CHƯƠNG 2
Sherlock đến Farham buổi trưa hôm đó, dưới một trận mưa nhỏ vừa đủ tạo mấy vũng nước trên đường, nước mưa nhỏ thành giọt xuống cổ dù cậu đã kéo cao cổ áo lên hoặc cố rụt đầu vào. Cậu cưỡi con ngựa mà cậu đã “giải phóng” từ tay Bá tước Maupertuis – cậu còn phải tìm cho nó một cái tên, phải có lúc nào đó.
Cậu chỉ không thể nào hiểu được vì sao người ta lại phải đặt tên cho loài vật. Con vật chẳng cần biết chúng có tên, có số, hay chẳng có gì cả, điều này chỉ nói lên sự đồng cảm và ngang hàng vốn dĩ không hề có. Thú vật chỉ là thú, còn người thì bao giờ cũng là con người.
Trong lúc con ngựa phóng nhanh về hướng phố xá, Sherlock nhận ra mình đang miên man suy nghĩ về sự khác biệt lạ lùng giữa thú nuôi và thú vật. Nếu ta có thể ăn thịt bò, như miếng bíp-tết chẳng hạn, thế thì tại sao ta không ăn thịt ngựa? Dường như chẳng có lý do hợp lý nào để không ăn thịt ngựa – mà theo như cậu biết, thì thịt ngựa không chứa thứ gì độc hại cả.
Cũng như thế, nếu thịt chó, mèo không có trong thực đơn thế thì tại sao thỏ lại bị đưa vào nồi hầm? Điều này chẳng nói lên cái gì cả. Ai đó đã tùy tiện đưa ra một con đường phân chia trong giới động vật khi nói “Được rồi, mấy con vật này anh cứ ăn thịt tùy thích, nhưng những con kia thì anh dành dắt đi dạo, vuốt ve, chăm sóc và khi chúng chết thì đem mai táng.”
Trong lúc nước cứ thấm vào mọi ngóc ngách quần áo, thì cậu tự hỏi không biết ở xứ khác có những qui luật tréo ngoe như thế hay không? Liệu có những xứ xở nào đó mà người dân ăn thịt chó thịt ngựa, nhưng lại cho bò cái là thiêng liêng? Nếu quả như vậy, chứng tỏ rằng mọi thứ đều chỉ mang tính chủ quan, nếu không nói là tùy tiện, nhưng nếu xứ nào cũng phân biệt giống như thế thì có lẽ con người có điểm chung gì đó khi tất cả đều xem bò là để ăn thịt còn ngựa là bạn bè.
Cậu lơ đãng vỗ vỗ vào cổ con ngựa đang cưỡi. Liệu cậu có thể ăn thịt nó? Liệu cậu có thể bình tâm ngồi xuống thưởng thức miếng thịt nướng béo ngậy, trong khi biết đó là thịt của con vật mà chỉ mới mấy giờ trước mình còn cưỡi? Về lý luận mà nói thì điều này khả thi, nhưng trên thực tế, cậu thấy rằng đầu óc của mình có phần câu nệ. Có lẽ chỉ khi nào cậu sắp chết đói. Có lẽ khi cậu và con ngựa bị cuốn trong cơn bão tuyết, và chỉ còn có một con đường duy nhất để sống sót là phải ăn thịt con vật. Điều này thì còn có lý một chút.
Khi con ngựa lọc cọc chạy vào khu ngoại ô của Farnham, một ý nghĩ rối rắm lóe lên trong đầu Sherlock. Nếu cậu sẵn sàng ăn thịt ngựa, trên nguyên tắc, thế thì tại sao lại không ăn thịt bạn được? Nếu cậu và Matty bị cuốn vào một cơn bão tuyết…
Chỉ cần nghĩ đến điều này thôi cũng làm cậu phát ốm, và cậu gạt phăng ngay, nhưng nỗi nghi ngờ thì vẫn vương vấn mãi. Về lý mà nói, giữa côn trùng và con người chẳng hạn có một mức độ xê dịch về mặt thông minh và sự phát triển chung. Cứ cho là cá và ếch gần gũi nhiều hơn với côn trùng, còn chó và mèo thì gần với người hơn. Đó chẳng phải là điều mà Ngài Charles Darwin gần đây đã viết trong quyển sách Bàn về nguồn gốc các loài của ông ta sao – quyển sách mà cậu có nghe chú Sherrinford ca cẩm trong bàn ăn mấy tuần trước? Theo Darwin, con người chỉ là một dạng động vật, chẳng có gì đặc biệt hoặc do Chúa tạo ra gì cả. Nếu ta gạt bỏ không thảo luận về tôn giáo, nếu ta thừa nhận rằng con người chỉ là động vật nhưng biết chế ra công cụ, biết nói, thế thì tại sao ta không được phép ăn thịt con người như ta được phép ăn thịt con bò?
