Trừ trường hợp chúng hay bu đầy những mẩu bánh mì phết mứt thì cháu chẳng bao giờ nghĩ đến chúng cả.”

Họ đang ở vùng ngoại ô Surrey. Cái nắng nóng của mặt trời đè nặng như đá tảng lên gáy Sherlock. Bao quanh cậu lúc này là bầu không khí ngào ngạt của hương hoa và mùi rơm rạ mới cắt.

Một con ong bay ngang qua tai làm cậu co người lại. Kiến thì cậu không để tâm lắm, chứ ong thì ghét cực kỳ.

Ông Crowe cười to. “Người Anh và bánh mì phết mứt?” ông vừa nói vừa nhoẻn miệng cười. “Ta cho rằng việc này có liên quan đến phong cách ăn uống của người Anh từ nhỏ đến lớn đúng không. Nào là bánh pudding hấp, bánh mì kẹp mứt - dĩ nhiên với kiểu cắt bỏ cái vành giòn giòn bao quanh đi - và rau luộc nhừ như cháo. Cái loại thức ăn mà ta chẳng cần đến răng làm gì cả.”

Sherlock bất chợt cảm thấy khó chịu. “Vậy thức ăn Mỹ có gì hay chứ ạ?” cậu hỏi, loay hoay trên phiến đá khô ráo đang ngồi. Trước mặt cậu là con dốc thoai thoải chạy dài ra dòng sông xa xa.

“Bò nướng đó,” ông Crowe đáp gọn. Ông đang áp bụng vào bức tường cao ngang ngực mình. Cằm tựa lên hai cánh tay đang khoanh lại, trong khi cái mũ rộng vành giúp che mắt khỏi ánh mặt trời đang chói chang trên cao. Ông đang khoác bộ quần áo trắng thông thường bằng chất liệu vải lanh. “Những miếng bò thật to, nướng trên lửa thật lớn. Chỉ cần nướng bên ngoài hơi cháy giòn một chút là vừa, chứ không phải kiểu vẫy vẫy miếng thịt trên ngọn nến như người Pháp hay làm. Và cũng không phải kiểu ướp nhúng vào sốt kem rượu như họ. Và cháu chẳng cần phải có tay nghề quá cao siêu để nướng và phục vụ món thịt nướng cho đúng cách. Vậy thì không có lý gì những người sống ngoài nước Mỹ không làm được, đúng không?” Ông thở dài, trạng thái vui vẻ đột nhiên biến mất, thay vào đó là chút gì đó thoáng buồn.

“Chú nhớ nước Mỹ phải không?” Sherloch nhẹ nhàng hỏi.

“Chú đã xa nhà lâu hơn dự tính. Và chú biết Virginia cũng nhớ quê hương của nó lắm.”

Sherlock nghĩ đến hình ảnh cô con gái nhỏ tên Virginia của ông Crowe đang cưỡi trên con ngựa Sandia, tóc cô bé tung bay trong gió như một ngọn lửa.

“Vậy khi nào thì chú về lại?” Sherlock hỏi nhưng lại hy vọng là đừng quá sớm. Cậu đã quen với sự hiện diện của ông Crowe và Virginia. Cậu thích có họ trong đời mình từ khi cậu được đưa đến sống với chú và thím ở nơi này.

“Khi nào công việc của chú ở đây xong xuôi.” Nụ cười rộng đến mang tai của ông Crowe làm những nét nhăn trên khuôn mặt dạn dày sương gió càng hằn thêm lên. “Và khi nào chú thấy nhiệm vụ anh cháu giao cho chú để chỉ dạy cháu đến nơi đến chốn hoàn tất đã. Giờ, quay lại nói về lũ kiến nhé.”

Sherlock thở dài, miễn cưỡng quay lại với những bài học ngẫu hứng khác của ông Crowe. Người đàn ông người Mỹ vạm vỡ này có thể lấy cảm hứng từ bất cứ thứ gì xung quanh để làm đề tài học hỏi, từ đồng quê đến thành phố hay kể cả nhà cửa của ai đó. Toàn là những đề tài hóc búa. Sherlock bắt đầu thấy bồn chồn.

Ông Crowe rướn thẳng người và quay lại nhìn phía sau. “Chú nghĩ mình mới nhìn thấy một vài con vật nhỏ nào đó,” ông nói và đi thẳng đến một đụn đất khô nho nhỏ trông giống một quả đồi tí hon giữa đám cỏ. Sherlock không dễ bị mắc lừa. Ông Crowe chắc hẳn đã nhìn thấy nó trên đường đi đến đây và ghi nhớ cho buổi luyện tập kế tiếp.

Sherlock nhảy từ bức tường xuống và đi đến nơi ông Crowe đang đứng. “Một ụ kiến,” cậu nói chẳng hào hứng mấy. Những con kiến màu đen nhỏ xíu đang chạy lung tung xung quanh cái ụ đất.

