CHƯƠNG 16
Trong giấc mơ, Sherlock thấy những khối lửa từ trên trời đổ xuống hòa với tiếng kêu gào thảm thiết từ các khuôn mặt cháy xém, những thân người gầy như que củi đang chạy tán loạn. Sau khi thiếp đi vài tiếng, cậu chợt tỉnh giấc, không thể nào ngủ tiếp dù người còn mệt lử.
Sherlock ngủ tại một trong ba căn phòng do người quản lý thu xếp. Cậu lấy làm lạ khi thấy đoàn tàu trống đang đậu ở nhà ga nhưng khách sạn lại không đầy khách, thực ra đây là một chuyến tàu đặc biệt do Amyus Crowe và một nhóm nhân viên của công ty Pinkerton thuê để theo dõi tình hình.
Khi nằm xuống giường, đầu óc cậu cứ mãi suy nghĩ về những gì đã xảy ra trong mấy tiếng đồng hồ trước đó. Những người tham gia trong đội quân của Balthassar cũng không nhất thiết là người
xấu – họ chỉ không cùng ý kiến về cách thức cai trị mà thôi. Còn xâm lăng một nước khác, thì rõ ràng là sai rồi, nhưng cũng không có nghĩa là họ đáng bị giết hàng loạt như lũ kiến?
Mycroft chắc sẽ tìm ra phương cách để ngăn việc này. Sherlock tin chắc như thế. Dĩ nhiên, Mycroft là một bánh răng trong bộ máy của chính quyền Anh, nhưng anh ta có những lý tưởng, tiêu chuẩn đạo đức và lý lẽ của riêng mình. Sherlock cũng được cha mình là Thiếu tá Siger Holmes thuộc đội Kỵ binh Hoàng gia, giáo dục cho những lý tưởng, tiêu chuẩn đạo đức và lý lẽ như thế. Cả hai đều là con của ông Siger, và họ đều thừa hưởng những đức tính đó cũng như màu mắt xanh biếc của người cha.
Cậu phải làm gì đó. Nhưng đó là cái gì? Phải làm gì để ngăn các Kỹ sư Công binh lại?
Có lẽ cậu nên gởi một bức điện cho Mycroft ở Anh. Cậu không biết sẽ tốn bao nhiêu tiền, cậu nghĩ rằng sẽ tốn nhiều, nhưng cậu vẫn còn một ít. Mycroft có thể gọi cho Đại sứ Mỹ tại Anh, hoặc ai đó, để ngăn chặn sự việc này.
Cậu sẽ làm chứ? Có nên làm hay không? Và hơn nữa liệu Mycroft có đủ thời gian? Nói cho cùng, anh cậu đang ở cách xa nước Mỹ hàng ngàn dặm, và có lẽ cấp trên của anh tại Bộ Ngoại giao sẽ quan tâm nhiều đến việc ngăn chặn một cuộc xâm lăng vào lãnh thổ của nước Anh hơn là cứu lấy mạng sống của những người mà họ chưa từng gặp.
Sherlock biết mình cần phải đi tới nơi đó để xem đội quân của Balthassar và lực lượng khí cầu của các Kỹ sư Công binh. Có lẽ cậu
không thể làm được việc gì, nhưng chắc chắn là cậu không nên ở lì trong khách sạn. Ở ngoài kia, bên ngoài đồng cỏ, một điều gì đó đang chờ cậu.
Nhưng làm sao tới đó được đây?
Cậu đoán là mình có thể mướn một con ngựa trong thị trấn và cưỡi đến chỗ người ta thả khí cầu. Cậu đã nhìn thấy chỗ này, chỗ được Amyus Crowe đánh dấu trên bản đồ khi nghiên cứu mấy giờ trước. Cậu không để tâm ghi nhớ vị trí này, nhưng cũng giống như nhiều thứ mà cậu đọc qua, nó chỉ đơn giản được khắc sâu vào não bộ của cậu thế thôi.
