← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 3

Chặng đường đến nhà ga Waterloo dường như ngắn hơn so với những lần mà Sherlock từng đi. Suốt chuyến đi, ông Crowe luôn vui vẻ, đưa ra các suy diễn đối với những người lên xuống toa tàu và tại các nhà ga mà họ đi qua. Đôi khi, chỉ để trêu Sherlock, ông gợi chuyện với họ và để họ nói ra những điều mà ông đã kể với Sherlock. Sự áy náy khó xử giữa hai người liên quan đến Rufus Stone dường như đã kết thúc.

Đoàn tàu rú còi khi vào ga Waterloo, chạy chầm chậm rồi ngừng hẳn ở sân ga. Hai người bước xuống tàu và băng qua nhà ga để tìm một chiếc xe ngựa.

Sherlock đã từng quen thuộc với cảnh nhộn nhịp của nhà ga Waterloo, nhưng khi cùng với ông Amyus Crowe len lỏi lách qua đám người đội mũ cao, cậu cảm thấy như đang chen qua một khung cảnh ảm đạm đầy các các ống khói nhô lên từ những nhà máy xám xịt. Hơi nước từ các con tàu trôi bồng bềnh xung quanh nhà ga càng làm cho sự so sánh trở nên tệ hại hơn. Bực mình, cậu cố gạt hình ảnh đó sang một bên. Không phải lúc nào trong đầu cậu cũng lóe lên những tưởng tượng như thế, và cậu cũng không thích khi điều này xảy ra. Chẳng hợp lý chút nào khi gán ghép những chiếc mũ cao với cảnh vật ám khói của khu công nghiệp. Đó là một sự so sánh thi ca, chứ không phải là một so sánh phân tích.

Ông Amyus Crowe cũng sẽ không đồng tình.

Tuy nhiên Rufus Stone có lẽ sẽ chấp nhận những tưởng tượng này. Ý nghĩ ấy làm cho cậu khựng lại không mấy dễ chịu.

Crowe cất tiếng gọi một chiếc xe ngựa hai bánh đứng bên ngoài nhà ga. Họ không mang theo hành lý vì sẽ về ngay trong ngày. Cả hai trèo vào trong xe và đi.

Chiếc xe giống như một cái hộp đặt trên 2 bánh, người đánh xe ngồi trên mui, con ngựa được buộc vào càng xe phía trước bằng dây cương và bộ yên. Chiếc xe chạy dằn xóc mạnh trên các con đường London gập ghềnh.

“Đến Câu lạc bộ Diogenes,” ông Crowe bảo người đánh xe.

“Ở nơi nào thế, thưa ngài?” người đánh xe hỏi lại.

“Đi về hướng Bộ Hải quân,” ông Crowe nói to. “Tôi sẽ chỉ đường cho anh.” Ngồi thụt sâu trong ghế khi chiếc xe vụt đi, ông mở chuyện: “Câu lạc bộ này mới mở ra chừng một năm gì đó. Dường như cậu Holmes là một trong những người sáng lập, cậu ta đã bảo thế. Câu lạc bộ đặt theo tên một triết gia Hi lạp là Diogenes người xứ Sinope. Diogenes là một trong những người lập ra môn triết học yếm thế, hoặc chủ nghĩa yếm thế như tên gọi.”

“Cháu có nghe từ “yếm thế”,” Sherlock nói, “nhưng không hiểu rõ nghĩa là gì.”

“Các triết gia yếm thế cho rằng mục đích của cuộc đời là để sống một cuộc đời đức hạnh hòa hợp với tự nhiên, có nghĩa là trên thực tế họ từ bỏ mọi ham muốn thông thường về tiền tài, quyền lực, sức khỏe, danh vọng, và sống một cuộc đời giản dị không hề bận tâm đến của cải vật chất. Ta không thể chê trách gì họ về tư tưởng này, mặc dù điều này ít nhiều không giúp cho xã hội tiến bộ về mặt công nghiệp. Các triết gia yếm thế cũng tin tưởng rằng thế giới này ai cũng có phần như nhau,và những đau khổ là do sự phán xét sai lầm về những thứ được coi là có giá trị và do những tập tục, những qui ước vô bổ đầy rẫy trong xã hội.” Ông dừng lại. “Không biết áp dụng như thế nào đối với cậu Holmes, hoặc cho câu lạc bộ, nhưng cháu phải biết là Câu lạc bộ Diogenes có một qui định rất chặt chẽ. Không ai được phép chuyện trò bên trong tòa nhà. Một lời cũng không được. Ngoại lệ duy nhất là Phòng dành cho khách, nơi mà ta cho rằng cậu Holmes sẽ tiếp chúng ta. Nếu không, chúng ta sắp có một ngày không mấy dễ chịu.”