“Sự thật là tuy nhìn bề ngoài như thế, nhưng bên dưới là vô số các đường hầm do những con kiến cần mẫn này tạo ra. Và đâu đó bên trong cái tổ này cháu có thể tìm thấy cả ngàn cái trứng màu trắng nhỏ cùng được sinh ra từ một con kiến chúa. Nó sống cả đời dưới đất và chưa từng thấy ánh nắng.”

Ông Crowe cúi xuống và ra dấu cho Sherlock cùng tham gia. “Hãy nhìn cách chúng di chuyển này,” ông nói. “Điều này có làm cháu nghĩ đến gì không?”

Sherloch nhìn chúng một lúc. Không hề có con kiến nào đi chung một hướng, và chúng cứ đổi hướng liên tục, chẳng vì lý do rõ ràng nào. “Chúng di chuyển một cách ngẫu nhiên,” cậu nói. “Hoặc chúng phản ứng theo cách nào đó mà chúng ta không nhìn thấy.”

“Coi như đó là cách giải thích thứ nhất,” ông Crowe nói. “Người ta gọi đó là “cách di chuyển của người say”, và đó thật ra là chiến thuật kiểm soát mặt đất nhanh nhất nếu chúng ta muốn tìm kiếm thứ gì đó. Hầu hết mọi người sẽ chỉ đi theo những đường thẳng, đi chéo, hoặc chia nhỏ khu vực ra như bàn cờ và tìm kiếm từng ô. Những kỹ thuật này thường bảo đảm thành công, sớm hay muộn, nhưng để tìm kiếm bất cứ thứ gì nhanh nhất vẫn là cách sử dụng kỹ thuật bao phủ ngẫu nhiên này. Đó, chúng đang đi kiểu của “người say đó”, ông nói thêm, “cứ nhìn cách người say rượu đi sẽ thấy - chân nọ xọ chân kia và đá lung tung theo các hướng khác nhau, và cái đầu thì quay theo hướng hoàn toàn khác.” Ông thò tay vào túi áo để lấy ra thứ gì đó. “Nhưng quay lại với các con kiến: một khi chúng tìm ra được thứ gì đó chúng thích, thì xem chúng làm thế nào nhé.”

Ông chìa ra cho Sherlock xem thứ đang cầm trong tay. Đó là một cái hũ sứ được bịt lại bằng giấy sáp. “Mật ong,” ông nói trước khi Sherlock kịp hỏi. “Chú mới mua ở ngoài chợ đấy.” Ông kéo sợi dây cột và tháo miếng giấy sáp ra. “Xin lỗi nếu nó gợi cho cháu nhớ lại những ký ức xấu nhé.”

“Không sao ạ,” Sherlock nói. Cậu ngồi xuống bên cạnh ông Crowe. “Chú hay thật đó, sao lại có thể đi lung tung với hũ mật ong trong túi áo cơ chứ?”

“Chúng ta chẳng bao giờ biết mình sắp phải đối mặt với điều gì,” ông Crowe nói và mỉm cười. “Hay cũng có thể ta đã sắp xếp hết mọi thứ trước cũng nên. Tùy cháu nghĩ thôi.” Sherlock chỉ còn biết mỉm cười và lắc đầu.

“Mật ong chủ yếu là đường, cộng với cả tá điều thú vị khác,” ông Crowe tiếp tục. “Kiến yêu thích đường. Chúng sẽ đem mật về cho con kiến chúa và những con kiến con mới nở ở tổ.”

Ông Crowe nhúng ngón tay vào mật ong. Sherlock thấy mật đang chảy mềm dưới nắng nóng. Ông lại quết đầy mật lên lóng tay và để mặc nó nhỏ giọt xuống một luống cỏ. Giọt mật đong đưa trên lá vài giây rồi nhỏ tràn xuống mặt đất, nằm thờ ơ, óng ánh dưới ánh nắng mặt trời.

“Nào, giờ thì xem mấy anh bạn nhỏ kia làm gì nhé.”

Sherlock quan sát thấy lũ kiến vẫn chạy lung tung khắp nơi; vài con còn trèo lên thân cỏ, bò cheo leo lộn ngược, trong khi mấy con khác thì mải miết kiếm mồi giữa đám đất gần đó. Lát sau, một con kiến cũng đi ngang qua giọt mật. Nó dừng ngay lại. Sherlock thoáng nghĩ chắc nó bị kẹt, nhưng sau đó chú ta đi dọc theo vệt mật, rồi quay ngược lại và nhúng đầu vào mật ong như thể đang uống vậy.