Quá nhiều câu hỏi, và lý luận cũng không giúp được gì. Lý luận cho cậu biết rằng nếu điều này đúng thì điều kia cũng đúng, nhưng bản năng mách cho cậu biết rằng có sự khác biệt. Có những giới hạn. Cái khó là cậu không biết những giới hạn đó đến từ đâu cũng như làm sao nghĩ đúng về những giới hạn đó.
Tất cả cũng chỉ vì cậu chưa đặt tên cho con ngựa.
“Tao sẽ gọi mày là Philadelphia,” cậu thầm thì, vỗ vỗ vào cổ con ngựa lần nữa.
Sherlock mỉm cười. Khi nói đến tên, lại có cả một loạt các ý nghĩa kèm theo. Virginia – cô con gái của Amyus Crowe - đã đặt tên cho con ngựa của mình là Sandia theo tên một rặng núi ở Mỹ, thế thì cậu cũng có thể lấy tên một thành phố của Mỹ để đặt tên cho con ngựa của mình. Có một chuyến tàu mà cậu, Virginia và Matty đã bị kẹt mấy tháng trước, sau khi Matty bị đám tay sai của Duke Balthassar bắt cóc, thuộc về tài sản của Công ty Đường sắt Philadelphia, và cái tên này luôn nhắc cậu nghĩ đến những gì mà họ đã từng nếm trải. Dạng rút gọn của Philadelphia là Philly, và “filly” là một cái tên khác dành cho con ngựa cái còn non, cũng còn có nghĩa là một chuyện đùa. Tùy lúc mà áp dụng thôi.
Cậu buột miệng, “Mày là Philadelphia nhé”. Con ngựa hí lên như thể nó hiểu được và đồng ý. Như thế, mới đúng với điều mà Sherlock đã tưởng tượng.
Giờ thì họ đã đến trung tâm thị trấn, Sherlock xuống ngựa – con Philadelphia và cột nó cạnh chợ ngũ cốc rồi đi dọc theo hàng cột gạch, đưa mắt tìm Matty. Lúc này cậu đã biết được thói quen của Matty – biết nơi tìm cậu ta bất kể ngày hay đêm. Cậu ta dường như bị sa vào một thói quen gì đó. Thay vì ngồi trên chiếc thuyền hẹp và mải mê tìm đến các thị trấn mới với cơ hội mới, cậu ta dừng chân tại Farnham, ít nhất cũng vài ngày. Trong thâm tâm Sherlock mong rằng Matty làm thế là vì cậu – vì tình bạn giữa hai người. Cậu thích Matty, cậu sẽ thấy nhớ khi cậu ấy bỏ đi – nếu quả đúng như vậy.
Matty đang ngồi cạnh bờ sông, mắt nhìn mông lung, mặc dù Sherlock biết rằng cậu ta đang chờ chiếc xà lan chở những thùng cá ướp đá từ phía bờ biển lên. Matty phát hiện là nếu có chiếc thùng cá nào bị vỡ tung khi rớt xuống thì cậu ta có thể thó được một hoặc hai con cá trước khi có người bắt gặp. Đôi khi Sherlock tự hỏi không biết có khi nào Matty ngáng chân đám công nhân khuân vác hàng từ trên tàu xuống, làm cho họ sẩy chân và đánh đổ những chiếc thùng họ vác hay không, nhưng cậu không bao giờ hỏi đến. Tốt nhất là đừng nên biết.
“Chào cậu.” Matty reo lên. “Tớ đang tự hỏi không biết là cậu có đến không đấy.”
“Ngày mai tớ đi London,” Sherlock trả lời. Cậu muốn bắt đầu cuộc trò chuyện, để tìm hiểu xem gần đây Matty đã ở đâu và làm gì, nhưng không được. Cậu không giỏi miệng lưỡi. “Tớ phải đến nhà ga để lấy vé.”
“Chúc cậu may mắn.” Matty nói khẽ.
“Cậu đi với tớ cũng được,” Sherlock thận trọng bảo, nhưng cậu không chắc liệu Mycroft có sẵn lòng mời thêm Matty hay không.
“Đến nhà ga à? Cám ơn, nhưng tớ đã thấy nó rồi.”
“Đi London chứ!” Sherlock cáu.
“Tớ sẽ không hỗ trợ cậu ở Smoke đâu. Tớ vẫn còn nhớ chuyện xảy ra vừa rồi. Sau khi cậu và Ginnie bị gã Bá tước Maupertus bắt cóc, tớ đã phải đi về tận chỗ Farnham này với cha cô ấy. Ông già này cố dạy cho tớ đọc chữ!” Cậu ta rống lên. “Tớ bảo là tớ không có muốn đọc, nhưng ông ta cứ cố nói mãi là “chữ a nằm trước chữ e trừ khi sau chữ c” và nhiều thứ khác. Khi ông ấy cùng tớ giong buồm sang Pháp để tìm hai cậu, ông ta cứ dạy mãi như thế. Không lúc nào ngưng nghỉ.”