Có nên dẫn Virginia và Matty theo không? Có họ thì cũng tiện lợi đấy, nhưng cậu cho rằng đây là mặt trận của riêng cậu. Họ không quan tâm nhiều đến nó bằng cậu, và cậu cũng không có quyền lôi kéo họ vào việc này.
Sherlock ngồi dậy, mặc bộ quần áo mới do Amyus Crowe xoay sở mua được ở đâu đó trong thị trấn. Quần áo mới làm cậu ngứa ngáy, nhưng nghĩ tới việc phải tròng vào bộ quần áo đã mặc trong mấy ngày qua cũng làm cho cậu chết khiếp.
Ông Crowe đang ở trong phòng ăn, nói chuyện với hai người đàn ông khác ăn mặc rất chỉnh tề. Họ đeo súng trễ xuống tận thắt lưng. Sherlock nghĩ rằng họ là người của Công ty Pinkerton. Thừa lúc họ sơ ý, cậu lặng lẽ lẻn ra ngoài khách sạn.
Trên vỉa hè đông đúc người qua kẻ lại. Sherlock cứ đi theo dòng người cho tới lúc thấy một cái gì trông giống như chuồng ngựa. Cậu bước vào bên trong.
“Ta có thể giúp gì, con trai?” một giọng nói cất lên. Sherlock nhìn quanh. Từ chỗ tối, một người đàn ông luống tuổi bước ra – ông ta sói hết cả đầu chỉ còn một vành tóc trắng ở phía sau, và một bộ ria mép trắng kiểu chổi sể.
“Cháu muốn thuê một con ngựa, trong ngày hôm nay thôi,” Sherlock đáp.
“Thật là thuận tiện quá,” người đàn ông lên tiếng. “Con ngựa của ta lâu rồi chưa được vận động. Ý của ta trùng với ý của cậu lắm.”
“Bao nhiêu ạ?” Sherlock hỏi.
“Cứ cho là đặt cọc mười đô, khi cậu quay lại ta sẽ hoàn lại chín đô.”
Sherlock đưa tiền, và ông già dẫn cậu đến một ngăn chuồng trong đó có một con ngựa cái màu nâu đang đứng lặng lẽ. Nó ngước mắt chăm chú nhìn Sherlock trong khi ông lão gắn bộ yên lên lưng nó.
Sherlock nhìn quanh khắp các chuồng ngựa. Ngoài những thứ thông thường – như yên, dây cương, bàn đạp - được treo trên móc, còn có một loạt những thứ mà Sherlock không biết là gì. Tựa như khí giới – như cánh cung, giáo, rìu - nhưng có giắt thêm lông chim và dây da trang trí.
“Các kỷ vật thời đánh nhau với dân bản xứ đấy,” ông già lên tiếng khi nhìn theo ánh mắt của Sherlock. “Các bộ lạc Pamunkey và Mattaponi quấy phá rất nhiều khi bọn ta xây dựng thị trấn này. Họ lột da đầu của người da trắng để làm sưu tập, còn ông nội và cha của ta thì thu thập rìu, giáo, dao và cánh cung của họ.”
Sherlock nghĩ tới những gì mà mình sắp dấn thân vào – một đội quân thù địch, một lực lượng tấn công và một vùng hoang dã nơi chỉ có lũ sói vãng lai. Cậu không muốn có một khẩu súng, và cậu cũng biết chắc sẽ chẳng ai cho mình súng cả, nhưng có chút gì gọi là khí giới cũng tốt. Cậu nói, “cháu đưa thêm một đô nữa, ông cho cháu mượn một cái cung, một túi tên và một con dao nhé?”
“Không được,” ông già trả lời. Đầu ông hất sang một bên. “Nhưng năm đô thì được.”