“Nó cố thu thập chiến lợi phẩm càng nhiều càng tốt đấy,” ông Crowe nói. “Giờ nó sẽ đem về tổ cho xem.” Và đúng như thế, con kiến bắt đầu đi ngược lại theo dấu vết cũ. Nhưng thay vì đi thẳng về tổ, nó lại tiếp tục chạy tới chạy lui. Cũng phải mất một lúc Sherlock mới không bị mất dấu khi nó đi ngang qua một đám kiến khác. Cuối cùng nó cũng đến được ụ đất khô và biến mất vào bên trong miệng tổ.

“Rồi giờ thì sao nhỉ?” Sherlock hỏi.

“Nhìn giọt mật kìa,” ông Crowe nói.

Có đến mười hay mười lăm con kiến khác cũng đã phát hiện ra giọt mật. Và chúng thi nhau đến lấy. Rồi từng nhóm kiến khác tiếp tục tham gia. Cứ con này vào hút mật thì con khác cũng bắt đầu tách ra và quờ quạng đi theo hướng về tổ của mình.

“Cháu có để ý thấy gì không?” ông Crowe hỏi.

Sherlock cúi người xuống thấp hơn để nhìn cho rõ. “Chúng dường như càng lúc càng chạy về tổ nhanh hơn thì phải,” cậu như tự hỏi mình.

Chỉ vài phút sau đã thấy xuất hiện hai đàn kiến đi song song với nhau, một đàn đi đến giọt mật, một đàn thì hướng về tổ. Phong cách di chuyển ngẫu hứng của chúng giờ được thay bằng cách di chuyển có định hướng rõ ràng.

“Tốt,” ông Crowe lên tiếng đồng tình. “Giờ chúng ta thử nghiệm thêm chút nhé.”

Ông thò tay vào túi áo và lấy ra một miếng giấy cỡ bằng bàn tay. Ông đặt miếng giấy lên mặt đất chắn ngay giữa đường từ giọt mật đến tổ kiến. Những con kiến nhanh chóng tràn lên miếng giấy để hướng về tổ như thể chúng chẳng thấy gì khác lạ.

“Chúng giao tiếp với nhau như thế nào mà hay quá?” Sherlock hỏi. “Làm sao mà mấy con kiến tìm thấy mật ong báo được với những con khác trong tổ nơi giọt mật rớt xuống nhỉ?”

“Chúng chẳng nói gì cả,” ông Crowe giải thích. “Thực tế là việc mang mật về tổ đã báo hiệu cho đồng loại là có thức ăn ở ngoài kia. Nhưng chúng không nói được, chúng cũng không đọc được ý nghĩ và chúng cũng không dùng chân để chỉ được. Có điều còn thông minh hơn nữa đã diễn ra. Để chú chỉ cho cháu xem.”

Ông Crowe cúi xuống và nhanh nhẹn xoay miếng giấy một góc ngang đúng 90 độ. Những con kiến còn bò trên tờ giấy vẫn đi hết đến mép và sau đó có vẻ mất phương hướng, chạy lung tung vô định xung quanh. Nhưng điều làm Sherlock thích thú nhất là những con kiến vừa mới đi đến sẽ vẫn đi ngang qua miếng giấy nhưng đến giữa chừng chúng lại xoay ngang rẽ phải và đi lại đúng theo những dấu vết cũ đến khi chạm được mép, ra khỏi tờ giấy và lại di chuyển lung tung như những con trước.

“Chúng đang đi theo đường của chúng,” cậu hít vào. “Một con đường chỉ có chúng mới nhìn thấy được mà thôi. Bằng cách nào đó, những con kiến tiên phong đã để lại dấu vết và tất cả những con còn lại sẽ cứ thế mà đi theo. Và khi ta xoay miếng giấy nằm ngang, chúng vẫn đi theo con đường đó mà chẳng biết là giờ nó sẽ dẫn đến một hướng khác hẳn.”

“Đúng vậy,” ông Crowe tán đồng. “Giả thuyết hợp lý nhất có thể là chúng đã tạo ra một chất gì đó. Cứ hễ có con nào kiếm được thức ăn, nó sẽ tạo ra chất đó để đánh dấu đường đi. Cứ tưởng tượng, nó giống như một miếng vải thấm đẫm một chất rất nặng mùi, như mùi hạt hồi chẳng hạn, và được gắn chặt vào chân của chúng. Và những con kiến khác, có khả năng giống loài chó, sẽ đánh hơi được mùi hạt hồi được rải theo con đường kia. Vì vẫn còn bị ảnh hưởng của cách di chuyển như người say nên con đầu tiên sau khi kiếm được thức ăn sẽ vẫn bò lung tung tìm đường về nhà. Càng về sau sẽ có càng nhiều con kiến khác tìm được thức ăn. Có con đi về xa hơn, con đi về nhanh hơn. Và con đường ngắn nhất dần được hình thành bởi mật độ đánh dấu dày đặc hơn từ những con làm việc tốt hơn, đem mồi về tổ và quay lại nhanh hơn. Và những con đường xa hơn, hay dấu tích của những con mò mẫm mãi mới về được đến tổ dần dần cũng không còn nữa do không còn con nào theo chúng cả. Cuối cùng, con đường của bầy kiến hầu như là con đường thẳng. Cháu có thể thấy được điều đó khi ta chặn chúng bằng miếng giấy này. Chúng vẫn theo con đường thẳng của chúng mặc dù giờ nó bị chệch sang hướng khác. Nhưng cũng không sao vì cuối cùng chúng cũng sửa lại như cũ thôi.”