“Tớ thì cho rằng ông ta chỉ thích dạy thế thôi. Còn cậu là người nghe duy nhất.” Sherlock nói.
“Ôi, tớ sẽ không phạm phải sai lầm đó lần nữa đâu.”
“Cậu có gặp Virginia không?” Sherlock dò hỏi.
“Mấy ngày nay thì không.”
“Thế cậu có muốn đi tìm cô ấy không?”
Matty lắc đầu, mắt không rời dòng kênh. “Không, tớ đi kiếm ăn còn hay hơn.”
“Hay là tớ mua cho cậu một cái bánh nhân thịt nhé.” Sherlock đề nghị.
Có vẻ Matty xiêu lòng, nhưng cậu ta vẫn lắc đầu. “Đâu phải lúc nào cậu cũng quanh quẩn ở đây,” cậu nói. “Tớ chẳng bao giờ tin ai khác đưa thức ăn cho mình. Tớ tự giải quyết lấy được, tức là tớ phải luyện tay nghề đấy. Tớ phải chắc là tớ có khả năng xoáy được một cái bắp cải hoặc một cái giò heo mà không bị ai chú ý.”
“Được thôi,” Sherlock nói nhỏ nhẹ. “Không phải bố thí đâu. Chỉ bạn bè thôi mà.”
“Giống như bố thí,” Matty lầm bầm. “Và tớ không nhận của bố thí. Không bao giờ.”
Sherlock gật đầu. “Tớ hiểu rồi.” Cậu nhìn xung quanh. “Tớ phải băng qua chỗ nhà ga đây. Gặp cậu sau nhé?”
“Còn tùy kiếm được bữa trưa lúc nào nữa.” Matty ủ rũ nói.
Sherlock quay lưng, phân vân chưa biết sẽ đi đâu. Cậu cảm thấy bứt rứt. Sherlock muốn đi London ngay, nhưng cậu biết phải chờ đến mai. Mycroft vốn là người rất kĩ tính.
Cậu lang thang dọc theo Đường lớn một lúc, ngang qua các quán rượu lúc này đã nhộn nhịp khách mặc dù mới đầu buổi chiều, dạo qua các cửa hàng bán bánh với các khung cửa sổ chất đầy các ổ bánh cuộn vòng, bên trên có rắc hạt, qua các cửa hiệu bán rau cải, trái cây, dụng cụ làm vườn và hạt giống, hoặc quần áo đủ thứ từ đắt tới rẻ, lách qua đám dân địa phương đang lăng xăng buôn bán hoặc chỉ đứng lông bông tán gẫu.
“Sherlock!” Chợt có tiếng ai đó gọi.
Cậu ngạc nhiên quay lại, tức thời chưa nhận ra người đàn ông dong dỏng cao, tóc dài đang đứng cười với mình ở bên kia đường. Nói đúng hơn, cậu biết là mình đã biết người này nhưng không nhớ gặp ở đâu. Cậu nhìn kĩ quần áo và đôi tay của anh ta theo cách đã được ông Amyus Crowe hướng dẫn, để tìm các dấu hiệu cho biết người này làm nghề gì, nhưng ngoài chỗ sờn trên vai trái bộ áo vét bằng nhung kẻ vá víu và lớp cáu bẩn màu vàng cam dưới móng tay, thì không còn manh mối gì cả.
Ngoại trừ…
“Ông Stone!” Sherlock kêu lên, vừa lúc trong đầu thoáng nhận ra người đàn ông này là một nhạc sĩ vĩ cầm đang thất nghiệp, cứ nhìn dấu hiệu trên quần áo thì rõ.
Rufus Stone toét miệng cười càng rộng hơn, để lộ chiếc răng vàng mà Sherlock còn nhớ trong lần đi New York, chính là người đã dạy cho cậu chơi vĩ cầm để giết thời giờ.
“Tôi đã bảo cậu rồi,” Stone vừa hét to vừa dợm bước ngang qua đường, tránh mấy chiếc xe ngựa lọc cọc chạy qua và né luôn những đống phân do mấy con ngựa kéo xe để lại. “Chỉ có mấy ông chủ mới gọi tôi là “Ông Stone”, nhưng mấy tháng nay số lượng những vị này còn ít hơn mấy chiếc răng trong mỏ con gà.”
“Anh đã gặp chuyện gì từ khi chúng ta xuống bến Southampton vậy?” Sherlock cố kìm lại chút giọng thương hại, làm như thể đây chỉ là một câu hỏi bình thường, nhưng cậu đã nghĩ rằng người nhạc sĩ vĩ cầm này đã đến Farnham khi tàu cập bến và tìm được chỗ làm gia sư rồi.
