← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 2

Sherlock trèo vào thư viện qua khung cửa sổ kiểu Pháp, đầu cúi gằm. Cậu cảm thấy mặt mình đang nóng rực, xấu hổ và thật lạ, cả tức giận nữa; mặc dù cậu không biết là giận dữ vì bực anh Mycroft đã bắt quả tang mình đang nghe lén hay giận chính mình đã để bị phát hiện như thế.

“Sao anh biết em ở bên ngoài vậy?” cậu hỏi.

“Trước hết,” Mycroft bình thản nói, “anh đoán là em sẽ ở ngoài đó. Em là một thiếu niên rất tò mò, và những sự việc gần đây cho thấy em không để ý gì đến việc tuân theo những luật lệ thông thường. Thứ hai, anh cảm thấy có một làn gió nhẹ thổi vào giữa khoảng hở của các cánh cửa sổ. Khi em đứng bên ngoài, mặc dù không ai thấy em, bóng em cũng không hề hắt vào, nhưng người em sẽ cản gió. Khi anh không cảm giác được làn gió trong vài giây thì anh đoán là vật gì đó đã cản nó. Và thủ phạm rõ nhất chắc chắn là em rồi.”

“Anh có bực em không?” Sherlock hỏi.

“Không hề,” Mycroft đáp.

“Anh cháu sẽ rất bực,” Amyus Crowe nói một cách ân cần, “nếu cháu vô ý để bóng mình hắt lên ban công trước cửa sổ đấy.”

“Đó chính là,” Mycroft đồng tình, “việc thể hiện lỗ hổng kiến thức về hình học không chấp nhận được. Và đó cũng thể hiện việc mình không có khả năng đoán trước những kết quả ngoài dự tính của việc đang làm.”

“Anh đang chọc quê em phải không.” Sherlock bắt bẻ anh trai.

“Có chút chút,” Mycroft thừa nhận, ”và chỉ muốn tốt nhất cho em thôi.” Anh dừng lại. “Em nghe được gì rồi?”

Sherlock nhún vai. “Chuyện gì đó về một người đàn ông vượt Mỹ đến Anh, và em nghĩ là ông ta rất nguy hiểm. À, thêm chuyện gì đó về gia đình Pinkertons nữa.”

Mycroft liếc nhìn ông Crowe bên kia phòng và khẽ nhướng mày. Ông Crowe cười nhẹ. “Họ không phải là gia đình đâu,” ông nói, “mặc dầu đôi lúc họ cũng cảm giác như thế. Trung Tâm Mật Vụ Pinkertons là một công ty đào tạo thám tử và vệ sĩ. Nó được thành lập bởi Allan Pinkerton tại Chicago cách đây mười hai năm khi ông ta nhận thấy rằng các công ty đường sắt tại Mỹ càng ngày càng phát triển nhưng họ lại không bảo vệ được chính mình khỏi nạn cướp bóc và phá hoại. Allan cho thuê người như kiểu một lực lượng cảnh sát bảo vệ.”

“Công ty này hoạt động hoàn toàn độc lập với luật pháp của chính quyền,” Mycroft bồi thêm, giọng thì thầm. “Em biết đó, đối với một đất nước vô cùng tự hào với những nguyên tắc được xây dựng dựa trên nền dân chủ, thì em sẽ có thói quen tạo ra những công ty hoạt động độc lập không đáng tin.”

“Chú gọi ông ta là “Allan” à,” Sherlock chợt nhận ra. “Chú biết ông ấy sao?”

“Al Pinkerton và ta có thời gian làm việc với nhau khá lâu”, ông Crowe thừa nhận. “Bảy năm trước chú và ông ấy kín đáo giúp Abrahan Lincoln đi qua Baltimore trên đường nhậm chức Tổng thống. Các tiểu bang miền Nam có một âm mưu sát hại Lincoln ngay trong thành phố, nhưng chính phủ đã thuê trung tâm Pinkertons bảo vệ và nhóm của chú đã giữ được mạng sống cho Tổng thống. Từ đó về sau chú thỉnh thoảng được nhờ làm cố vấn cho Al. Chưa bao giờ chú nhận lương, nhưng ông ấy trả tiền cho chú vào những dịp rất kỳ lạ.”

“Tổng thống Lincoln ư?” Sherlock nói, đầu cậu căng lên.

“Nhưng không phải là ông ấy đã...”

