← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 17

Con ngựa giật mình nhảy tránh sang một bên để cứu lấy mạng người và vật. Cái thứ vừa nhảy xổ xuống người Sherlock và con ngựa, rơi xẹt xuống đất, bốn chân đầy vuốt nhọn hoắt mất thăng bằng khi tiếp đất làm cho nó ngã sang một bên, nhưng sau đó nó búng chân chồm dậy ngay. Sherlock hơi ngờ ngợ khi nhìn thấy cặp mắt hắt chiếu ánh trăng, và cặp răng nanh nhọn dính nước dãi lấp lánh trong cái miệng đầy rãi nhớt.

Cậu rút ngay lưỡi dao giắt ở thắt lưng và giơ ra phía trước. Cũng chưa hẳn đã có tác dụng, nhưng đó là tất cả những gì cậu đang có.

Trên cao phía trước phát ra một tiếng gầm gừ trong cổ họng. Sherlock không nhận ra được nhưng con vật lùi lại về phía có giọng nói, gầm gừ nhìn Sherlock và con ngựa.

Giờ thì Sherlock đã nhận ra. Đó là một trong những con báo sư tử của Duke Balthassar. Điều này cũng có nghĩa là chắc chắn còn một con nữa đang quanh quẩn đâu đó. Và cũng có nghĩa là Duke Balthassar cũng đang có mặt.

Con ngựa chết khiếp vì sợ: mắt nó trợn lên, răng nhe ra ngoài miệng. Nó chết đứng một chỗ, không dám cục cựa khi có lũ báo xung quanh.

Sherlock tuột khỏi yên ngựa, tim đập thình thịch trong lồng ngực. Cậu vừa mệt, đói và khát nữa. Cậu không muốn điều này. Không phải bây giờ. Không phải ở đây.

Nhưng cậu cũng không nghĩ rằng mình có được sự lựa chọn nào khác.

Cậu bước về phía trước, ra chỗ có ánh trăng ở đầu hẻm núi đầy đá.

Duke Balthassar đứng cách bờ hẻm núi vài tấc. Lão ta vẫn còn mặc bộ quần áo màu trắng, đội mũ trắng, mang chiếc mặt nạ sứ màu trắng, nhưng lần này trên đùi lão lủng lẳng một khẩu súng lục. Sherlock thấy được ở phía sau tai phải của lão có một con đỉa màu đỏ bóng lưỡng dưới ánh trăng, là đốm màu duy nhất trong toàn bộ khung cảnh đen kịt này. Sherlock thấy dường như con đỉa cũng đập nhẹ theo mạch máu của lão.

Con báo vừa nhảy xuống vồ Sherlock và con ngựa giờ đứng bên cạnh lão Bathassar, đuôi phe phẩy liên hồi. Sherlock chú ý là nó cứ liếc nhìn mãi vào con đỉa màu đỏ. Nó có vẻ bồn chồn, thậm chí còn sợ hãi nữa. Con báo kia ở đâu vẫn không thấy.

“Sherlock Scott Holmes,” lão Balthassar lên tiếng, giọng của lão nhẹ như tiếng gió ru. “Chắc là ta có số gặp nhau, như những cặp tình nhân có ngôi sao chiếu mạng trong kịch của Shakespeare vậy.”

“Ông làm gì ở đây?” Sherlock hỏi cộc lốc.

“Tao đang chờ mày,” Balthassar trả lời. “Khi tao phát hiện ra mấy con bò sát của tao vẫn còn đói, còn phòng quan sát thì bị ngập nước, tao đoán ra ngay là mày và mấy đứa bạn gan lì đã trốn thoát. Mày đã biết quá nhiều thứ nên tao phải truy tìm và thanh toán thôi. Con báo của tao đánh hơi được mùi của mày bên ngoài thị trấn rồi bọn ta cứ đi theo đến đây, đến chỗ ngọn đồi.” Lão ngừng lại, nghiêng đầu một chút. “Tao phải thừa nhận là tao cứ tưởng mày đi vào thị trấn, nhưng mày lại ra ngoài này. Lý do gì?”

Sherlock suy nghĩ một hồi. Balthassar chắn hẳn đã lẫn lộn hai dấu vết khác nhau: dấu vết mà Sherlock, Matty và Virginia đã để lại khi họ đi vào thị trấn Perseverance và dấu vết của Sherlock và con ngựa đã để lại khi Sherlock

đi ra khỏi thị trấn. Tức là Balthassar chưa biết rằng các kế hoạch của mình đã bị lộ. Sherlock có nên nói cho lão biết hay không?