“Thật tuyệt vời,” Sherlock hít thở mạnh. “Cháu chưa hề biết đến điều này. Nó không phải... là điều gì đó thông minh... bởi vì đó hoàn toàn là bản năng và chúng lại không hề có khả năng giao tiếp. Nhưng điều này làm cho chúng trông như rất thông minh.”

“Đôi khi,” ông Crowe chỉ ra, “hoạt động nhóm kém hiệu quả hơn hoạt động một mình. Cứ nhìn vào con người thì thấy: riêng lẻ thì họ có thể rất giỏi, nhưng khi cho họ vào thành một nhóm có khi lại tạo ra một đám nổi loạn ấy chứ, đặc biệt khi xảy ra một sự kích động nào đó. Nhưng đối với một vài trường hợp khác như với đàn kiến hay với bầy ong, hoạt động theo nhóm luôn tạo ra những hành vi thông minh hơn là hoạt động đơn lẻ.”

Ông đứng thẳng lên, phủi bụi và cỏ khỏi chiếc quần vải. “Bản năng mách bảo với chú rằng,” ông nói, “đã sắp đến giờ ăn trưa rồi. Liệu cháu có thể nhắc chú thím kê thêm một chiếc ghế vào bàn ăn cho kẻ lang thang người Mỹ này được không?”

“Dĩ nhiên là họ rất sẵn lòng,” Sherlock đáp. “Nhưng cháu lại không dám chắc với bà quản gia Eglantine lắm.”

“Cứ để chú lo bà ấy cho. Chú có cả tá chiêu thủ sẵn cho những dịp cần phải lấy lòng như thế.”

Họ tản bộ về, băng qua cánh đồng và những bãi cây khô nơi ông Crowe chỉ cho Sherlock thấy những bụi nấm ăn được và các loại nấm khác, đồng thời củng cố lại những bài học ông đã dạy cho cậu trong nhiều tuần qua. Đến bây giờ thì Sherlock chắc chắn rằng cậu có thể sống sót nơi hoang dã nhờ nhận biết được những thứ gì ăn được mà không chuốc độc cho chính mình.

Chỉ trong vòng nửa tiếng họ đã về đến gia trang gia đình Holmes. Đó là một khu nhà lớn và khép kín, nằm trên mấy mẫu đất trống trải. Sherlock có thể nhìn thấy cửa sổ phòng mình trên tầng áp mái. Một căn phòng nhỏ, hơi khác thường với cái trần là mái nhà thoai thoải chếch nghiêng. Nó chẳng thoải mái tí nào cả nên cậu chẳng bao giờ trông chờ việc đi ngủ hằng đêm.

Đậu ngoài cổng chính lúc này là một chiếc xe ngựa; anh đánh xe đang vẩn vơ phe phẩy cái roi trong khi chú ngựa ngồm ngoàm cỏ khô từ cái bao vải treo trước cổ.

“Có khách đến chơi sao?” Ông Crowe hỏi.

“Chú Sherrinford và thím Anna chẳng nói gì với cháu là có khách đến dùng bữa trưa cả.” Sherlock đáp, tự hỏi không biết ai đã ngồi trên chiếc xe ngựa này.

“Tốt, chúng ta sẽ tìm ra trong giây lát nữa thôi,” ông Crowe nói. “Thật là phí chất xám khi phỏng đoán một sự việc đã có câu trả lời sẵn trước mắt đúng không nào.”

Họ bước đến bậc tam cấp trước cửa. Sherlock chạy đến cánh cửa đang mở hờ, ông Crowe điềm tĩnh theo sau.

Căn sảnh bên trong tối om. Chỉ có ánh mặt trời rọi qua những ô cửa sổ trên cao, tạo thành từng cột ánh sáng giăng đầy bụi. Những bức tranh sơn dầu trang trí trên tường hầu như hoàn toàn mờ nhạt trong bóng tối. Cái nóng của mùa hè đặc quánh khắp nơi.

“Để cháu đi nói với mọi người là chú đang ở đây nhé,” Sherlock nói với ông Crowe.

“Không cần đâu,” ông Crowe thì thầm. “Có người biết rồi đấy.” Ông vừa nói vừa gật đầu chào với mấy bóng người dưới cầu thang.

Có một người bước ra; áo đầm đen, tóc đen, hoàn toàn tương phản với làn da trắng toát của bà.