Mười phút sau, Sherlock dong ngựa ra khỏi chuồng, buộc một con dao vào thắt lưng, trên lưng là một túi tên và một cái cung buộc vào yên ngựa. Cậu nghĩ rằng mình có thấy Matty và Virginia bên ngoài khách sạn khi chạy vụt qua, nhưng chắc là vì quá nhanh nên họ cũng chẳng nói được gì, và cậu cũng không dừng lại.
Nhớ lại bản đồ của Amyus Crowe, Sherlock cho ngựa chạy qua cánh đồng, theo hướng thẳng góc với đường tàu. Vùng đất này có vẻ mấp mô chứ không bằng phẳng như vùng có đường sắt chạy qua. Cậu cho ngựa phi nước đại dọc theo rìa các ngọn đồi lúp xúp trên đồng cỏ thành một chuỗi các đỉnh đồi tròn và thấp.
Sau một giờ cưỡi ngựa đi qua một vùng đầy cây bụi và cây nhỏ, cậu cho ngựa lội qua một con suối cạn và rộng đang chảy xuống từ trên các ngọn đồi như một dải màu xanh lấp lánh. Khi bước chân con ngựa làm tóe nước và hất lên những hòn đá cuội nhỏ, Sherlock tự hỏi không biết đây có phải là dòng nước chảy qua các lớp đá mềm xuống tận đâu đó phía bên dưới để tạo thành cái khe núi mà cậu, Matty và Virginia đã vượt qua đêm trước hay không. Địa hình ở Mỹ rất khác với những gì cậu từng gặp tại nước Anh: trẻ hơn và lồi lõm hơn.
Cậu đã nghĩ đến việc lấy chiếc bình đựng nước bọc da ở chuồng ngựa trước khi ra khỏi nơi đó, cậu cho ngựa dừng lại để lấy đầy nước và cũng cho con ngựa uống thỏa thuê.
Căn cứ theo mặt trời, lúc này mới giữa trưa, và theo bản đồ ghi nhớ trong đầu thì hiện giờ cậu đang đến gần chỗ Kỹ sư Công binh đang dựng trại. Chắc chắn là họ đặt các bót gác, và cậu cũng chẳng muốn đâm sầm vào đó làm gì. Có nhiều khả năng là họ sẽ nổ súng trước sau đó mới lên tiếng hỏi.
Thay vì đi quanh các quả đồi thấp dưới chân núi, Sherlock quay đầu ngựa lại và nhắm về phía đỉnh đồi. Nếu cậu đúng và đến được nơi mà cậu cho rằng mình phải tới, thì cậu có thể tìm được vị trí tốt để nhìn xuống doanh trại ở phía dưới.
Phải mất mấy tiếng đồng hồ trèo lên các triền dốc và băng qua những khoảnh đá trước khi tới được rìa dốc của một ngọn đồi, và Sherlock thấy mình đang nhìn xuống những gì mà cậu đang tìm.
Giấu con ngựa vào chỗ khuất, cậu bò cho đến khi gặp được một chỗ nấp dưới chân tảng đá lớn, rồi nhìn kỹ xuống đồng cỏ bên dưới.
Mặt trời đang trượt dần xuống đường chân trời, cảnh vật được chiếu sáng bởi các tia nắng đỏ rực và các đống lửa trại rải rác. Nhờ các nguồn sáng ấy mà cậu thấy được doanh trại của các Sĩ quan Công binh trải dài bên dưới: đó là một loạt các lều vải dựng lên ở chính giữa một khu đất trống. Khoảng một trăm con người đang tíu tít lui tới người nào việc nấy. Một bên của doanh trại là dãy hàng rào gỗ quây nhốt lũ ngựa.
Còn phía bên kia là các khí cầu.