“Vâng, chúng rốt cuộc cũng bắt kịp ông ấy.” Khuôn mặt ông Crowe bỗng chốc lặng ngắt và nặng trĩu đau buồn. “Ba năm sau âm mưu bất thành tại Baltimore, một kẻ nào đó đã bắn Tổng thống tại Washington. Con ngựa của Tổng thống lúc đó chợt lồng lên và mũ ông bị bắn tung. Khi người ta tìm thấy chiếc mũ, họ thấy một lỗ đạn thủng trên đó. Người thoát chết trong gang tấc.” Ông thở dài. “Và một năm sau, chỉ cách đây ba năm thôi, trong lúc Tổng thống đang xem nhạc kịch, vở Người anh em họ nước Mỹ , thì một gã tên John Wilkes Booth đã bắn ông ấy từ phía sau gáy, sau đó hắn nhảy lên sân khấu và tẩu thoát.”

“Ông đã không có mặt ở đó,” Mycroft nói nhẹ nhàng. “Ông không thể làm được gì.”

“Đáng lẽ tôi phải ở đó mới phải,” ông Crowe đáp lại khe khẽ. “Và Al Pinkerton cũng nên thế. Vì sự thật là, tên vệ sĩ duy nhất cho Tổng thống đêm ấy là một cảnh sát nát rượu tên John Frederick Parker. Gã thậm chí còn không có mặt ở đó lúc Tổng thống bị bắn. Gã đang ở quán rượu Star bên cạnh, say bí tỉ.”

“Em cũng nhớ đã đọc được chi tiết này trên tờ báo của cha,” Sherlock nói, phá tan bầu không khí nặng nề đang bao phủ cả phòng. “Và em cũng nhớ rằng cha có nói về hắn, nhưng em thật sự vẫn không hiểu tại sao Tổng thống Lincoln lại bị sát hại.”

“Đó chính là vấn đề của các trường học hiện nay,” Mycroft lẩm bẩm. “Họ cứ nghĩ lịch sử nước Anh đã dừng lại cách đây một trăm năm và chẳng hề quan tâm gì đến lịch sử thế giới cả.” Anh liếc nhìn ông Crowe, nhưng người đàn ông Mỹ lại có vẻ lưỡng lự. “Anh nghĩ là em biết đến cuộc nội chiến đúng không?” anh hỏi Sherlock.

“Em chỉ biết qua tường thuật của tờ The Times thôi.”

“Ngắn gọn là như vầy, mười một tiểu bang ở miền Nam nước Mỹ tuyên bố độc lập và hình thành nên Liên Minh miền Nam.” Anh khịt khịt mũi. “Nó như kiểu Dorset, Devon và Hampshire đột nhiên quyết định muốn thành lập một đất nước riêng và tuyên bố chủ quyền tách rời khỏi nước Anh vậy.”

“Hoặc là giống như Ireland muốn độc lập thoát khỏi luật lệ của nước Anh,” ông Crowe thì thầm.

“Đó hoàn toàn là một tình huống khác chứ,” Mycroft cắt ngang. Quay sang Sherlock, anh nói tiếp: “Trong một thời gian ngắn, nước Mỹ có hai Tổng thống - Abraham Lincoln ở miền Bắc và Jefferson Davis ở miền Nam.”

“Tại sao họ lại muốn độc lập vậy anh?” Sherlock hỏi.

“Ai mà không muốn độc lập chứ?” Mycroft trả lời. “Vì họ không thích nhận mệnh lệnh. Và trong trường hợp này là do bất đồng quan điểm chính trị. Các bang miền Nam thì ủng hộ việc duy trì nô lệ, trong khi Lincoln lại vận động tranh cử dựa trên tư tưởng giải phóng nô lệ.”

“Không đơn giản chỉ có thế đâu,” ông Crowe tham gia.