Khi chiếc xe lóc cóc chạy qua cầu Westminster, Sherlock chăm chú nhìn vô số con tàu xuôi ngược, hoặc băng ngang dòng nước màu nâu bẩn thỉu. “Diogenes và Plato có sống cùng thời không?” cậu chợt hỏi khi nhớ đến quyển sách mà anh trai đã tặng mình khi cậu lên tàu đi Mỹ - quyển Nền Cộng Hòa của Plato.

“Họ sống cùng thời,” Crowe trả lời, “nhưng không hợp nhau. Ta sẽ kể chuyện nay khi có dịp.”

Đến mạn bắc của cầu, chiếc xe rẽ trái, rồi rẽ phải vào một con đường lớn có hàng cây chạy rợp hai bên. Đến đầu đường, Sherlock nhận ra Quảng trường Trafalgar, nơi có tượng đài tưởng niệm Lord Nelson. Cậu đã thấy tượng đài này khi đến London lần trước.

Chiếc xe dừng lại mấy giây sau đó. Hai người bước xuống vỉa hè, ông Crowe trả cho người đánh xe mấy xu tiền thuê xe.

Họ vẫn ở trên con đường lớn, rợp bóng cây, nhưng ở đầu đường – chỗ uốn cong lại thành một con đường khác. Có một cánh cửa nhỏ gắn vào bức tường trước mặt. Bên mé cửa có một tấm bảng đồng khắc chữ Câu lạc bộ Diogenes.

Ông Crowe lấy đầu gậy gõ nhẹ vào cửa. Một lúc sau, cánh cửa mở toang. Ông Crowe bước vào bên trong, đầu hơi cúi xuống để tránh chiếc rầm thấp. Sherlock đi theo.

Họ đang đứng trong một sảnh hẹp có tường xung quanh ốp gỗ sồi, sàn nhà lát đá cẩm thạch. Có một cầu thang dẫn lên tầng một, bên hông sảnh có một cửa nhỏ có lối dẫn vào một phòng lớn kê đầy các ghế bành da màu xanh lá. Xung quanh im lặng nặng nề đến nỗi Sherlock cảm thấy sự tĩnh mịch như ép mạnh vào tai. Trong sảnh vọng lại tiếng tích tắc của một chiếc đồng hồ khuất ở nơi nào đó.

Một người đàn ông nhỏ thó và nhanh nhẹn đi ra mở cửa. Với dáng vẻ của một người từng đi lính, anh ta mặc bộ đồng phục màu xanh biếc dành cho hầu bàn chỉn chu không chê vào đâu được. Tuy không phải là chuyên gia, nhưng Sherlock cũng nhận thấy anh ta rất tươm tất, đôi ủng bóng lộn đến mức Sherlock có thể soi mặt. Ông Crowe đưa cho người này tấm danh thiếp. Anh ta đưa mắt nhìn qua, gật đầu rồi ra dấu mời ông Crowe và Sherlock theo mình đi ra khỏi sảnh, băng qua căn phòng có những chiếc ghế bành màu xanh lá. Nhiều người đang ngồi đọc báo ở đó, anh hầu bàn dẫn họ đi một vòng đến cánh cửa nằm ở tận cuối phòng. Anh ta gõ cửa.

Vài người rời mắt khỏi tờ báo và ngước nhìn theo nơi có tiếng động phát ra.

Sherlock lắng tai nghe nhưng chẳng thấy ai trả lời. Cậu bứt rứt: nếu trong câu lạc bộ không ai được phép nói chuyện thì chắc chắn cũng chẳng có ai mở miệng nói “Mời vào!” Rõ ràng là anh hầu bàn đang chờ người mở cửa.

Không chút động tĩnh. Người hầu bàn lại gõ lần nữa.

Lần này có tiếng lục cục trong phòng. Có cái gì đó động vào cánh cửa. Chốt cửa bật ra, rồi cửa mở.