“Chào ông Crowe,” người quản gia nói. “Không thể tin được là chúng tôi được tiếp đón ông.”

“Mọi người truyền tai nhau về sự lịch thiệp của quản gia nhà Holmes quả là không sai thưa bà,” ông nói hồ hởi, “và cả những món ăn mà bà tiếp đãi khách khứa nữa. Và hơn thế, làm sao mà tôi có thể bỏ qua một cơ hội để được gặp bà như thế này, thưa bà Eglantine?”

Bà ta phổng mũi; đôi môi mỏng dính giật giật bên dưới chiếc mũi mảnh khảnh và nhọn hoắt. “Tôi dám chắc là có cả tá phụ nữ đã đổ rạp bởi sự hấp dẫn của ông đấy, thưa ông Crowe,” bà ta đáp. “Nhưng thật tiếc là tôi không nằm trong số ấy.”

“Ông Crowe sẽ ở đây ăn trưa với chúng ta,” Sherlock nói dứt khoát, nhưng cậu lại hơi sợ khi bắt gặp ánh mắt sắc như dao cạo của bà ta chuyển sang nhìn mình.

“Chuyện đó phụ thuộc quyết định của chú và thím cậu,” bà ta đáp, “chứ không phải do cậu quyết định.”

“Vậy thì tôi sẽ nói với họ,” cậu trả lời, “chứ không phải với bà.” Cậu quay sang ông Crowe. “Chú chờ ở đây để cháu đi báo nhé,” cậu nói. Khi cậu quay lại nhìn thì bà Eglantine đã lẩn vào bóng tối và biến mất.

“Có cái gì đó rất lạ về bà này,” ông Crowe thì thào. “Bà ta không cư xử như người hầu, mà như là thành viên của gia đình vậy. Kiểu như bà là tổng chỉ huy ấy.”

“Cháu cũng không hiểu sao chú thím cháu lại bỏ qua cho bà ấy như thế nữa,” Sherlock nói. “Chứ cháu thì còn lâu.”

Cậu bước đến phòng sinh hoạt chung và liếc vào bên trong. Người hầu đang bận rộn xung quanh các tủ chén được đặt ở một góc phòng. Họ đang chuẩn bị dĩa cho các món thịt đông, cá, pho mát, gạo, rau củ ngâm chua và bánh mì như mọi bữa trưa thông thường của nhà Holmes, nhưng bóng dáng của chú thím lại chẳng thấy đâu. Quay ngược trở lại sảnh chính, cậu dừng ít phút trước khi đến gần cánh cửa phòng thư viện và gõ.

“Ai đó?” một giọng nói từ bên trong vọng ra, cái giọng quá quen thuộc trong những bài thuyết giảng giáo lý do chính ông dành cả cuộc đời để biên soạn: chú của Sherlock, ông Sherrinford Holmes. “Vào đi!”

Sherlock mở cửa. “Ông Crowe đang ở đây ạ,” cậu vừa nói vừa đẩy cánh cửa mở rộng đủ để thấy chú mình đang ngồi làm việc tại bàn. Ông khoác trên người một bộ comple theo phong cách cũ, và bộ râu quai nón rậm rạp ấn tượng phủ đến tận ngực, tràn lên cả tờ giấy trước mặt. “Cháu không biết liệu có thể mời ông ấy ở lại dùng bữa trưa không ạ?”

“Chú rất vui được gặp ông Crowe,” ông Sherrinford Holmes nói, nhưng lúc này Sherlock lại chú ý đến người đàn ông đang đứng bên những khung cửa sổ kiểu Pháp, chiếc áo khoác dài với cổ cao của anh ta đang hắt bóng thành một vệt dài dưới ánh đèn phòng.

“Anh Mycroft!”

Anh trai của Sherlock gật đầu chào cậu em một cách điềm đạm, nhưng trong mắt lại ánh lên niềm vui mà vẻ bề ngoài nghiêm trang không thể che giấu nổi. “Sherlock,” anh nói. “Trông em tốt lắm. Miền quê rõ ràng là rất hợp với em đó.”

“Anh đến khi nào vậy?”

“Cách đây một tiếng. Anh đi từ Waterloo và thuê xe ngựa từ ga về.”

“Anh sẽ ở đây bao lâu?”

Mycroft nhún vai; động tác này chẳng thấm tháp gì với vẻ bề ngoài thật to lớn bệ vệ của anh. “Anh sẽ không ở qua đêm, nhưng anh muốn xem em tiến bộ như thế nào rồi. Anh cũng muốn gặp ông Crowe. Và thật vui là ông ấy cũng có mặt ở đây.”