“Đúng là như thế,” Mycroft hoàn toàn đồng ý, “nhưng trong thời gian ngắn thì tình hình là như vậy. Chiến sự bắt đầu nổ ra vào ngày 12 tháng Tư năm 1861, và trong vòng bốn năm sau đó đã có 620,000 lính Mỹ chết vì giết lẫn nhau - thậm chí có những trường hợp, anh em và cha con giết hại lẫn nhau nữa.” Giọng anh lúc này run lên, và trong thoáng chốc căn phòng có vẻ tối đi như thể có một đám mây đen đang bay ngang che mặt trời vậy. “Dần dần,” anh tiếp tục câu chuyện, “miền Bắc - được biết đến như Hiệp Chủng Hoa Kỳ - tiêu diệt từ từ sức mạnh của miền Nam - phe được gọi là Liên Minh miền Nam. Tướng hàng đầu của phe ly khai này - Tướng Robert Lee - đã đầu hàng vào ngày 9 tháng Tư năm 1865. Đó cũng chính là lý do tên John Wilkes Booth đã hạ sát Tổng thống Lincoln năm ngày sau đó. Tuy nhiên sự việc diễn ra chỉ là một phần của một âm mưu lớn hơn nhiều - bên ly khai còn định giết chết Bộ trưởng và Phó Tổng thống - nhưng tên sát thủ thứ hai thất bại, còn tên thứ ba thì lại hóa rồ và bỏ trốn. Tướng cuối cùng của phe ly khai đầu hàng vào ngày 23 tháng Sáu năm 1865 và lực lựơng quân sự cuối cùng của họ - thủy thủ của tàu Shenandoah - cũng chịu thua vào ngày 2 tháng Mười một năm 1865.” Anh mỉm cười như nhớ ra điều gì. “Khôi hài nhất là họ lại đầu hàng tại Liverpool, nước Anh, sau khi băng qua biển Atlantic với nỗ lực tránh khỏi việc đầu hàng quân đội miền Bắc. Anh đã có mặt ở đấy, đại diện cho chính phủ Anh. Và thế là cuộc nội chiến kết thúc.”

“Tuy nhiên nó vẫn chưa hoàn toàn triệt để,” ông Crowe nói. “Vẫn còn nhiều người ở miền Nam muốn độc lập. Và cũng còn nhiều người ủng hộ điều đó lắm.”

“Đó chính là điều mà chúng ta đang phải đối mặt đây,” Mycroft nói với Sherlock. “Tên đồng lõa với Booth bị bắt và bị treo cổ vào tháng Bảy năm 1985. Booth thoát được, và sau đó được cho là bị bắt và bắn bởi quân của phe Liên Minh mười hai ngày sau.”

““Được cho là ư”?” Sherlock thắc mắc, khẽ nhấn mạnh lời của Mycroft.

Mycroft liếc nhìn ông Crowe. “Suốt ba năm qua người ta liên tục cho rằng Booth thật sự đã trốn thoát, và rằng cái người đã bị bắn chỉ là một tên đồng bọn trông giống hắn mà thôi. Họ còn cho rằng hắn đã đổi sang tên John St Helen và chạy trốn khỏi nước Mỹ để bảo toàn tính mạng. Hắn đang làm diễn viên trong chính cuộc đời mình.”

“Và giờ anh nghĩ là hắn đang ở đây sao?” Sherlock hỏi. “Tại Vương quốc Anh sao?”

Mycroft gật đầu. “Hôm qua anh mới nhận được điện tín từ Trung tâm Pinkerton. Các điều tra viên cho rằng có một người tên John St Helen có nhận dạng khớp với John Wilkes Booth mới nhập cảnh Anh Quốc từ Nhật Bản. Họ nhờ anh báo với ông Crowe vì họ biết ông ta đang ở đây.” Anh nhìn sang ông Crowe. “Alan Pinkerton tin chắc rằng Booth đã đến Anh Quốc trên con tàu CSS Shenandoah cách đây ba năm. Sau khi trú ngụ một thời gian thì hắn di chuyển sang nước khác. Giờ đây họ nghĩ là hắn đang quay lại.”

“Như đã nói với cháu cách đây không lâu,” ông Crowe nói với Sherlock, “Chú được cử đến đất nước này để lần theo dấu vết những tên đào tẩu, thoát khỏi nước Mỹ vì chúng đã phạm những tội ác khủng khiếp nhất trong suốt cuộc nội chiến. Chúng không những giết quân lính, mà còn thảm sát dân thường, đốt phá nhà dân, và nhiều tội ác tày trời khác. Vì chú đang ở đây, nên việc Alan Pinkerton muốn chú điều tra về gã John St Helen cũng là điều dễ hiểu thôi.”

“Cháu hỏi chú điều này được không,” Sherlock nói với ông Crowe, “trong cuộc nội chiến chú theo phe nào vậy? Chú kể rằng chú đến từ Albuquerque. Theo như cháu tra bản đồ đang treo trong thư viện của chú cháu thì Albuquerque là thị trấn của Texas, một tiểu bang miền Nam, đúng không?”