Mycroft Holmes đứng ngay cửa, thân hình đồ sộ của anh che ngáng căn phòng. Trông Mycroft đầy bối rối.

Anh giơ cao hai bàn tay như muốn sờ lấy trán, và ngỡ ngàng không kém Sherlock, Crowe và người hầu bàn khi phát hiện ra mình đang cầm một con dao.

Mycroft nhìn trừng trừng vào con dao như thể chưa bao giờ thấy nó. Anh quay đầu nhìn ngược vào trong phòng. Khi quay nhìn, Mycroft bước xéo sang một bên, nhờ vậy Sherlock có thể nhìn vào bên trong.

Căn phòng có tường ốp gỗ giống như những nơi khác trong câu lạc bộ nhưng lại không có cửa sổ. Giữa phòng có một cái bàn lớn. Xung quanh là ghế lót nệm được xếp đối xứng nhau.

Một trong những chiếc ghế đó có người ngồi. Căn cứ theo vết máu loang lổ trên áo sơ mi, và cặp mắt vô hồn nhìn chòng chọc vào chiếc đèn chùm treo trên trần thì ông ta đã chết rồi. “Anh Mycroft?” Sherlock kêu lên.

Một đợt sóng ngạc nhiên dấy lên trong phòng, sau đó là những tiếng suỵt bất bình vì cậu đã ngang nhiên vi phạm các qui định ở đây, nhưng Sherlock bất cần. Cậu chỉ muốn biết việc gì đã xảy ra.

Người hầu bàn dợm lui đi, mắt vẫn trố nhìn. Crowe níu lại, đưa tay lên miệng ra dấu huýt còi. Anh ta gật đầu, quay lưng lại rồi vụt đi ngay.

Crowe nắm lấy cánh tay Sherlock kéo vào Phòng dành cho khách, rồi đóng cánh cửa sau lưng lại. Sherlock chú ý là mặt sau của cánh cửa được lót rất dày, có lẽ để giữ cho những lời trò chuyện không chui vào phòng họp. Mycroft lùi lại, mắt vẫn đầy bối rối, trên tay còn cầm con dao.

“Tôi không… hiểu gì cả.” Anh ấp úng.

“Anh Homes,” ông Crowe ngắt lời, “anh cần phải tập trung. Chuyện gì đã xảy ra? Cho chúng tôi biết hết đi.”

“Tôi đang chờ… hai người,” Mycroft trả lời, giọng bình tĩnh trở lại. “Tôi đã tính trước giờ mọi người đến dựa trên lịch tàu chạy và hành trình thường ngày giữa ga Waterloo tới câu lạc bộ vào thời điểm này trong ngày. Rồi có tiếng gõ cửa. Anh hầu bàn Brinnell mang đến một tấm danh thiếp đặt trên cái khay. Rõ ràng là có người muốn gặp tôi. Tôi không biết anh ta là ai, tôi tính không tiếp cho đến khi thấy mấy chữ nguệch ngoạc ở mặt sau danh thiếp. Đó là những dòng chữ mà… mà tôi đã từng liên lạc trong công việc. Những dòng chữ của việc quan trọng. Tôi ra lệnh cho Brinnel dẫn người đó vào đây tức là phòng tiếp khách.”

Anh dừng lại, cau mày như thể đang cố nhớ một điều gì khó khăn.

“Tôi đứng chờ ở đây,” anh nói tiếp. “Rồi có tiếng gõ cửa. Thay vì gọi vọng ra, tôi đi ra mở cửa. Đây là tập tục của câu lạc bộ Diogenes nhằm tránh những lời vô ý làm phiền các hội viên. Có một người đàn ông đang đứng bên ngoài…”

“Chính người này?” Crowe vừa hỏi vừa giơ tay chỉ vào cái xác thu lu trong chiếc ghế.