Cảnh tượng làm cho Sherlock muốn choáng ngợp. Có lẽ có đến mười hoặc mười hai thứ gì đó được trải rộng trên một khu vực có kích thước lớn như một sân bóng bầu dục. Một số có hình dạng giống như loài sứa khổng lồ mà Sherlock nhớ đã thấy trong những lần đi dạo chơi dọc theo bờ biển khi còn nhỏ, còn một số khác được thổi căng thành những quả cầu bóng loáng lấp lánh dưới ánh mặt trời sắp lặn. Những quả cầu căng này được nối với các sợi dây thừng và vải băng cùng chất liệu - thứ vải lụa được quét sơn mà Sherlock nhớ đã được nghe đến trong lần gặp Bá tước von Zeppelin trên tàu SS
Scotia - với những cái giỏ nằm phía dưới. Những quả cầu được thổi căng bằng các ống dẫn nối từ các thùng chứa bằng đồng lấp lánh đặt trên những cỗ xe kéo. Sherlock nhớ lại, các thùng này sản xuất ra khí hydrô từ hỗn hợp axit sunfuric và mạt sắt.
Khi nghĩ đến Bá tước von Zeppelin, Sherlock đảo mắt khắp doanh trại để tìm cái dáng cao gầy rất Đức của ông ta. Ông ta đã vượt biển đến Mỹ để nói về việc ứng dụng khí cầu trong hoạt động quân sự. Chẳng có gì lạ nếu ông ta có mặt tại đây.
Bên dưới, các khuôn mặt di chuyển qua lại đều quá nhỏ nên Sherlock không nhận ra ai, nhưng cậu nghĩ rằng mình đã thấy một người đàn ông có râu mặc quân phục trông khác hẳn những người còn lại đang mê mải nhìn những chiếc khí cầu được bơm căng bên cạnh.
Sherlock chú ý thấy những đống lửa đều nằm xa các khí cầu. Đây là một sắp xếp hợp lý – vì theo những gì cậu nhớ đã học ở trường thì hydro rất dễ bắt lửa. Mặt khác, xếp gần đó là hàng trăm các quả cầu kim loại trông giống như quả đạn đại bác, chắc chắn đó là những thứ chứa đầy chất nổ. Và trong một hoặc hai giờ tới, nếu gió thổi đúng hướng, người ta sẽ thả các khí cầu bay lên, mỗi khí cầu có một người lái, sau đó những khí cầu này sẽ lặng lẽ băng qua cánh đồng cỏ trơ trụi bay đến chỗ doanh trại của đội quân của Duke Balthassar.
Rồi sau đó sẽ là sự tàn phá và giết chóc ở một mức độ mà chỉ cần nghĩ đến cũng làm Sherlock phát ốm.
Cậu phải ra tay ngăn lại. Cậu
phải làm thế. Cậu đã gặp quá nhiều cái chết trong đời rồi. Nên nếu có cơ hội ngăn chặn được cảnh chết chóc là cậu sẽ làm ngay.
Khí hydro. Khí dễ bắt lửa. Câu trả lời ở đó, nhưng cậu phải làm cái gì với thứ khí này? Nếu cậu tìm cách lẻn xuống đồi rồi châm lửa đốt những chiếc khí cầu đó, cậu sẽ bị bắt và có lẽ sẽ bị bắn như một tên gián điệp của Liên quân miền Nam.
Xung quanh các khí cầu là một vòng lính gác.
Nhưng ở phía bên kia của doanh trại lại không có lính gác quanh các đống lửa, và từ chỗ nấp cậu có thể thấy được là hầu hết các lều đều có dựng những trụ gỗ phía trước để mắc những chiếc đèn dầu.
Đầu óc cậu suy nghĩ lung lên khi nhìn thấy mối liên quan giữa các sự việc mà trước đây còn rời rạc với nhau. Giải pháp nằm ngay trước mắt cậu. Cậu đã có mấy thứ cần thiết, và phần còn lại thì nằm ở dưới kia, chỗ doanh trại.
Và nếu bắt tay thực hiện sớm thì sự việc sẽ kết thúc sớm.