“Đúng như thế,” ông Crowe thừa nhận. “Texax đúng là một phần của Liên Minh miền Nam trong suốt cuộc nội chiến. Nhưng sinh ra tại Texas không có nghĩa là chú tự động ủng hộ họ tất cả mọi thứ. Một con người hoàn toàn có quyền quyết định cho riêng mình, dựa theo mức độ nhận thức của anh ta.” Ông nhăn mặt. “Chú thấy chế độ nô lệ... thật đáng kinh tởm. Chú không tin là người này thấp hèn hơn người kia chỉ vì màu da của họ. Chú nghĩ có nhiều lý do khác làm con người thấp kém hơn, ví dụ như khả năng suy nghĩ hợp tình hợp lý hay không, chứ không phải lý do phiến diện về màu da như thế.”

“Dĩ nhiên là Liên Minh miền Nam không hề nghĩ như ông đâu,” Mycroft nói nhẹ nhàng, “họ cho rằng màu da chính là biểu hiện anh có khả năng suy nghĩ hợp lý hay không đấy.”

“Nếu cháu muốn xác minh trí thông minh của một người, cứ nói chuyện với anh trai cháu nhé,” ông Crowe đùa cợt. “Màu da chẳng dính líu gì tới chuyện này cả. Một số người thông minh nhất mà tôi từng gặp là người da đen, và cũng có những kẻ ngu xuẩn nhất lại là da trắng.”

“Vậy chú ủng hộ Phe miền Bắc chứ?” Sherlock hỏi, háo hức quay lại đề tài lịch sử lôi cuốn và bất ngờ của ông Crowe.

Ông Crowe liếc nhìn Mycroft đang lắc đầu nhè nhẹ. “Cứ cho là tôi ở lại với Liên Minh miền Nam nhưng lại làm việc cho Miền Bắc.”

“Một gián điệp ư?” Sherlock há hốc mồm.

“Một mật vụ,” Mycroft chỉnh lời nhẹ nhàng.

“Điều đó có... trái với đạo lý không?”

“Chúng ta không nên thảo luận sâu về khía cạnh đạo lý, nếu mọi người không muốn mất cả ngày ở đây. Hãy chấp nhận rằng các chính phủ luôn luôn sử dụng mật vụ làm việc cho họ.”

Có điều gì đó trong câu chuyện với Mycroft cuối cùng cũng thẩm thấu được vào đầu Sherlock và làm cậu nảy ra một ý nghĩ. “Anh nói rằng Trung tâm Pinkerton nhờ anh báo với ông Crowe về John St Helen. Vậy là” – cậu cảm giác nghèn nghẹn dâng lên - “anh không phải đến đây thăm em. Anh đến để gặp ông ấy.”

“Anh đến để gặp cả hai,” Mycroft trả lời dịu dàng. “Một trong những đặc điểm tạo nên thế giới của người trưởng thành đó là các quyết định được đưa ra hiếm khi dựa trên một lý do duy nhất. Người trưởng thành làm chuyện gì đó với rất nhiều lý do cùng một lúc. Em cần phải hiểu điều đó, Sherlock. Cuộc sống không hề đơn giản như em nghĩ đâu.”

“Nó phải như thế chứ,” Sherlock bướng bỉnh chống đối. “Chuyện gì cũng phải một là đúng, hai là sai chứ.”

Mycroft cười đáp. “Em đừng bao giờ thử sức với ngành Ngoại Giao nhé.”

Crowe nhấp nhổm không yên. Ông có vẻ bứt rứt với Sherlock. “Cái gã St Helen giờ đang ở đâu?” Ông hỏi.

Mycroft rút một miếng giấy từ trong túi ra xem. “Hắn hiện đang cư trú tại Godalming, trên đường Guidford. Tên của ngôi nhà là” - anh nhìn kỹ lại tờ giấy - “Shenandoah, đó có thể là một dấu hiệu hoặc chỉ là sự ngẫu nhiên.” Anh dừng lại. “Vậy ông định sẽ làm gì?”

“Điều tra trước,” ông Crowe đáp. “Đó chính là lý do tôi ở đây. Vì tôi phải hiểu hết tất cả mọi điều mà tôi sẽ phải theo đuổi. Một gã người Mỹ to lớn như tôi rất dễ bị phát hiện ra nhanh chóng.”