Stone cau mày. “À, tôi cần phải thú thực đây. Tôi đã sẵn sàng chui vào cái xó xỉnh này kiếm sống rồi, nhưng lại trôi dạt sang Salisburry hết mấy tuần. Chẳng qua là ở đó có một nữ nghệ sĩ, và dàn nhạc đệm của nhà hát Salisbury lại thiếu một chỗ, nhờ đó tôi mới có cơ hội chiêm ngưỡng dung nhan của nàng mỗi buỗi tối khi chơi đàn và nàng cũng tỏ vẻ dành cho tôi chút ít tình cảm.”
“Vậy chuyện gì đã xảy ra?” Sherlock hỏi.
“Đương nhiên là nàng cũng đem tình cảm tương tự trao cho tay nhạc trưởng.” Stone nheo mắt trả lời. “Dĩ nhiên là họ luôn phởn chí như thế khi có nhiều người trong dàn nhạc giương mắt ngưỡng mộ. Sau này tôi mới biết là lũ chúng tôi ai cũng tham gia dàn nhạc vì cô ả cả, và ai cũng nhận mức lương thấp hơn bình thường chỉ vì tưởng được nhận vào đã là một ân sủng rồi.” Stone thở dài đầy kịch tính. “Ôi, là thế. Chúng ta học từ cuộc sống. Mà này - cậu có nghĩ rằng tại Hampshire này có chỗ cho một thầy giáo giỏi dạy violon không?”
“Chắc là có. Quanh đây có đôi ba trường cũng tốt, còn vùng phụ cận cũng có vài ngôi nhà lớn.” Sherlock trả lời.
“Còn cậu sao rồi?” Stone hỏi. “Cậu vẫn còn tập những bài tôi dạy chứ?”
“Em đang tìm xem có cây đàn nào giá rẻ,” Sherlock thú thực. “Nhắc cái này mới nhớ – cây đàn của anh đâu rồi?”
“Tôi mới kiếm được chỗ trọ ở gần đây. Mọi tài sản của tôi – cũng chỉ là thế – và cây đàn đều để ở trong phòng. Quên nữa – tôi đang chạy việc vặt cho bà chủ nhà, mà phải để cho bà ta tin tưởng. Nếu trong vòng một giờ mà tôi không kiếm được con gà nào mang về, thì chắc là sẽ bị tống ra ngoài đường thôi. Nói cho tôi biết, có thể tìm cậu ở đâu để ta tiếp tục bài học?”
“Trang viên Holmes,” Sherlock bảo. “Em cần một hai ngày bàn lại với anh trai và chú, nhưng em nghĩ họ sẽ đồng ý thôi.”
Stone cười, chìa tay ra. “Rất vui được gặp lại, cậu Holmes ạ,” anh nói khi Sherlock nắm lấy. Bàn tay anh ta khô và ấm, Sherlock nhận thấy Stone không siết mạnh khi họ bắt tay nhau. Có lẽ anh ta sợ làm hư mấy ngón tay. “Sẽ sớm gặp lại.” Anh ta quay lưng rồi biến vào đám đông ngay.
Lòng rất vui khi gặp lại Rufus Stone, Sherlock quay lại chỗ cũ để lấy con ngựa.
Nhà ga nằm ở ngoài rìa thị trấn. Chưa có chuyến tàu nào đến vào buổi xế trưa này, nhà ga vắng tanh khi Sherlock xuống ngựa, đi vào quầy vé.
Cậu nói với một ông già ngồi sau quầy. “Cho cháu hai vé đi London. Chuyến tàu khởi hành lúc 9.30 sáng ngày mai. Một người lớn, một trẻ em, vé hạng nhì.”
Người bán vé nhướng mắt nhìn lên, lầm bầm. “Có đủ tiền cho hai vé hạng nhì không đấy? Hay cậu định nói là ngày mai mới trả tiền, sau khi được cho tiền bỏ túi?”
Sherlock đẩy một nắm tiền đồng lên quầy. Mycroft thường xuyên chuyển tiền cho cậu theo đường bưu điện, hơn nữa cậu cũng chẳng tiêu pha gì nhiều nên để dành cũng được kha khá. Anh cậu không nói rõ tiền mua vé lấy ở đâu ra, trong thư gởi đến cũng chẳng có kèm theo tiền nên Sherlock nghĩ rằng anh Mycroft muốn cậu tự trả bằng tiền của chính mình. Đó cũng là cách để cậu dần biết trách nhiệm khi thành người lớn.
“Hai vé,” người bán vé lại lầm bầm. “Một người lớn, một trẻ em. Vé hạng nhì.” Ông ta đẩy hai tấm vé nhỏ bằng bìa cứng cùng với một cọc nhỏ đồng xu sang phía bên kia quầy. “Tiền thối lại đây.”