“Anh của con và ta đang tổng kết công việc,” Sherrinford nói, “chúng ta sẽ sớm gặp lại nhau trong phòng ăn nhé.” Hiểu được đó là sự đuổi khéo, Sherlock kéo cửa phòng đóng lại. Cậu cảm nhận được nụ cười vui sướng của mình. Anh Mycroft đang ở đây! Mọi thứ đột nhiên trở nên tươi đẹp hơn chỉ trong phút chốc.

“Có phải là giọng anh trai cháu không?” Giọng ông Amyus Crowe vang vang từ phía bên kia sảnh chính.

“Đúng là xe ngựa của anh ấy đang đậu trước cửa. Anh ấy bảo là muốn nói chuyện với chú.”

Ông Crowe gật gù với vẻ nghiêm trọng. “Chú cũng đang tự hỏi không biết có việc gì đây,” ông lẩm nhẩm.

“Chú Sherrinford mời chú ở lại ăn trưa. Họ sẽ gặp lại chúng ta trong phòng ăn.”

“Nghe như mọi việc thật là tốt,” ông Crowe nói to hơn, nhưng cái khẽ nhăn mặt của ông lại không tương đồng với ngữ điệu chút nào.

Sherlock dẫn đường đi vào phòng ăn, bà Eglantine đã có mặt ở đó, đứng ngay bóng tối sát tường giữa hai khung cửa sổ lớn. Sherlock chẳng hề nhớ là đã thấy bà ta đi ngang qua mình trong sảnh lúc nào nữa. Cậu thoáng nghĩ có khi nào bà ta là ma với khả năng đi xuyên tường không, nhưng lại nhanh chóng gạt ngay ý nghĩ ngu ngốc đó ra khỏi đầu. Làm gì có ma cơ chứ.

Làm lơ bà Eglantine, cậu đi về hướng tủ để chén, cầm một cái dĩa và bắt đầu chất đầy nó với mấy lát bánh mì và vài miếng cá hồi. Ông Crowe đi theo và cũng bắt đầu lấy dĩa từ đầu bên kia tủ.

Sherlock vẫn còn lâng lâng với niềm vui sướng trước sự xuất hiện bất ngờ của anh trai. Mycroft sống và làm việc ở London, thủ đô của vương quốc Anh. Anh là nhân viên làm việc cho chính phủ. Mặc dù Mycroft rất khiêm tốn khi nói rằng anh chỉ là một thư ký văn phòng bình thường, Sherlock vẫn luôn tin rằng anh cậu đang nắm giữ trọng trách quan trọng hơn nhiều. Khi cậu còn ở nhà với cha mẹ, đó là trước khi bị gửi đi sống với chú thím ở tận đây, Mycroft thỉnh thoảng từ London trở về và ở lại vài ngày. Thời gian đó Sherlock để ý thấy ngày nào cũng có một người đàn ông xuất hiện với một cái hộp màu đỏ. Ông ta chỉ muốn giao nó tận tay Mycroft, và ngược lại, Mycroft sẽ trao lại cho ông ta một phong bì, mà theo Sherlock đoán nó đựng thư từ hay ghi chú về những thứ nằm trong hộp của ngày hôm trước. Không biết Mycroft giữ nhiệm vụ gì nhưng chính phủ lúc nào cũng muốn giữ liên lạc với anh ấy mỗi ngày.

Trong lúc miệng đang ngồm ngoàm thức ăn thì cậu nghe tiếng cửa thư viện bật mở. Ít phút sau, cái dáng cao lớn, hơi chúi về phía trước của chú Sherrinford bước vào phòng ăn.

“Ôi, thức ăn của Chúa đây rồi,” ông thốt lên bằng tiếng Hy Lạp và nhìn chằm chằm về phía đặt đồ ăn nơi tủ chén dĩa.

Liếc nhìn về hướng Sherlock đang đứng, ông nói: “Con có thể dùng thư viện, nơi cầu nguyện của ta để chuyện trò cùng anh trai con.” Quay qua Crowe, ông nói thêm: “Và xin mời ông tham gia cùng với hai người bọn họ.”

Sherlock đặt dĩa thức ăn xuống và nhanh chóng đi đến thư viện. Ông Crowe liền theo sau; đôi chân dài của ông bước thoăn thoắt trong khi dáng vẻ thì có vẻ khá chậm chạp.

Mycroft vẫn đứng nguyên chỗ cũ ngay cạnh những khung cửa sổ kiểu Pháp. Anh cười với Sherlock và bước đến gần xoa tóc cậu bé. Nụ cười chợt tắt khi anh thoáng nhìn sang ông Crowe, nhưng anh vẫn bắt tay người đàn ông Mỹ.

“Điều trước tiên cần phải nói là,” anh nói. “Sau khi ráo riết điều tra, cảnh sát vẫn chưa tìm ra dấu vết nào của Nam tước Maupertuis. Chúng tôi nghĩ là hắn đã tháo chạy sang Pháp.