“Vậy ông nhớ đừng manh động nhé,” Mycroft căn dặn, “và đừng hành xử theo luật rừng. Đất nước này rất nghiêm khắc. Tôi không muốn thấy ông bị treo cổ vì tội giết người đâu đấy.” Anh lẩm bẩm. “Tôi rất ghét những tình huống trớ trêu. Nó làm tôi cảm thấy khó chịu vô cùng.”

“Em có thể giúp mà,” Sherlock bất ngờ chen ngang, cậu cũng ngạc nhiên với phản ứng của mình. Ý nghĩ đó như vọt thẳng ra mà không kịp để cậu suy xét giây nào.

Hai người đàn ông nhìn chằm chằm cậu đầy ngạc nhiên. “Không đời nào,” Mycroft đáp cứng rắn.

“Dĩ nhiên là không,” ông Crowe cũng ngắt lời cùng lúc với Mycroft.

“Nhưng em có thể cưỡi ngựa vào Godalming và thăm dò được mà,” Sherlock khẩn khoản. “Sẽ không ai để ý em đâu. Và thậm chí trong vụ Nam tước Maupertuis em cũng đâu có để lộ là em có thể làm những điều như vậy.”

“Đó hoàn toàn là một chuyện khác,” Mycroft giải thích. “Em bị dính vào vụ đó là do vô tình thôi, và hầu hết các nguy hiểm cứ tìm đến em trong khi ông Crowe đây lại cố gắng giải thoát cho em.” Anh khẽ dừng lại, đắn đo. “Cha sẽ không bao giờ tha thứ cho anh nếu anh để em rơi vào bất cứ nguy hiểm nào, Sherlock.” Anh hạ giọng.

Sherlock cảm thấy buồn ghê gớm khi nghe anh trai mô tả những hành động của mình trong vụ Nam tước Maupertuis. Cậu cảm giác là mình bị bỏ lơ và nhiều tình tiết xảy ra đã bị bóp méo, nhưng vẫn giữ im lặng. Chẳng có ích gì để tranh luận những chuyện quá khứ khi có nhiều điều quan trọng hơn cần quan tâm. “Em sẽ không làm gì gây chú ý hết,” cậu chống chế. “Và em cũng không thấy điều đó có thể gây ra bất cứ nguy hiểm gì.”

“Nếu John St Helen là John Wilkes Booth thì hắn chính là một sát thủ,” ông Crowe tuyên bố, “và là một kẻ đào tẩu đang phải đối mặt với án treo cổ nếu hắn quay lại - hoặc bị trao lại - cho nước Mỹ. Hắn giờ như một con thú đang bị dồn vào chân tường. Nếu hắn phát hiện ra là mình đang gặp nguy hiểm, hắn sẽ tìm cách xóa dấu vết và lại biến mất, và chú lại phải tiếp tục truy lùng. Chú rất ghét nhìn thấy cảnh cháu trở thành một trong những dấu vết cần phải xóa của hắn ta.”

“À còn một chuyện nữa,” Mycroft thì thào. Anh liếc nhìn ông Crowe. “Tôi không biết trung tâm Pinkerton thông báo cho ông đến đâu rồi, nhưng họ càng lúc càng tin rằng Booth và đồng bọn của hắn ta đang âm mưu một kế hoạch gì đó lớn hơn.”

“Dĩ nhiên là chúng đang âm mưu đấy,” ông Crowe lên giọng. “Kế hoạch đó tên là Cuộc Chiến giữa các Tiểu Bang.”

“Đó cũng chính là ý tôi muốn nói,” Mycroft nói vẻ nặng nề, “ý tưởng sát hại Tổng thống Lincoln không phải là ý của chúng; chúng đang làm việc theo chỉ bảo và hướng dẫn của một tổ chức với qui mô lớn hơn nhiều. Nếu Booth thật sự đang ở Anh thì khả năng hắn quay về Mỹ là rất cao, và nếu đúng là như thế thì chúng ta phải hỏi tại sao. Mục đích của hắn là gì?”

Ông Crowe mỉm cười. “Nếu hắn quay lại Mỹ thì công việc của tôi dễ hơn nhiều. Tất cả điều tôi phải làm là báo động và bắt hắn ngay khi hắn bước xuống tàu.”

“Nhưng đó có phải là ý kiến hay khi chúng ta thu hút sự chú ý của hắn? Ngăn cản hắn ta không có nghĩa là ngăn cản được âm mưu của chúng.”

“Nếu thật sự có một âm mưu thì...” ông Crowe đáp, lắc lắc đầu.