Nếu lão Balthassar biết rằng giờ đã quá muộn, rằng quân đội của lão đã bị phát hiện, thế thì lão sẽ không có lý do gì để giết Sherlock cả. Ít nhất cũng về mặt lý thuyết.

“Quân đội Liên bang đã biết ý định xâm lăng Canada của ông,” Sherlock lên tiếng. “Không còn lý do gì để tiếp tục nữa. Phải dừng thôi, ông Balthassar ạ. Ông có thể cứu được nhiều mạng sống.”

Lão Balthassar im lặng cân nhắc. Không thể biết được những gì lão ta suy nghĩ đằng sau chiếc mặt nạ trắng.

Cuối cùng lão hỏi. “Họ đã biết việc này bao lâu rồi?”

“Đủ lâu để cho quân đội của ông không bao giờ có cơ hội vượt qua được biên giới.”

“Nếu như thế thì mày ở đây làm gì?” lão Balthassar hỏi.

“Quân đội Liên bang chuẩn bị thả chất nổ xuống đầu lính của ông. Tôi không thể để cho việc này xảy ra. Tôi phải ngăn lại.”

“Tao cho rằng phải chăng việc này xuất phát từ một dạng tình cảm cao thượng lệch lạc hơn là sự nhất trí với lối sống của Liên quân miền Nam?”

“Tôi chỉ không muốn thấy có thêm nhiều người chết nữa, thế thôi,” Sherlock trả lời giọng mệt mỏi.

Lão Balthassar lắc đầu và đột nhiên giọng lão chuyển sang giận dữ. “Mày mong tao sẽ biết ơn à?”

Sherlock cảm thấy cả người mệt mỏi như phải vác một khối chì trên vai. “Tôi không mong đợi bất cứ thứ gì,” cậu nói. “Tôi làm việc này không phải vì ông, mà cũng chẳng vì ai cả. Tôi làm thế là vì tôi. Vì những gì tôi tin tưởng.”

“Thế thì mày phung phí thời gian rồi,” Balthassar ngắt lời. “Cuộc xâm chiếm vẫn tiến hành bất chấp những việc mày đã cho tao biết.”

“Tức là các ông vẫn tập trung người lại, và nếu họ chọn cách chiến đấu thì chiến trận sẽ nổ ra.”

“Cách nào thì bọn chúng cũng chết,” Balthassar gầm lên. “Tức là mày thất bại.”

“Tôi đâu có kiểm soát được cả thế giới,” Sherlock lên tiếng. “Tôi chỉ làm những thứ gì tôi có thể. Ít nhất tôi cũng đã làm những gì có thể để ngăn một cuộc tàn sát. Phần còn lại là của mấy ông, của Amyus Crowe và của Chính phủ.” Balthassar lên giọng cay đắng nhưng chiếc mặt nạ bằng sứ của lão không chút xúc cảm, lấp loáng dưới ánh trăng. “Vấn đề của mày là mày để cảm xúc xen vào phương pháp lý luận quá nhiều. Nếu tao có được lời khuyên cho mày thì đó là mày nên kiềm chế bớt xúc cảm lại. Phải kiểm soát xúc cảm. Xúc cảm chỉ làm cho ta sai lệch. Chỉ làm tổn thương ta thôi.”

Trong đầu Sherlock thoáng nghĩ tới những kỉ niệm về mẹ mình, chị mình và những kỉ niệm này đều đậm màu cảm xúc, những cảm xúc làm cậu đau đớn. Rồi tiếp tới những kỉ niệm về Virginia nữa, nhưng những kỉ niệm này không làm cho cậu đau khổ mà làm cho cậu cảm thấy hạnh phúc.

“Tôi cảm kích lời khuyên của ông,” cậu nói, “nhưng tôi vẫn cứ giữ những cảm xúc của mình nếu ông không phiền. Tôi thích những cảm xúc này, tốt xấu gì cũng được.”

“Tao muốn nói là mày sẽ sống cả đời để hối tiếc,” Balthassar nói, “nhưng mà mày đâu có sống được lâu.” Lão búng ngón tay. Con báo bên cạnh lão dấn về phía Sherlock, răng nhe ra, mắt thít lại.

Sherlock khua tay về phía trước. Lưỡi dao ánh lên như nước dưới ánh trăng.

Con báo không chút chùn chân. Nó cứ lừ lừ tiến tới.