Sau khi kiểm tra đầu chiếc dây cương đã được đặt an toàn dưới một hòn đá chưa, cậu bắt đầu bò chầm chậm xuống phía đồng cỏ. Lúc này, mặt trời chỉ còn là một cái vành mỏng ở chân trời, các tảng đá lưa thưa đổ thành những chiếc bóng dài và đen ngòm. Cậu nghĩ rằng mình có thể nương theo những cái bóng đó để không bị lộ, đợi đến khi ra khoảng trống thì mới lỉnh nhanh.
Khi cậu đến được đồng cỏ thì mặt trời đã biến mất dưới chân trời và bầu trời lúc này đã nhuộm một màu đỏ thẫm.
Đa số các khí cầu đều được bơm căng, xung quanh tíu tít người qua lại.
Sherlock không hướng về phía các khí cầu mà đi về chỗ đống lửa. Đa số các kỹ sư công binh trong doanh trại đều tập trung gần các khí cầu, họ đứng ở phía bên kia dãy lính gác. Mọi người chăm chú chờ đợi thời điểm để thả khí cầu. Thịt đang quay, món thịt hầm đang sôi nhỏ lửa. Không ai nhìn về hướng cậu cả. Cậu nhìn quanh, đứng thẳng người lên, phủi bụi trên quần áo rồi đi về phía một chiếc lều không có người, sau đó tháo một chiếc đèn dầu móc trên chiếc cọc nằm ở bên ngoài. Theo tính toán, cậu tháo thêm một chiếc thứ hai ở cái cọc nằm gần đó. Không phải chiếc đèn ở căn lều sát bên – vì sẽ gây chú ý ngay - mà ở căn lều cách xa đó một chút. Không ai lên tiếng ngăn cản, hoặc hỏi đến việc cậu đang làm. Tuy tim như đập nhanh gấp hai lần bình thường, nhưng cậu vẫn giữ vẻ mặt bình thản, và khi quay lưng lại, cậu cũng đi chậm rãi, tay giữ cho chiếc đèn đứng thẳng nhưng lại đưa vào trong chiếc áo khoác để không ai thấy ánh đèn đang di chuyển.
Nhờ những căn lều che bóng, cậu tăng tốc quay trở về phía chân đồi. Vừa đi cậu vừa liếc về hướng các khí cầu. Tất cả đều đã được bơm căng, và cậu thấy được các hoa tiêu đang kiểm tra lại bản đồ và hoàn tất công việc cuối cùng.
Cậu cố bò lên ngọn đồi càng nhanh càng tốt, trong bụng biết rằng bên mình là chiếc đèn dầu đang cháy, mà nếu bị té thì người cậu sẽ bốc cháy. Gió đang nổi lên, còn mặt trời thì đã lặn rồi, nếu không có chiếc áo khoác chắc cậu sẽ lạnh cóng mất.
Con ngựa hí nhẹ, như thể đón chào cậu quay lại chỗ đất trống mà cậu vừa bỏ đi. Cậu đặt chiếc đèn xuống đất, rồi chồm qua lưng ngựa lấy cái cung và túi tên đã mượn - thuê thì đúng hơn - của ông lão chủ chuồng ngựa.
Cậu đang cần một thứ gì đó để giữ cho ngọn lửa tiếp tục cháy khi mũi tên bay vào không khí.
Nùi vải. Hay thứ gì đó tương tự.
Cậu nhìn quanh, lầu bầu vì đã quên lấy một cái gì đó trong doanh trại - một cái áo khoác quân đội, hoặc đại loại như thế. Thứ duy nhất mà cậu đang có ở trên đỉnh đồi này là bộ quần áo đang mặc. Cậu xé chiếc áo khoác của mình ra từng mảnh vải rồi đem buộc quanh đầu mũi tên. Xét cho cùng thì cậu cũng chẳng có ý định bắn găm mũi tên vô bất cứ thứ gì.