Sherlock cảm giác như mình đang bị rơi vào một cuộc thảo luận triết học. Những gì cậu biết là giờ đây người gia sư thân quen của cậu đang đối mặt với việc có thể bị triệu về nước, hoặc sẵn sàng cho một cuộc rượt bắt mục tiêu của mình trên khắp thế giới. Nếu có thể giúp được gì cậu sẽ vô cùng sẵn sàng. Nhưng cậu sẽ không bao giờ nói cho Mycroft biết ý định ấy.

“Em đi được không?” cậu hỏi.

Mycroft đưa tay lên vẫy cho phép. “Em đi dạo ngắm cảnh đồng quê hay làm bất cứ gì mà em thích. Chúng ta sẽ nói chuyện với nhau sau nhé.”

“Sáng mai anh đến chỗ tôi đi,” ông Crowe nói, thậm chí không nhìn Sherlock. “Chúng ta sẽ tiếp tục bàn bạc.”

Sherlock lách ra ngoài trong khi hai người đàn ông tiếp tục nói về tính phức tạp của những hiệp ước dẫn độ tội phạm ở cấp độ liên bang giữa Mỹ và Anh.

Bên ngoài mặt trời vẫn còn nặng nề trên cao. Cậu có thể ngửi thấy mùi khói gỗ và thoang thoảng mùi mạch nha của những nhà máy bia ở Farnham.

Godalming có lẽ cũng không xa lắm, phải không nhỉ? Có con đường tên Guildford ngay khu đó, có nghĩa là nó ở đâu đó gần Guildford, và Guildford lại ở đâu đó gần Farnham.

Matthew Arnatt có thể biết chỗ đó.

Matthew - hay còn gọi là Matty - là một cậu bạn mà Sherlock chơi khá thân trong vài tháng qua. Cậu ta sống một mình, trên một cái xuồng dùng để di chuyển giữa các con rạch nhỏ từ thị trấn này sang thị trấn khác. Cậu ăn trộm thức ăn khi đói và tránh không để bị đưa vào trại tế bần. Cậu ở lại Farnham lâu hơn những thị trấn khác đã đi qua, nhưng cậu và Sherlock lại chưa bao giờ nói với nhau lý do vì sao.

Nếu Sherlock muốn đến Godalming để dò xét ngôi nhà tên Shenandoah và điều tra xem người đàn ông đang sống ở đó có phải là sát thủ John Wilkes Booth không, thì cậu muốn có Matty đồng hành. Matty đã cứu sống cậu một vài lần rồi nên Sherlock hoàn toàn tin tưởng cậu ta.

Cậu đi vòng ra sau nhà, ngang qua nhà bếp, về hướng chuồng ngựa. Những con ngựa mà cậu và Matty lấy được từ gia trang Nam tước Maupertuis cách đây mấy tuần, đang đứng chăm chỉ ăn cỏ khô trong giỏ. Sherlock chưa biết phải làm gì với chúng sau khi kế hoạch lớn của Nam tước bị thất bại, nên cậu đành nhờ các chú bé chăn ngựa chăm sóc chúng và dúi cho một đồng si-ling. Mà cũng chẳng có ai thèm để ý đến việc dư hai con ngựa trong nhà. Dĩ nhiên cậu còn có thể cưỡi ngựa đi dạo với Virginia. Cô bé là người đã dạy cho cậu cưỡi, và việc cưỡi ngựa đúng cách làm cậu thích thú vô cùng.

Sherlock thắng ngựa cho mình và cầm dây cương một con ngựa khác bằng tay trái. Cậu cưỡi ngựa ra bãi đất trống, dắt theo con ngựa kia phía sau. Việc điều khiển cùng lúc cả hai con làm cậu đi chậm hơn nhiều, và nửa tiếng sau vẫn còn loanh quanh trong Farnham, tìm kiếm nơi Matty cột chiếc xuồng ven bờ sông.

Matty đang ngồi trên xuồng, nhìn ra hướng dòng sông.

Cậu ta nhảy cẫng lên khi nhác thấy Sherlock.

“Cậu đem theo ngựa à,” cậu nói to.

“Tớ biết,” Sherlock đáp. “Khả năng quan sát của cậu thật tuyệt vời.”

“Thôi nào,” Matty điềm nhiên nói. “Tớ thấy là cậu muốn tớ cùng đi đến nơi nào đó chứ. Nếu đúng vậy thì còn chọc quê tớ làm gì nữa.”