Phía sau lưng cậu có tiếng chân bước trên nền đá. Sherlock chầm chậm quay đầu lại.

Con báo thứ hai đang ở sau lưng cậu.

Sherlock nghĩ đến nhiều giải pháp, nhưng chẳng có cái nào khả thi cả. Làm sao cậu có thể chọi lại hai con vật chỉ với một lưỡi dao?.

Nhưng phải chăng lũ này không phải là thú hoang dã? Chúng đã được thuần hóa một phần – hoặc ít nhất chúng cũng vâng lệnh Balthassar. Chúng

sợ lão, và như thế Sherlock có được một cơ may.

Con báo ở sau lưng cậu đột nhiên phóng tới làm cậu ngả thụp xuống đất rồi lăn tròn qua một bên. Một bóng đen bay vụt qua đầu. Cậu bật dậy nhưng hai con báo còn nhanh hơn.

Mỗi bên mỗi con hầm hè nhìn trừng trừng vào cậu.

Loài mèo có thể leo cây, nhưng không leo được vách đá.

Sherlock lấy hết sức trèo nhanh lên phía dốc đứng của khe núi ; mấy ngón tay cậu cào vào đá để tìm các khe hở, cố tìm những chỗ có gờ nhỏ để đu lên mà đá không bị vỡ vụn. Phía bên dưới, hai con báo nhảy dựng lên.

Mấy ngón tay của cậu bám vào một mỏm đá phẳng, rồi cậu cuống cuồng đu người lên vừa lúc đó một con báo giơ vuốt vớ trúng chiếc giày và kéo giật lại. Cậu dồn hết sức rướn người lên thật mạnh, đưa người an toàn lên một gờ đá chạy dọc theo một bên của hẻm núi, gờ đá này một đầu hướng lên trên còn đầu kia quay xuống dưới.

Cậu cúi nhìn xuống, thấy bàn chân mình không hề hấn gì. Ngoài cái đế giày đã bị con báo giật tuột mất, toàn bộ người cậu vẫn nguyên vẹn.

Tia mắt lóng lánh của hai con báo không còn thấy ở phía dưới nữa vì chúng đang tìm một hướng khác để tấn công. Đây là đất nhà của nó chứ không phải của Sherlock. Chúng sẽ tìm ra đường sớm thôi.

Giọng Balthassar chợt vói lên. “Đúng là thú vị thật, mày chỉ làm chậm lại điều không thể tránh được mà thôi. Đó không phải là cách hành động hợp lý. Nên bỏ cuộc đi; như thế sẽ dễ dàng hơn, ít đau đớn hơn.”

“Ông đã từng hứa điều này nhưng ông không giữ lời,” Sherlock thở hổn hển.

Sherlock bò nhanh dọc theo gờ đá chỉ rộng hơn thân người của cậu một chút, cố gắng kiếm một chỗ nào đó tương đối an toàn. Cậu nghe được tiếng vuốt của con báo cào trên mặt đá từ một chỗ nào đó ở vách đá đằng xa, cùng với tiếng thở hì hộc vang khắp hẻm núi.

Nếu không làm một cái gì đó ngay thì cậu sẽ chết.

Ép người vào một bên hẻm núi, cậu nhìn xuống phía dưới. Cậu chỉ thấy cái mũ trắng của lão Balthassar mà thôi.

Trong bụng thầm cầu nguyện là mình suy đoán đúng về mấy con báo và mối quan hệ giữa chúng với lão Balthassar, Sherlock nhảy xuống.

Cậu đổ nhào vào người lão Balthassar, hất lão té xuống đất làm cho khẩu súng lục văng vào một góc tối. Lúc cố lăn người ra xa, Sherlock cảm thấy như bị các vật nóng đỏ đâm xuyên qua người đau nhói khi vai trái đập xuống nền đất. Khi cậu lồm cồm bò dậy thì lão Balthassar đã đứng lên rồi. Tay phải của lão bợ lấy tay trái. Cánh tay bị biến dạng như thể mấy cái xương mỏng manh của lão bị gãy lìa khi ngã.

Chiếc mặt nạ bằng sứ bị văng ra xa ra ngoài đất cách đó mấy tấc, vỡ ra thành ba mảnh. Khi không còn mặt nạ, khuôn mặt của lão biến dạng méo xệch trong vẻ căm tức tột độ.