Nhưng tin tốt đó là chúng ta chưa tìm thấy binh lính người Anh hay bất cứ ai bị chết bởi ong đốt cả.”

“Mọi người đang tranh cãi liệu kế hoạch của Maupertuis có hoạt động hay không,” ông Crowe nói với vẻ nghiêm trọng. “Tôi nghi ngờ là tâm thần hắn bất ổn vào lúc đó. Nhưng chúng ta đã rất đúng khi không hề manh động.”

“Và chính phủ Anh vô cùng cảm kích điều đó,” Mycroft trả lời.

“Anh Mycroft, tình hình cha ra sao rồi?” Sherlock chen ngang vào. Mycroft gật đầu, “Tàu của cha đang cập bến Ấn Độ. Anh đoán cũng phải cả tuần nữa cha mới rời khỏi đại bản doanh của cha được, nhưng mà chúng ta có thể sẽ không nghe được tin tức gì của cha trong vòng một đến hai tháng - tốc độ liên lạc với lục địa xa xôi đó chỉ được đến thế thôi. Nếu anh nghe được tin gì của cha, anh sẽ báo ngay cho em nhé.”

“Còn... mẹ thì sao?”

“Sức khỏe mẹ rất yếu, em biết đó. Hiện thời mẹ có vẻ khỏe ra nhưng vẫn phải nghỉ ngơi nhiều. Bác sĩ bảo anh rằng mẹ ngủ mười sáu, mười bảy giờ một ngày.” Anh thở dài. “Mẹ cần thời gian, Sherlock. Thời gian và không có áp lực nào hết cả về tinh thần lẫn thể lực.”

“Em hiểu.” Sherlock dừng lại, cố đè nén cảm giác nghèn nghẹn dâng lên. “Vậy là em sẽ ở lại trang viên Holmes cho đến hết kỳ nghỉ của trường đúng không?”

“Anh cũng không chắc,” Mycroft nói, “rằng trường nam sinh Deepdene có giúp được gì cho em không nữa.”

“Tiếng La tinh của em khá lên mà,” Sherlock nhanh chóng trả lời, sau đó lại thầm nguyền rủa chính mình. Cậu nên đồng ý với anh trai hơn là tỏ rõ sự phản đối.

“Chuyện đó thì khỏi phải nói,” Mycroft trả lời dí dỏm, “nhưng cũng có những điều hay ho khác mà một cậu bé như em cần phải học hơn là chỉ mỗi tiếng La tinh.”

“Tiếng Hy Lạp chăng?” Sherlock không ngăn được câu hỏi bật ra.

Mycroft mỉm cười. “Anh thấy là khiếu hài hước tinh lanh này đã giúp em sống sót ở đây tốt đấy. Không, mặc dù sự thật là tiếng La tinh và Hy Lạp rất quan trọng trong thế giới ngày càng phức tạp của chúng ta, anh vẫn tin rằng em sẽ phát triển tốt hơn với việc học riêng lẻ như thế này. Anh đang suy nghĩ xem có nên rút tên em ra khỏi trường Deepdene và sắp xếp để em được dạy tại trang viên Holmes hay không đây.”

“Không quay lại trường ư?” Sherlock tự nghiệm xem bản thân có chút nào nuối tiếc không, nhưng cậu lại chẳng cảm thấy gì. Cậu không có bạn bè gì ở trường, và ngay cả những ký ức đẹp nhất cũng chỉ là những ngày tháng chán chường hơn là vui vẻ. Chẳng có gì cho cậu ở trường Deepdene cả.

“Chúng ta cần phải hướng tới việc đăng ký cho em vào,” Mycroft tiếp tục nói. “Cambridge, chẳng hạn. Hay Oxford cũng được. Anh nghĩ em sẽ có nhiều cơ hội vào các trường này nếu chúng ta tập trung học nhiều hơn những điều mà trường Deepdene dạy em.”

Anh lại mỉm cười. “Em là một cậu bé rất cá biệt và em cần phải được chăm sóc theo cách đó. Anh chưa thể hứa được gì cả, nhưng anh sẽ báo cho em biết mọi việc được sắp xếp như thế nào trước khi kỳ nghỉ kết thúc.”

“Liệu tôi có quá mạo muội khi hỏi mình đóng vai trò gì trong việc học hành của cậu thiếu niên này không?” Ông Amyus lên tiếng.

“Tất nhiên là có rồi,” Mycroft trả lời, miệng khẽ nhếch lên, “rõ ràng là ông đã giúp cậu bé có một lối sống không thể chê vào đâu được.”

“Cậu ta là người nhà Holmes mà,” ông Crowe nói rõ. “Chỉ có thể hướng dẫn chứ không thể bắt buộc được cậu ấy. Anh cũng y như vậy thôi.”