“Có chí khí lắm,” Sherlock đáp lại. “Xin lỗi là đôi khi tớ không kiềm chế được mình nhé.”

“Vậy, chuyện gì thế?”

“Tớ nghĩ là cậu có thể muốn làm một chuyến tới Godalming,” Sherlock bảo.

Matty nheo mắt nhìn Sherlock. “Cậu muốn tớ làm gì nào?”

“Tớ sẽ nói rõ trên đường đi.” Sherlock trả lời.

Để đến được Godalming những con ngựa phải chạy hàng dặm liên tục. Con đồi dẫn họ tới một rặng núi dài hun hút. Hai bên dần thoáng đãng và khung cảnh đồng quê lại trải dài tít tắp đến khi cả hai mất hút vào màn sương mù giăng kín xa xa.

Matty liếc ngang vai nhìn Sherlock. “Chúng ta phải đi dọc theo Hog”s Back thêm một lúc nữa, sau đó sẽ băng đồi xuống Gomshall. Cũng phải mất cả tiếng nữa. Cậu thấy có ổn không, hay cậu muốn dừng chân nghỉ chút xíu?”

“Vậy tụi mình nghỉ ngắm cảnh vài phút đi,” Sherlock nói. “Cũng để cho mấy con ngựa nghỉ lấy hơi nữa.”

“Mấy con ngựa không sao đâu.” Matty động viên. “Cậu không bị ê ẩm gì chứ?”

Đoạn đường còn lại có vẻ dễ dàng hơn. Họ đi qua những cánh đồng và những khoảng đất trống mênh mông, nơi lũ cừu, dê và heo rừng đang gặm cỏ từng đàn sát bên nhau. Khi đến được ranh giới của Godalming, họ băng qua một cây cầu bắc ngang qua một dòng sông nhỏ phủ đầy lau sậy cao xanh mướt hai bên bờ. Ngay bên tay trái của cây cầu có một con đường nhỏ rẽ ngang.

“Tớ nghĩ đây là đường Guidford đó.” Matty vừa nói vừa đưa tay chỉ. “Cậu muốn đi ngả nào đây?”

“Chúng ta hướng ra phía ngoại ô chút đi.” Sherlock đáp. “Tớ có cảm giác cái nơi mình đang kiếm nằm xa và tách biệt hơn.”

Họ đi dạo một lúc, lần này chậm hơn để Sherlock có thể xem xét từng ngôi nhà lướt qua tầm mắt. Matty trông có vẻ hài lòng với việc ngó nghiêng này mà chẳng cần phải hỏi Sherlock lý do gì.

Có rất nhiều ngôi nhà không được đặt tên hoặc là nhỏ hơn Sherlock tưởng. Chẳng lẽ nào người ta lại đặt tên

Shenandoah cho một ngôi nhà tồi tàn? Đặc biệt đó lại là một cái tên nổi tiếng, liên quan đến một sự việc to lớn và quan trọng như thế. Trước vài ngôi nhà thỉnh thoảng có vài đám trẻ tụ tập chơi đùa với đồ chơi gỗ, dây hoặc mấy trái banh da. Vài đứa còn đưa tay ra vẫy vẫy khi thấy hai cậu bé đi ngang qua.

Cuối cùng họ đi đến một ngôi nhà nằm tách biệt ngay khúc cua của con đường và có đám cây nhỏ bao quanh. Từ ngoài đường, Sherlock có thể thấy được tấm bảng gỗ gắn trên cửa. Chữ trên tấm bảng dài và có thể bắt đầu bằng chữ “S”. Hoặc cũng có thể là không. Những nhánh hoa đậu tía màu tím leo tràn kín hết một bên hông nhà, bám chặt vào bất cứ chỗ trống hay gồ ghề nào mà chúng tìm thấy.

“Phải nó không?” Matty hỏi. “Chúng ta đến gõ cửa chứ?”

“Không,” Sherlock nói. “Cứ tiếp tục đi qua rồi mới dừng lại.”

Mặt tiền ngôi nhà được quét vôi trắng với những khung cửa sổ được lắp cửa chớp. Khi đi ngang qua cậu còn để ý thấy khu vườn được chăm sóc khá kỹ càng, chứng tỏ có người đang sống ở đây.

Qua khỏi ngôi nhà, hai cậu bé dừng lại.

“Này, rõ ràng là cậu đã thấy cái bảng tên rồi mà,” Matty nói, “nhưng cậu lại không muốn gã đang sống ở đó biết. Chuyện gì vậy?”