“Cảm ơn ông.” Sherlock bỏ hai chiếc vé vào một bên túi, mấy đồng xu túi bên kia rồi quay lưng. Cậu chỉ vừa kịp nhận ra một bóng người mặc quần áo đen bước vào ngõ hẻm bên hông nhà ga. Cậu nghĩ đó là một phụ nữ.
Sherlock có cảm giác rợn xương sống. Có phải bà Eglantine bám theo dõi cậu không? Hay vì bị cậu làm cho bẽ mặt quá sức nên bà ta tìm cách trả thù? Cậu rảo bước xuống con dốc dẫn vào khách sạn, bước ra ngoài đường lớn trước khi rẽ vào ngõ hẻm, phòng trường hợp có ai đón lõng mình, nhưng khi cậu vượt qua góc tòa nhà thì con hẻm trống trơn. Cậu quan sát mấy bức tường, nhưng không hề thấy có cánh cửa nào để cái bóng đó nấp cả. Hầu như mất hẳn tăm dạng.
Hay là cậu tưởng tượng? Hay là đầu óc cậu nhìn gà hóa cuốc? Hoặc đơn giản hơn - một phụ nữ ở gần đó đã chọn cách đi tắt băng qua khách sạn để đến chỗ cần tới.
Sherlock đi vào con hẻm, cúi xuống để xem kĩ dưới đất. Có nhiều vết dấu chân tỏa ra. Những chỗ lõm để lại trên bùn cho thấy những dấu chân này nhọn ở phần mũi dày, nhỏ ở phần gót chân. Dấu đế giày lành lặn, không lõm, không miếng vá, chứng tỏ giày này còn mới hoặc được xài kĩ, hoặc cả hai khả năng.
Cậu kiểm tra kĩ mặt đất lần nữa rồi tiến thêm vài mét vào phía trong ngõ hẻm, nhưng cũng chẳng thấy gì khác.
Ngổn ngang suy nghĩ trong đầu, cậu cưỡi con Philadelphia đi về phía nhà Amyus Crowe để đưa cho ông ta vé tàu hỏa.
Có người trong nhà khi cậu tới nơi, và con ngựa của Virginia đang gặm cỏ trong sân. Cậu phấn chấn xuống ngựa, bước vào căn nhà cửa đang mở.
Virginia không có trong phòng lớn, nhưng ông Amyus Crowe đang ngồi chễm chệ xem sách trong ghế bành. Khi thấy Sherlock bước vào, ông ngước mắt nhìn cậu bé qua cặp kính đặt lưng chừng trên sống mũi. “Cháu có lấy được vé không?”
“Có ạ.” Sherlock ngừng lại một chút, rồi thêm. “Cháu có gặp Rufus Stone. Anh ta đang ở Farnham.”
“Hẳn rồi.” Crowe mím môi lại. “Cái lạ là tại sao anh ta xuất hiện ở đây, đúng tại nơi cháu đang trú ngụ.”
“Cháu có nói cho anh ta biết mình đang ở đâu. Cháu cũng bảo anh ta có thể đến Farnham để dạy violon.”
“Cháu quả là nhân hậu,” ông Crowe thừa nhận, đưa cặp mắt xanh nhạt nhìn Sherlock. “Chú có thể hiểu được ý cháu, nhưng chưa hiểu được là Stone có lợi gì không.”
“Anh ta cũng phải có nơi để sống chứ,” Sherlock nêu ý kiến, lòng áy náy khi thấy ông Crowe chẳng hứng thú gì khi biết tin Rufus Stone đang có mặt trong vùng. “Có người muốn học đàn thì anh ta sống được thôi.”
“Cũng như chú vậy thôi.”
“Thì đúng thế.”
Crowe đặt quyển sách xuống đùi, gỡ kính đeo mắt xuống. “Âm nhạc là một món tiêu khiển, Sherlock,” ông ta nói giọng không có vẻ gì cay cú. “Nhưng nó lại không phải là trò giải trí phù hợp cho một người đang quan tâm học hỏi những điều thực tế. Hãy nghĩ xem đầu cháu có bao nhiêu chỗ để nhồi nhét tất cả các nốt nhạc của một bản nhạc hoa mỹ nào đó. Chỗ đó nên để dành để ghi nhớ những dấu tích do con thú để lại hoặc tai người ta có hình dạng gì, hoặc những vết tích còn sót lại trên bàn tay, trên quần áo của những thứ họ mó tới trong ngày. Vất bỏ âm nhạc đi, con trai ạ. Âm nhạc chẳng được tích sự gì đâu.”