Lão gầm lên. “Dẹp phép lịch sự của dân miền Nam đi. Mày sẽ tha hồ la khóc khi tao cho mấy con thú lóc xương bóc thịt mày ra.” Mấy con đỉa đen nhỏ trên mặt lão trông giống như những cái lỗ xuyên qua nền trời tối đen ở đằng sau. Balthassar nhìn băng qua Sherlock. “À, chúng đây rồi,” lão lên tiếng, rồi bật ra ba tiếng gừ gừ trong họng, thứ ngôn ngữ lão dùng để giao tiếp với các con vật.

Nghĩ tới lúc cảm nhận sức nặng của con báo trên lưng và cái đau đớn tột cùng khi những cái vuốt kia bấu vào da thịt, Sherlock tiến về phía trước nhắm vào Balthassar.

Gã đàn ông gầy nhom đó không hề mong đợi điều này. Lão nao núng lùi ra sau, tay phải vẫn đỡ cánh tay trái nhưng Sherlock giơ tay chộp bàn tay trái của lão và túm lấy con đỉa đỏ nằm ở phía sau tai. Nó cưỡng lại một chút rồi mới tách ra. Dưới ánh trăng những giọt máu màu đen phọt ra tung tóe trên vai bộ đồ trắng của lão Balthassar.

Balthassar thét lên: một âm thanh lanh lảnh chứa đầy sự kinh hoàng và giận dữ.

Con đỉa khổng lồ nhớt nhợt trong tay Sherlock. Trước khi Balthassar có thể làm được việc gì, trước khi lũ báo nhảy chồm tới, Sherlock vung dao ra và cứa con đỉa thành hai khúc. Nó quằn quại co lại, túa máu của lão Balthassar vào lòng bàn tay của Sherlock. Cậu quay người lại, mỗi bàn tay giữ một phần con đỉa rồi ném về phía hai con báo đang nhào về phía cậu.

Nhớ tới phản ứng của chúng trước đó lúc ở dưới hàng hiên nhà lão Balthassar, cậu nghĩ rằng chúng sẽ kinh sợ và cong đuôi bỏ chạy, nhưng chúng làm cho cậu ngạc nhiên. Chúng há miệng táp mỗi phân nửa con đỉa đang bay tới và nuốt gọn như thể những miếng ngon thưởng cho chúng.

Chúng cứ dấn tới về phía trước.

Nhưng không phải về phía cậu. Mắt chúng nhìn chằm chằm vào lão Balthassar.

Sherlock chầm chậm lùi về một phía. Hai con báo không thèm chú ý đến cậu nữa mà cứ tiếp tục tiến về phía lão Balthassar.

Quả là một sự đổi chiều kỳ lạ. Một người đã thống trị chúng giờ đây bị thương trở nên yếu đuối, còn con đỉa mà chúng sợ hãi thì không còn nữa. Những cái gọi là quyền lực của lão Balthassar dành cho chúng dường như sụp đổ. Giờ thì quyền lực là của chúng. Lão ta không còn làm hại chúng được.

Lão Balthassar lùi lại. Gờ đá lởm chởm ở phía sau lưng lão. Lão nói thứ gì đó bằng thứ ngôn ngữ mà lão thường sử dụng để sai khiến lũ thú họ mèo, nhưng chúng cứ phớt lờ.

Sherlock chăm chú nhìn, miệng khô đắng, tim đập thình thịch. Lão Balthassar lui một bước nữa, giơ tay lên để xua hai con báo đi, nhưng chân trái của lão bước hẫng ra ngoài cái gờ đá chênh vênh, lão rú lên, rơi vào khoảng không đen kịt.

Lũ báo đứng đó một hồi, nhìn qua gờ đá, và rồi cũng chẳng thèm nhìn Sherlock mỗi con mỗi hướng lao về phía núi.

Sherlock đứng đó một lúc để thở và cũng để cho cái vai bớt đau. Dường như xương không vỡ. Ít nhất là thế.

Mấy con báo không quay trở lại.

Cuối cùng cậu bước lại chỗ con ngựa đang co rúm lại vì quá sợ. Để trấn an nó, cậu vỗ nhẹ hai bên hông cho đến khi nó thôi không còn run rẩy nữa. Rồi cậu thót lên yên, tiếp tục hành trình đi dọc theo con dốc dẫn xuống đồng cỏ.

Cậu tìm thấy thi thể của lão Balthassar ở cuối con dốc.

Cái xác dúm dó và dập nát của lão nằm xoãi trên một nền đất phủ cỏ bằng phẳng. Trên mặt lão chẳng còn con đỉa nào cả. Có lẽ chúng đã bỏ đi để tìm con mồi khác ngay lúc máu của lão không còn bơm qua các tĩnh mạch. Chỉ là một quyết định thuộc về bản năng, không nhất thiết phải hợp lý.