Sau khi bọc vải hết mười đầu mũi tên, cậu chồm ra sau lấy hai chiếc đèn dầu và đặt cạnh chỗ mấy mũi tên. Suy nghĩ một lúc, cậu thổi tắt bớt một chiếc đèn rồi mở họng đèn ra để nhúng đầu mấy mũi tên bọc vải vào bên trong từng chiếc một.
Một chiếc đèn cháy là đủ rồi. Cậu mở cây đèn ra, để lộ ngọn lửa chập chờn dưới làn gió nhẹ.
Cậu cầm cái cung lên, thẳng người dậy. Trời bây giờ đã tối nên không ai thấy cậu cả, còn ngọn lửa trong chiếc đèn kia thì đã khuất sau mấy tảng đá.
Cậu cầm cái cung và thử giương lên. Nguyên tắc khá rõ ràng. Ở phần cuối mũi tên có một cái khấc móc vào dây cung, cậu dùng mấy ngón tay của bàn tay phải kéo dây cung ra đằng sau, giữ cánh cung bằng tay trái rồi cứ thế kéo cong đến mức xa nhất có thể được. Cậu sẽ nhắm lên cao, bởi vì mũi tên sẽ bay theo hành trình đạn đạo - rồi thả dây cung ra.
Đây là thời điểm để thử. Thời điểm để hành động.
Cậu giơ mảnh vải áo khoác được quấn chặt trên đầu của mũi tên thứ nhất vào ngọn lửa bên trong chiếc đèn dầu. Mảnh vải được nhúng dầu bắt lửa tức thì. Cậu giương mũi tên lên cao và móc sợi dây cung vào cuối mũi tên, rồi lấy sức kéo sợi dây cung ra phía sau trong khi tay trái thì dang thẳng về phía trước, nắm chặt cánh cung. Cậu nhắm vào chiếc khí cầu có ít người đứng quanh nhất, nhắm cao một chút về phía trên để mũi tên có thể chúc đầu vào mục tiêu.
Sợi dây cung cứa vào mấy ngón của bàn tay phải. Cậu cảm thấy cái cung như rung lên khi bị kéo căng. Ngoài đốm lửa lập loè do vải cháy ra, cậu không còn thấy cái gì khác.
Liệu đây có phải là việc làm đúng?
Giờ thì quá muộn để đặt câu hỏi rồi.
Cậu thả dây cung. Mũi tên bay vút lên không gian, lên cao hết mức rồi hình như dừng lại một lúc trước khi rơi xuống như một ngôi sao xẹt nhỏ rớt xuống bề mặt phía trên của chiếc khí cầu.
Tim cậu đập thon thót qua nhiều nhịp mà chưa thấy việc gì xảy ra, khoảng thời gian này quá dài đến nỗi Sherlock nghĩ rằng đốm cháy trên vải đã tắt ngấm rồi, hoặc là đầu mũi tên không cắm được vào lớp lụa quét sơn, hoặc là chất khí bên trong không phải là khí hydrô mà là thứ gì khác không bắt lửa, nhưng khi phần vải ở trên nóc của khí cầu tróc ra giống như các cánh hoa quanh nụ, thì trước mắt Sherlock là một quả cầu lửa chói lòa bùng ra từ chiếc khí cầu và bốc cao lên không trung.
Từ khu vực doanh trại dậy lên tiếng la ó khủng khiếp. Xung quanh đầy người nhốn nháo lấy thùng tạt nước và cố phủi tắt thứ gì đang cháy rơi xuống người họ, nhưng cái hỏa ngục đang
bốc lên cao, chứ không phải là dồn xuống dưới. Chẳng qua là vì khí hydrô nhẹ hơn không khí.
Sherlock chộp lấy một mũi tên khác, mồi cho cháy rồi nhanh chóng nhắm bắn vào một chiếc khí cầu khác. Các đốm lửa tí teo từ đầu mũi tên vẽ ra một đường sáng rực trong không khí khi nó bay lên rồi sau đó hạ xuống mặt nghiêng của chiếc khí cầu thứ hai.