“Cháu không đồng ý,” Sherlock lên tiếng, cảm giác thất vọng lạ kỳ khi thấy Amyus Crowe cứ gạt đi những điều mà mình ngày càng yêu thích. Cậu nhớ lại những suy nghĩ của mình trong khi đang cưỡi ngựa đi vào thị trấn, về sự khác nhau – hoặc không khác nhau giữa thú vật và con người. “Vâng, cháu có thể ghi nhớ hết mọi thứ đó – cháu có thể biết tất cả các loại nấm ăn được, nói được tình trạng hôn nhân của một người đàn ông dựa trên các vết ố trên chiếc mũ ông ta đội, nhưng tại sao phải như thế? Vấn đề là cái gì? Mấy thứ đó chỉ biến cháu thành một loài săn mồi bậc cao với khả năng truy tìm con mồi thông qua các dấu hiệu hầu như vô hình. Có chắc nó nói lên được điều gì chăng? Có chắc rằng cuộc đời sẽ có ý nghĩa hơn khi trở thành một con vật giỏi giang hơn?
“Và âm nhạc là thứ làm cho ta khác với thú vật phải không?” Crowe hỏi lại, mắt vẫn dè chừng.
“Một trong nhiều thứ.”
Crowe nhún vai. “Nói sao mà ta không có nhiều thời gian dành cho việc này. Đối với ta, con người là phải chăm sóc cho người thân, tự chăm sóc mình và cố làm sao để cho mọi người quanh mình quan tâm đến nhau. Nếu điều này làm cho ta thành một loài động vật khác, thì ta chính là loài đó.”
“Nhưng tất cả những thứ đó là để làm gì?” Sherlock bật hỏi. “Nếu không có thứ gì làm cho chúng ta cảm thấy…” cậu cố tìm đúng chữ, “được an ủi, thế thì có ý nghĩa gì đâu khi làm một công việc gì đó.”
“Để tồn tại,” Crowe trả lời ngắn gọn. “Chúng ta sống là để tồn tại.”
“Chỉ thế thôi sao?” Sherlock hỏi chán ngán. “Cứ cắm cúi đi thì mới tiếp tục đi được sao? Chúng ta sống để tồn tại và tồn tại để sống sao?”
“Chính là như thế,” Crowe xác nhận. “Môn triết học tuy khó hiểu, nhưng có lợi thế là cô đọng và khó chối bỏ. Mà này, cháu ở lại ăn cơm hay quay về nhà người bà con?”
Sherlock đè nén những lập luận chuẩn bị trong đầu, thất vọng vì ông Crowe đã thay đổi chủ đề quá đột ngột, nhưng cũng vui vì cả hai không phải tranh luận nữa. Cậu thích Amyus Crowe, và cũng không muốn xích mích vì chuyện mấy bài học âm nhạc cỏn con. “Virginia có ở nhà không ạ?”
“Nó ra ngoài, lấy nước cho con Sandia. Nếu cháu muốn thì đi tìm nó đi.”
Lúc Sherlock quay lưng ra phía cửa chính, giọng ông Crowe vang lên: “Nói cho cậu biết Rufus Stone cũng là tên một ngôi làng gần Southampton. Có lẽ là tình cờ trùng hợp… hoặc có lẽ có lúc anh ta không muốn xưng tên, cứ lấy đại một cái tên nào thoáng qua trong đầu mà anh ta chộp được ven đường. Chỉ nghĩ thế thôi.”
Ý nghĩ này làm cho Sherlock chột dạ. Cậu cho rằng ông Amyus Crowe hơi nhỏ nhen khi đưa ra ý này.
Sherlock gặp Virginia ở ngoài nhà. Cô vừa mang đến một xô nước, con Sandia đang cắm cúi uống nước.
“Cha cậu có điều gì bực bội với Rufus Stone à?” Cậu hỏi.
“Và chào đón cậu nữa mà.” Cô liếc xéo về phía Sherlock.
“Đừng nói là cậu không biết gì hết chứ?”
“Mình chẳng biết gì thật,” cậu thừa nhận.
Virginia lắc đầu. “Mình đã từng nói và bây giờ thì lập lại đây: một chàng trai thông minh như cậu cũng có lúc ngốc nghếch thật.”
“Nhưng điều này chẳng có nghĩa lý gì cả!” Sherlock phản đối. “Mình nghĩ là cha cậu sẽ vui khi thấy mình có bạn mới và tìm được những điều quan tâm mới chứ.”
Virginia quay phắt về phía cậu, chống nạnh sừng sộ. “Để mình hỏi cậu câu này nhé. Nếu cha cậu vẫn còn ở đây, thay vì đi Ấn Độ, liệu ông có hiểu cha mình không? Liệu hai người có hợp tính nhau?”
Sherlock cau mày, suy nghĩ. Cuối cùng cậu nói. “Chẳng biết nữa. Hai người thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau, người này thì…”
Cậu lơi gọng, không biết nói thế nào cho đúng với những gì mình nghĩ.