Sherlock hẳn đã thiếp đi trên lưng ngựa, bởi vì việc kế tiếp mà cậu nhận ra là con ngựa đang phi nước kiệu qua khu ngoại ô của thị trấn và ánh hồng đã ửng lên nền xanh ở phía chân trời. Cậu cột con ngựa ở ngoài chuồng rồi quay về khách sạn. Tiền đặt cọc lấy sau cũng được.

Không có ai trong phòng ăn khi cậu bước vào. Cậu đi về phòng mình. Cũng chẳng có ai đứng ra ngăn lại. Cậu cứ tưởng sẽ có người nào đó nhảy xổ ra tấn công mình hoặc có thứ gì nhảy phóc lên vai khi quay lưng lại, nhưng không có gì cả. Mọi thứ đều an bình và lặng lẽ. Cậu vào phòng mình rồi chui vào chăn ngay. Như thể không có việc gì xảy ra. Như thể cậu chưa hề ra khỏi phòng kể từ lúc bước vô lần đầu vào buổi sáng, sau chuyến cuốc bộ dài băng qua cánh đồng cỏ từ nhà lão Balthassar cùng với Matty và Virginia.

Cậu ngủ một mạch không mơ mộng gì cả, hoặc là cậu có nằm mơ nhưng khi thức dậy không nhớ đã mơ gì. Như thế cũng tốt.

Ánh mặt trời đã rọi qua cửa sổ khi cậu tỉnh dậy. Cậu nằm trên giường một lát, kiểm lại những gì đã xảy ra rồi đưa vào bộ nhớ. Sau đó cậu thay quần áo và đi xuống lầu.

Amyus Crowe đang ngồi trong phòng ăn, nói chuyện với hai nhân viên của Pinkerton. Ông nói với họ việc gì đó rồi bước sang gặp Sherlock khi họ đi ra.

“Chú chẳng hề thấy cháu từ sáng hôm qua đến bây giờ,” ông ta lên tiếng. “Chú mắc tiếp người của Pinkerton, còn Matty với Virginia nói là cháu không ra khỏi phòng. Chắc là cháu cần ngủ.”

“Vâng, cháu ngủ,” Sherlock trả lời.

“Nhưng chú nhớ là hôm qua làm gì có mấy vết sây sướt trên da bàn tay.”

“Chắc là xuất hiện hồi hôm,” Sherlock nói.

“Chắc vậy,” ông Crowe chăm chú nhìn Sherlock một lúc.

“Đã xảy ra chuyện gì thế ạ?” Sherlock hỏi. “Chú có tin tức gì về lão Balthassar và việc xâm lăng Canada không?”

“Vụ tấn công bằng khí cầu vào quân đội Liên minh miền Nam bị hoãn lại,” ông Crowe trả lời. “Có kẻ đã đốt các khí cầu. Chắc là do người của Balthassar. Dù sao đó cũng chỉ là nhận định chung, chú nói thế có đúng không?”

“Ít nhất cũng tránh được một cuộc tàn sát lớn,” Sherlock nêu ý mình.

“Đúng thế,” ông Crowe nhất trí. “Bộ trưởng Chiến tranh thì ủng hộ ý kiến giao tranh lớn giữa quân chính phủ với quân của Balthassar, nhưng không biết vì sao mệnh lệnh của ông ta bị hoãn, và chú cũng nhân cơ hội này triển khai kế hoạch của riêng mình. Ta sẽ đưa John Wilkes Booth ra để bảo quân đội của Balthassar giải tán. Tay này cũng khá chịu nghe lời khi được điều trị đầy đủ và khi hắn được đề nghị nếu làm theo thì khỏi bị án treo cổ. Chú không nghĩ rằng nhiều người trong bọn họ còn bụng dạ muốn chiến đấu. Họ chỉ muốn được trở về nhà thôi.”

“Còn số phận của John Wilkes Booth?”

“Về mặt lịch sử thì hắn đã chết. Một người mang tên John St Helensẽ được gởi đến nhà thương điên ở Baltimore. Nếu được cho thuốc đúng liều, hắn sẽ rất dễ bảo. Ít nhất thì cũng tới khi hắn chết.”

“Một hình thức ở tù,” Sherlock nhận xét.

“Hắn là tên giết người dưới mắt mọi người. Hắn xứng đáng bị trừng trị nặng hơn nữa.”