Lần này thì cậu không thấy lớp vỏ của chiếc khí cầu tróc ra, nhưng cũng đưa đến kết quả là một quả cầu lửa ấn tượng không kém chiếc thứ nhất.
Doanh trại phía dưới hoàn toàn hỗn loạn, Sherlock liên tục bắn tên vào những chiếc khí cầu còn lại. Khi cậu bỏ chạy thì trong không khí mịt mù khói và trên mặt đất ngổn ngang các mảnh lụa phết sơn đang cháy âm ỉ. Không có ai bị thương cả! Cậu lấy làm ngạc nhiên khi không thấy người nào bị thương. Có hoảng loạn và sợ hãi, nhưng không ai bị tổn hại gì. Chất khí cháy hydrô đã bốc vào trong không khí, còn những mảnh vải vụn đang cháy có rớt xuống đất thì người ta cũng tránh được dễ dàng.
Sherlock hít mạnh một hơi. Đêm nay chẳng có chiếc khí cầu nào bay cả, và có lẽ phải mất nhiều ngày, có lẽ nhiều tuần mới điều động thêm khí cầu tới vị trí. Đến lúc đó thì đội quân của Balthasar cũng đã phân tán rồi hoặc nếu có tiến quân vào Canada thì cũng bị quân đội Liên bang chận lại. Cậu đã thành công.
Một phần trong người cậu cũng muốn làm cái gì đó đối với đống chất nổ đang xếp ở phía bên doanh trại. Đống chất nổ này không hề bị suy suyển. Sherlock lo là những mảnh vụn vải cháy có thể rớt xuống đống này làm cho nó nổ tung gây nên một cảnh tàn sát lớn, nhưng hoặc là chúng khó bắt lửa hơn là cậu nghĩ hoặc vì xa quá nên không bị dính các tàn lửa hoặc mảnh vải cháy. Cậu nghĩ là mình có thể bò xuống dưới đó và làm một việc gì đó – tháo ngòi nổ ra, hoặc đại loại – nhưng có lợi gì đâu? Thứ này giờ đã trở thành vô dụng, bởi vì đâu còn phương tiện để ném chúng xuống nữa.
Phía dưới vang lên một tiếng hét to. Cậu nhìn về hướng danh trại. Một người đang chỉ về phía cậu. Ánh sáng từ khí hydrô cháy đã làm cậu lộ diện. Nhiều người ngẩng nhìn lên. Một số người vội vã chạy về phía đầu dốc dẫn lên chỗ cậu nấp. Đa số họ đều có súng.
Mà cậu lại đang cầm cây cung nữa chứ.
Tới lúc phải bỏ chạy rồi.
Sherlock quay lại và chạy về phía cột ngựa. Con vật lồng lên vì sợ – sợi dây cương bị kéo căng vì nó muốn thụt lùi – nhưng cũng chưa đến nỗi phát hoảng lắm. Cậu nhanh chóng thu lại đầu dây cương được nhét giấu dưới tảng đá rồi nhảy phóc lên yên.
Nếu may mắn, cậu có thể quay về thị trấn và giả vờ như cả ngày qua cậu vẫn ở đó. Sẽ chẳng ai thèm hỏi đến việc cậu đã làm.
Cậu gò cương cho con ngựa quay đầu lại và nhắm về phía trước chạy thẳng.
Đường đi xuống dễ hơn so với lúc đi lên. Lúc này con ngựa có vẻ vững bước hơn, nó mừng khi thoát được khỏi chỗ đầy khói lửa.
Con ngựa nhận ra đường nhờ ánh sao, lúc này mặt trời đã lặn nên Sherlock cứ để cho nó tự ý chọn đường đi xuống. Khi nào xuống tới đồng cỏ bằng phẳng thì cậu sẽ tìm ra đường trở lại thị trấn.