“Thì sao?” Virginia nhắc.
“Một mặt nào đó, cha cậu sẽ làm những gì mà cha mình sẽ làm nếu có ông ấy ở đây.” Sherlock cảm thấy hơi ngượng khi nói nhữnglời này. “Dạy dỗ mình ấy mà. Theo kiểu sẽ dẫn mình đi dạo. Cho lời khuyên nhủ.”
“Đúng thế. Ông ấy đang xử sự như một người cha đối với cậu.”
Sherlock nhìn cô tần ngần. “Cậu không phiền chứ?”
Cô cũng cười theo. “Vui vì có cậu ở đây.” Cô nhìn ra xa rồi quay lại. “Cậu nói đúng đấy – cha cậu sẽ ganh tị khi thấy cậu đang gần gũi với người coi cậu như con. Nhất là khi người đó dạy những điều mà ông ấy không dạy được.”
Trong đầu Sherlock lóe lên một tia sáng như ngôi sao xẹt khi cậu hiểu ra vấn đề. “Còn cha cậu thì ganh tị với Rufus Stone khi ông nghĩ rằng Rufus xử sự như một người cha với mình phải không?” Ý nghĩ này quá lớn, quá to tát đến nỗi đầu óc cậu dường như bị choáng ngợp. “Nhưng như thế quả là ngu ngốc!”
“Tại sao?”
“Bởi vì Rufus không hề giống gì một người cha. Anh ta chỉ đáng làm anh cả, hoặc là ông chú trẻ tuổi đại loại thế. Hơn nữa, việc mình học đàn của Rufus không có nghĩa là mình coi nhẹ các bài học của cha cậu. Hai việc hoàn toàn tách biệt. Không… hợp lý chút nào!”
Cô bé nhìn thẳng vào mặt cậu, lắc đầu. “Xúc cảm không có lý trí, Sherlock. Nó không theo luật nào cả.”
“Thế thì mình không ưa xúc cảm đâu,” Sherlock chống chế. “Mấy thứ này chẳng ích lợi gì cả, chỉ tổ gây bối rối, đau khổ mà thôi.”
Những lời này rung lên như một tiếng chuông làm giữa họ chợt có một khoảng lặng kéo dài trong phúc chốc.
“Cũng có một vài xúc cảm đáng có,” cô gái quay đi, nói khẽ. Cô cúi xuống và nhấc xô nước lên. “Ít nhất đó là ý nghĩ của mình, dù cậu không thích đi chăng nữa.”
Cô bước ra sau nhà. Sherlock nhìn theo mãi đến khi cô mất hút. Cậu cảm thấy đã có một điều gì đó to lớn vừa xảy ra, nhưng lại không biết chính xác là gì.
Một lúc sau, cậu rảo bước về phía con ngựa của mình. Cậu thậm chí còn chưa nói cho Virginia biết cậu đã đặt tên cho con ngựa là Philadelphia. Có lẽ cậu không hiểu nhiều về cảm xúc, nhưng cũng đủ biết rằng giờ không phải là lúc quay lại để nói rõ với cô bé.
Nhắm hướng quay về trang viên Holmes, đầu óc cậu mãi quay cuồng với những suy đoán về Amyus Crowe, Virginia, Rufus Stone và cha mình, hiện đang ở rất xa. Cậu không thích những phỏng đoán này. Tất thảy đều rối rắm, dành cho người lớn và không hợp với lý luận. Chỉ là xúc cảm mà thôi.
Về đến nhà, cậu đi tìm chú Sherrinford để nói cho ông biết về lá thư của Mycroft. Không hẳn là xin phép đi London, nhưng cũng không hẳn báo cho Sherrinford là cậu sẽ đi dù ông có đồng ý hay không. Cậu chỉ muốn cho chú biết đây là một việc đã rồi. Cũng may là ông chú của cậu đang lo soạn một bài thuyết giảng để bán cho các cha xứ trên toàn nước Anh, mỗi bài giá vài bảng. Việc ông không thèm bận tâm có nghĩa là ông sẵn lòng chấp thuận những gì mà Sherlock muốn làm, miễn là những điều đó phù hợp với ý kiến của Mycroft.
Sáng hôm sau, khi cậu thức dậy, mặt trời chỉ vừa mới lên khỏi các ngọn cây, bầu trời trên cao xanh biếc không gợn chút mây. Những lo nghĩ của đêm qua giờ trở nên vặt vãnh dưới ánh mặt trời xán lạn. Cậu mặc nhanh quần áo, và sau khi ăn vội bữa sáng gồm cháo và bánh mì nướng, cậu hỏi xem liệu có chiếc xe ngựa nào có thể chở cậu ra ga tàu hỏa. Còn hơn là buộc con ngựa của cậu ở đó hàng nhiều giờ trong lúc cậu đi London.