Sherlock gật đầu, không hẳn là đồng ý nhưng chủ yếu là do cậu không muốn tranh luận. “Còn chúng ta? Chúng ta sẽ làm gì?”

“Làm gì hả,” ông Crowe nói, “ta sẽ quay lại New York và lấy vé tàu đi Anh. Chắc sẽ mất một hai ngày gì đó. Chú nghĩ thời gian chúng ta ở đây đã quá đủ rồi. Dù rằng chú yêu đất nước sinh ra mình, nhưng chú vẫn thích nước Anh. Trừ món rau nấu quá chín và bánh pudding hấp.”

“Chú không tính... ở lại đây sao?” Sherlock hỏi thăm dò.

Ông Crowe lắc cái đầu đồ sộ. “Có quá nhiều việc ở nơi khác,” ông ta nói. “Ở đây thì quá đông người Mỹ, nhưng tại Anh chỉ có mình chú. Chú có việc phải làm. Chú đã hứa với anh cháu là sẽ dạy cháu cách suy nghĩ hợp lý và cách sử dụng chứng cứ, và chú cũng ngờ rằng mặt này chưa làm được nhiều như mong muốn.”

Cuối ngày hôm đó, bốn người bọn họ - ông Crowe, Virginia, Sherlock và Matty đáp tàu về New York và ông Crowe tìm được vé cho họ trên một chuyến tàu sắp rời bến đi Anh trong vài ngày tới. Thậm chí họ còn thu xếp được thời gian để đi ăn tại nhà hàng Niblo”s Garden nổi tiếng vào buổi tối cuối cùng - với những món như hàu, đương nhiên rồi, và món thịt nướng – nhưng Sherlock cảm thấy mình thờ ơ với tất cả những thứ đó, chỉ nhìn các thứ qua đi mà trong lòng chẳng chút háo hức. Như thể trong mấy ngày qua cậu đã trải qua quá nhiều thứ đến nỗi người cậu hầu như cạn kiệt. Cậu mong sớm được trở lại bình thường. Cậu không thích cái cảm giác bị cách biệt với mọi người.

Cậu cũng thấy là Virginia có lo lắng cho mình. Cô cứ liếc nhìn Sherlock mãi trong bữa ăn, và một hai lần gì đó cô ta đặt bàn tay của mình lên cánh tay của cậu một lúc, nhưng rồi cất đi ngay khi thấy cậu không chút phản ứng gì.

Mấy ngày sau, khi đã lên tàu, đứng trên boong nhìn xuống thấy cảng New York càng lúc càng xa dần, Sherlock cảm thấy trong người nổi cơn rét run mặc dù trời đang nắng và im gió. Cậu muốn bệnh, trong người thấy khó chịu, nhưng không biết cách nào để làm cho khá hơn.

“Chốn đô thành New York nhộn nhịp thế nào rồi?” một giọng quen thuộc cất lên đằng sau cậu. “Cậu có làm được những thứ cần phải làm chưa?”

Sherlock quay lại. Đứng gần đó, người dựa lên lan can boang tàu là Rufus Stone, nhạc sĩ chơi đàn vĩ cầm người Ireland mà cậu đã gặp trong lượt đi. Anh ta mang chiếc hộp đàn trên lưng, còn trên cổ áo lòa xòa mái tóc đen.

“Em cứ nghĩ anh ở lại nước Mỹ?” Sherlock hỏi với vẻ ngạc nhiên.

“Việc này hả,” Rufus giọng ảo não. “Đúng ra là không nên nói ra nhưng tôi bị một chút rắc rối hồi ở quê nhà, và tôi hy vọng việc tìm được hũ vàng huyền thoại ở nơi cuối cầu vồng là một ý hay, nhưng té ra người ta cũng đã thông tin đến tận chốn ấy, có người còn chờ để đón tôi khi đến đó nữa.” Anh ta thở dài. “Ai mà nghĩ ra được là người Ireland đã dựng nên một thế giới tội phạm ngầm độc chiếm tại

New York cơ chứ?”

“Thế bây giờ thì thế nào?” Sherlock hỏi. “Anh tính đi đâu?”

“Còn tùy,” Rufus vừa trả lời vừa đưa mắt nhìn biển trải dài đằng trước. “Cậu có biết ai rất cần đến một người dạy đàn vĩ cầm không?”

“Buồn cười quá đi mất,” Sherlock lên tiếng. “Em biết đấy.”

HẾT