Khi con ngựa dò tìm đường chạy qua khu vực có đá tảng nằm rải rác dưới chân đồi, Sherlock nhận thấy cái chuyển động lắc lư nhẹ nhàng làm cho mình muốn ngủ gục. Sự căng thẳng đã được trút bỏ, cơ thể cậu bây giờ chỉ còn sự trống rỗng và nỗi buồn man mác. Cậu không thèm chú ý đến quãng đường dài trở về Perseverance nữa.
Nhiều suy nghĩ kéo đến khi cậu ở trên yên ngựa: Việc gì sẽ xảy ra nếu Quân đội chính phủ Liên bang không chặn đứng được lực lượng xâm lăng của Liên minh miền Nam? Việc gì xảy ra nếu cuộc tiến công cứ tiến hành trong đó có sự tiếp tay của cậu?
Không, Amyus Crowe đã từng cho cậu biết là các lực lượng của Chính phủ Liên bang đã sẵn sàng chặn đứng Liên minh miền Nam, và ý kiến của chính cá nhân Bộ trưởng Chiến tranh Stanton là quyết định giết sạch quân miền Nam. Trừ trường hợp sai lầm nghiêm trọng, những việc làm của Sherlock chỉ nhằm tránh giết chóc. Đỡ phải giải quyết sự cố ngoại giao.
Có tiếng con vật gì đó gào lên trong bóng tối. Âm thanh này làm cho cậu giật mình. Như tiếng gào của con người. Không giống như tiếng hú của sói đồng cỏ, mà khá giống tiếng kêu của một loài thú lớn họ mèo.
Lúc này con ngựa đang rón rén từng bước dọc theo đáy một khe núi nằm giữa hai vách thẳng đứng. Sherlock cho rằng mình đang tới gần phần trũng giữa hai ngọn đồi, sắp tới chỗ băng qua đồng cỏ trống để về thị trấn. Hai bên khe núi là những hình thù đen kịt, ánh sao từ phía trên hắt xuống vách đá tạo nên những cái gờ lởm chởm như cắt ra từ nền trời đêm.
Một trong những cái gờ nham nhở đó chợt động đậy.
Sherlock tỉnh người ngay. Một phần của cái mà cậu nghĩ là cái gờ cao của khe núi bất thần dịch sang một bên và thụt ra sau.
Có một thứ gì đang ở phía trên. Một thứ gì đang theo sát cậu.
Đầu óc căng thẳng đến mức run lên, Sherlock nhìn quanh. Chẳng có gì cả. Chỉ có bóng đêm trùm xuống, và cái chóp nhọn hoắt thấy được là nhờ chút ánh sáng của các ngôi sao từ trên tỏa xuống.
Một hòn sỏi bay là là theo bờ dốc đứng, rồi nẩy lên khi đụng phải đáy của rãnh núi.
Con ngựa của Sherlock nhìn quanh quất. Nó biết là có một cái gì ở đó. Hai tai nó vểnh lên, và Sherlock cảm nhận được là con vật đang run bần bật.
Khe núi rộng dần ra phía trước dẫn tới một khoảng đất bằng phẳng bằng đá, mặt sau dốc thẳng xuống đồng cỏ. Ánh trăng hạ huyền từ một phía chiếu qua giống như ánh đèn pha. Sherlock nhận ra nơi mình đang đứng: mặc dù dường như phía trước là bờ vực thẳng đứng, nhưng ở bên cạnh lại có một cơn đường mòn nhỏ rẽ xuống phía đồng cỏ. Lúc nãy, Sherlock và con ngựa đã đi lên theo con đường này.
Một hòn đá cuội nữa rơi xuống, nảy tưng tưng trên nền đá. Con ngựa của Sherlock né sang một bên rồi phi nhanh.
Nó chỉ muốn tìm cách thoát ra ngoài đồng cỏ.
Một thứ gì đó phía trên đầu Sherlock gào lên rồi từ trong bóng tối đổ ập xuống Sherlock và con ngựa.