Amyus Crowe đang chờ cậu trên sân ga, bộ quần áo màu trắng và chiếc mũ trắng làm cho vóc dáng của ông trở nên đồ sộ và đầy ấn tượng. Ông gật đầu chào Sherlock.
“Chiều hôm qua có vẻ như mọi việc không mấy vui giữa chúng ta,” ông nói to. “Ta rất tiếc vì đã có chút căng thẳng và vô lý với cháu.”
“Không có gì đâu ạ,” Sherlock trấn an. “Nếu chú tin vào cái gì đó thì chú phải nói ra. Nếu không làm thế mới là đạo đức giả.”
Crowe tằng hắng giọng. “Mẹ của Ginnie rất thích nhạc kịch,” ông nói trong trầm ngâm. “Nhất là nhạc sĩ người Đức tên là Wagner. Sau khi bà ấy mất, chú không tài nào chịu được âm thanh hòa nhạc, ngay cả tiếng hát của một ca sĩ cũng không.”
“Cháu hiểu,” Sherlock nói nhỏ.
“Thế là cháu khôn ngoan hơn chú nhiều rồi đó.”
May mắn thay lúc đó con tàu đã vào ga trước khi câu chuyện trở nên thêm ngượng nghịu.
Hai người tìm ra chỗ của mình trên một khoang tàu tươm tất. Ghế ngồi có bọc nệm và khá tiện nghi. Hơi nước từ đầu máy bốc ra nhìn như những đám mây bay là đà ngang cửa sổ, và Sherlock ngồi ngắm cảnh thôn quê đang trải dài trước mắt.
Khi tàu vừa qua Woking, một nhân viên soát vé đến kiểm tra vé. Khi anh ta bước ra khỏi khoang và cánh cửa đóng lại, Crowe lên tiếng: “Cháu có nhận xét gì về anh chàng vừa đi ra không?”
Do quen với cách suy nghĩ của ông Crowe nên Sherlock đang chờ một câu hỏi như thế.
“Đôi giày của anh ta mới đánh bóng,” cậu trả lời, “áo sơ mi cũng mới ủi. Hoặc là anh ta kiếm được người giúp việc hoặc anh ta mới cưới vợ, nhưng mà cháu không cho rằng một nhân viên soát vé có điều kiện thuê người giúp việc để ủi quần áo cho nên cháu nghĩ rằng có nhiều khả năng là anh ta mới lấy vợ.”
“Được đấy,” Crowe ậm ừ.
“Vợ anh ta lớn tuổi hơn.” Sherlock thăm dò.
“Dựa vào đâu mà nói thế”?
“Anh ta mới khoảng 30 tuổi, nhưng cổ áo thì theo kiểu cũ. Giống như cổ áo chú của cháu. Cổ áo cũng chưa mòn, tức là ông ta cũng chưa dùng lâu. Chắc là người nào chăm sóc quần áo của ông ta thích cổ áo theo kiểu cũ, còn nếu là vợ thì bà này phải nhiều tuổi hơn ông ta”
“Cháu quên tính đến khả năng là anh ta có cô vợ trẻ có gốc gác gia đình kiểu cổ, nhưng cách giải thích của cháu có vẻ thích hợp nhất,” Crowe thừa nhận.
“Mắt phải của anh ta nhìn không rõ lắm,” Sherlock tổng kết một cách đắc thắng.
Crowe gật đầu. “Đúng vậy. Nhưng dựa vào đâu?”
“Anh ta đã cạo mặt và cổ phía bên trái rất cẩn thận, nhưng phía bên phải thì vẫn còn chân râu lỗ chỗ. Từ đó suy ra là anh ta gặp khó khăn khi nhìn bằng mắt phải.”
“Rất xuất sắc. Cháu tiếp thu kĩ năng quan sát khá nhanh đấy.”
“Cháu còn sót điều gì không?” Sherlock hỏi, mỉm cười.
Crowe nhún vai. “Thực ra thì còn nhiều điểm. Người đàn ông này đã từng có vợ, nhưng vợ anh ta chết rồi. Hiện nay anh ta có vợ nhưng lại không có con khiến cho bà vợ khá dằn vặt. Mà này, chú tin rằng anh ta còn xoáy vặt tiền của công ty đường sắt nữa, nhưng đó chỉ là suy đoán mà thôi.”
Sherlock không nhịn cười được. “Sao chú có thể biết hết những điều đó?”
“Luyện tập,” Crowe vừa cười vừa nói. “Thêm tài năng bẩm sinh. Ngày nào đó cháu cũng sẽ làm được như thế.”
Sherlock lắc đầu. “Cháu không tin,” cậu bật cười to nói. “Thực sự cháu không tin đâu.”