“Đúng thế,” Mycroft đáp gọn. “Tôi cũng đã từng như thế, đúng không?” Trước khi Sherlock chợt nhận ra ông Crowe cũng từng là gia sư của Mycroft thì anh nói: “Sherlock, em thấy có ổn không nếu ông Crowe và anh nói chuyện riêng với nhau? Bọn anh có vài công chuyện muốn bàn bạc.”

“Liệu em... có gặp lại anh trước khi anh đi không?”

“Dĩ nhiên rồi. Anh sẽ ở lại đến chiều tối luôn mà. Nếu em muốn em có thể dắt anh đi xung quanh thăm nhà.”

“Vậy thì chúng ta sẽ đi dạo bên ngoài nhé,” Sherlock gợi ý.

Mycroft nhún vai. “Anh nghĩ chắc không được rồi,” anh nói. “Đồ anh đang mặc không thích hợp với việc đi tản bộ bên ngoài đâu.”

“Chỉ là đi dạo xung quanh nhà thôi mà anh?” Sherlock phản đối. “Anh nghĩ là đi dạo trong rừng sao?”

“Nếu anh không thấy mái nhà trên đầu và nền nhà dưới chân thì đi bất cứ đâu vẫn tính là tản bộ,” Mycroft nói với vẻ kiên quyết. “Ông Crowe, giờ chúng ta bàn công việc thôi.”

Sherlock miễn cưỡng rời thư viện và đóng cửa lại sau lưng. Nhiều giọng nói đang vọng ra từ phòng ăn và cậu đoán là thím đang dùng bữa trưa với chú. Nhưng cậu không thích tham gia vào cuộc chuyện trò ấy lắm. Cậu bước ra ngoài, đi lang thang xung quanh khuôn viên của ngôi nhà, tay thọc sâu vào túi, thỉnh thoảng đá thốc mấy cục đá dưới đất lên cao. Mặt trời đã đứng bóng, Sherlock có thể cảm giác được mồ hôi đang rịn trên trán và giữa hai bả vai mình.

Những ô cửa sổ kiểu Pháp của phòng thư viện đang ở trước mắt. Và chúng đang mở.

Từ xa cậu đã có thể nghe được giọng nói vọng ra từ trong phòng.

Một phần trong cậu lên tiếng rằng đó là cuộc nói chuyện riêng tư và mình đã bị loại ra ngay từ đầu. Nhưng một nửa khác, quyến rũ hơn, lại nói rằng đó chỉ là anh Mycroft và ông Amyus Crowe đang nói chuyện về cậu mà thôi.

Thế là cậu tiến lại gần dãy ban công bằng đá nằm dọc ngôi nhà.

“Và họ chắc thế chứ?” ông Crowe đang nói.

“Ông đã từng làm cho Pinkertons rồi nên chắc ông biết,” Mycroft đáp lại. “Nguồn thông tin mật thám của họ thường rất chính xác; ngay cả khi họ ở rất xa nước Mỹ.”

“Nhưng mà để hắn ta có thể đi đến tận đây thì...”

“Tôi cho là Mỹ quá nguy hiểm đối với hắn.”

“Đó là một đất nước rộng lớn,” ông Crowe chỉ ra.

“Và hầu hết chưa được khai sáng nhiều,” Mycroft đáp.

Ông Crowe vẫn chưa bị thuyết phục lắm. “Tôi thì lại mong hắn sẽ vượt qua biên giới sang Mexico.”

“Nhưng hắn rõ ràng không làm như thế.” Giọng Mycroft trở nên chắc chắn hơn. “Hãy nhìn vấn đề ở góc này - giả sử ông được cử đi Anh để trừ khử một tên ủng hộ miền Nam trong cuộc Nội Chiến đang được treo giá cao. Còn lý do gì chính đáng hơn cho việc

ông đến đây ngoài việc

chúng cũng đang ở đây?”

“Có lý,” ông Crowe thừa nhận. “Anh có nghĩ là có âm mưu gì không?”

Mycroft dừng lại ít giây. ““Âm mưu” có vẻ hơi quá trong trường hợp này. Tôi nghi rằng chúng đều đổ xô vào đất nước này vì nó văn minh, nói chung một thứ tiếng và còn vì an toàn nữa. Nhưng nếu có thời gian, thì khả năng xuất hiện một âm mưu nào đó lại rất cao. Có quá nhiều tên nguy hiểm tụ lại một nơi, mà lại rỗi không làm gì cả ngoài việc nói chuyện với nhau....Chúng ta cần phải triệt tiêu chuyện này từ trong trứng nước mới được.”

Sherlock cảm thấy choáng váng. Họ đang nói chuyện quái quỷ gì với nhau vậy nhỉ? Cậu chẳng hiểu gì khi nghe lén giữa chừng như thế này.

“Ồ, Sherlock,” giọng người anh trai từ trong chợt vọng ra, “em có thể tham gia với tụi anh đấy, nếu thật sự là em đang nghe lén bên ngoài.”