“Tớ sẽ nói cho cậu sau,” Sherlock hứa hẹn. “Tớ cần phải tiếp cận gần hơn ngôi nhà đó. Cậu có ý gì không?”

“Thì cứ đi thẳng tới và gõ cửa thôi?”

“Vui đó.” Cậu liếc nhìn xung quanh. Chưa có ý gì hay ho cả. “Cậu đi ngược lại gặp lũ trẻ đang chơi banh mà chúng ta mới thấy được không?” Sherlock thọc tay vào túi móc ra một mớ đồng cắc. “Cho chúng một vài đồng này và mượn quả banh một lúc nhé. Nói với chúng là chúng ta sẽ trả lại ngay.”

Matty nhìn cậu đầy lạ lẫm. “Chúng ta đi xa tới đây chỉ để chơi banh hử.”

“Cứ làm theo tớ nói đi mà.”

Matty thở dài cầm mấy đồng xu và quay ngựa đi, không quên liếc nhìn qua vai và chặc lưỡi rõ to.

Sherlock xuống ngựa và kiên nhẫn đứng chờ, sau đó cậu buộc ngựa, đến gần hơn đến rặng cây và nhìn vào ngôi nhà. Chưa thấy bóng ai cả. Liệu nó có phải là

Shenandoah, hay gì khác,

Summerisle hay

Strangways chẳng hạn?

Sau một lúc dài như cả năm, Matty quay lại. Cậu ta đang kẹp trái banh dưới cánh tay.

“Tụi mình đi tong rồi,” cậu nói rồi dừng lại. “Trái banh bị xì hơi mất tiêu.”

“Không hề gì. Giờ tụi mình sẽ cùng đi ngược lại, ném banh qua lại với nhau nhé. Khi tới ngôi nhà thì ai đang cầm banh phải cố ý ném hụt, cho nó bay về hướng cửa ngôi nhà càng gần càng tốt.”

“Để người còn lại sẽ chạy theo và lượm nó. Nhất trí ngay.”

“Để tớ có thể chạy theo và nhặt nó lên chứ. Tớ cần phải xem cái bảng nó viết gì trên đó, vì cậu không đọc được, nhớ không? Làm sao cho hợp lý nhất đó.”

Họ thơ thẩn đi ngược lại, giả vờ quăng banh qua lại. Một vài lần Matty để trượt banh rớt xuống đất, cậu lại đá bổng lên về hướng Sherlock.

Khi đến điểm gần ngôi nhà nhất, ngay con đường nhỏ dẫn thẳng đến cửa trước, Matty khéo léo xoay người đứng qua phía bên kia đường, rồi cậu vung banh cao khỏi vai và ném nó thật cao, bay qua đầu của Sherlock. Trái banh đáp xuống vườn, nảy lên được một lần, nhẹ hẫng, trước khi lăn về hướng cửa chính.

Sherlock giả vờ tỏ ra khó chịu, dang rộng hai tay và nhún vai, sau đó quay người lại chạy khum khum theo con đường dẫn đến cửa trước ngôi nhà. Khi cúi người với tay lấy trái banh, cậu kín đáo ngước lên nhìn vào tấm biển treo bên cạnh cửa.

Shenandoah.

Chính xác là ngôi nhà này rồi. Giờ chỉ cần quyết định phải làm gì tiếp theo. Liệu cậu có nên nán lại quan sát để có thể tả cho Mycroft và Amyus Crowe người đang cư ngụ ở đây trông thế nào, hay là cậu sẽ bạo gan lẻn vào nhà và dò xét xung quanh nếu không có ai trong nhà?

Quyết định của cậu lập tức biến mất khi cánh cửa đột ngột bật mở và một người đàn ông xuất hiện từ trong bóng tối. Dáng hắn mỏng dính, bộ râu quai nón ngắn, nhọn hoắt như chĩa ra từ mái tóc màu xám tro. Nhưng điều làm Sherlock sợ cứng cả người chính là một nửa khuôn mặt bên trái của hắn ta. Nó bị phỏng nặng đến nỗi da mặt bị chuyển sang màu đỏ và phồng rộp lồi lõm. Còn đôi mắt của hắn chỉ là hai hố đen sâu hoắm không thấy cả con ngươi.

“Thằng nhãi ranh này,” hắn gầm lên, chộp tóc Sherlock và lôi vào nhà trước khi cậu kịp mở miệng.