“Vâng,” Mycroft đáp, mặt nhăn lại. “Chính người này đây. Tôi ra hiệu mời anh ta vào. Anh ta làm theo. Tôi đóng cửa đằng sau lưng anh ta, và rồi…”

Giọng anh lạc đi. Bàn tay anh ta – không phải bàn tay đang cầm con dao – giơ lên như thể muốn sờ gì đó trên đầu mình. “Đó là tất cả những thứ mà tôi nhớ được cho tới khi có một tiếng gõ cửa khác. Tôi nghĩ rằng tôi đã trải qua cái giây phút mà người Pháp gọi là ký ức ảo giác, là khi anh tin rằng đã từng gặp cái đang thấy. Khi tôi mở cửa ra cứ tưởng là thấy Brinnell và người khách kia đang ở phía ngoài, nhưng té ra là mọi người. Cả hai người luôn. Tôi lúng túng, quay lại để xem vị khách có ở đằng sau mình không.” Mycroft chỉ vào các xác nằm chết trên ghế. “Tôi thấy anh ta rồi,” anh tiếp tục, cái vẻ khô khốc quen thuộc luồn vào giọng anh, “nhưng lại không giống như điều tôi mong đợi.”

“Anh Holmes,” ông Crowe nói, “cho đúng thủ tục, và vì thế nào cảnh sát cũng sẽ hỏi câu này, anh có giết người này không?”

“Tôi không nhớ gì về việc giết người cả.” Mycroft thận trọng đáp.

“À, vậy tôi khuyên anh nên trả lời ngắn gọn “không” khi được hỏi câu này lần sau. Nhưng không có nghĩa là nó sẽ giúp được gì cho anh.” Crowe thở dài. “Anh có biết luật sư giỏi nào chưa?”

“Câu lạc bộ Diogenes luôn có một luật sư thường trực.” Mycroft trả lời. “Brinnell sẽ cho ông biết thêm về vị này.”

“Vậy thì dù chuyện gì sẽ xảy ra, chúng ta phải bảo đảm đều có luật sư của Diogenes tham gia. Và chúng tôi sẽ tìm mọi cách để họ thả anh.”

Mycroft quay lại nhìn cái xác. “Sẽ khó khăn đây.” Anh nói trong sầu não. “Có quá ít bằng chứng, và tất cả bằng chứng ít ỏi đó đều chĩa mũi vào tôi.”

“Anh không giết ông ta.” Sherlock nói quả quyết. “Em không rõ lắm những gì đã xảy ra ở đây, nhưng em tin như thế.”

Mycroft cười nhẹ, vỗ vỗ lên vai Sherlock. “Cám ơn em,” anh nói. “Anh nghĩ là anh cần nghe những điều như thế.” Sự ồn ào bên ngoài báo cho họ biết là cảnh sát đã tới.

“Tôi nghĩ là ông nên đặt con dao lên bàn.” Ông Crowe nói. “Chẳng lợi ích gì khi cảnh sát vào mà lại thấy mình đang cầm hung khí.”

Mycroft bước tới phía bàn, vừa đặt con dao xuống thì cánh cửa mở tung, một nhóm người mặt đồng phục màu xanh tiến vào. Ông Crowe bước ra trước, lấy thân mình che bớt cử động của Mycroft.

“Đã xảy ra án mạng,” ông lên tiếng. “Cái xác phía bên kia chiếc bàn, còn kia là con dao có lẽ đã đươc sử dụng để thực hiện tội ác.”

“Và anh là ai?” Viên trưởng toán cảnh sát cất tiếng hỏi.

“Tôi là Amyus Crowe. Thế còn anh?”

“Ra là một quí ông người nước ngoài,” viên cảnh sát vừa đưa mắt lướt qua các đồng sự vừa nhận xét. “Ông có mặt ở đây khi tội ác xảy ra không?”

“Tôi đã hỏi ông tên gì,” Crowe trả lời, giọng lễ độ nhưng khá sắc bén.

“Tôi là hạ sĩ Coleman,” viên cảnh sát trả lời, chỉnh lại tư thế. “Bây giờ có lẽ đến lúc mời ngài trả lời.” Anh ta dằn giọng. “Thưa Ngài.”

“Tôi đứng bên ngoài cánh cửa,” Crowe nói, “với cậu bé kia. Người hầu bàn có thể làm chứng.”

“Và cậu bé kia tên gì?”

“Sherlock Holmes,” Sherlock trả lời.

“Thế thì người nào đang ở trong phòng?” viên hạ sĩ hỏi dồn.

Ông Crowe ngần ngừ, trán thoáng cau lại. “Tôi nghĩ rằng quí ông kia ở trong phòng.” Ông ta hất đầu chỉ Mycroft.

Viên hạ sĩ bước tới trước. “Có đúng vậy không, thưa ngài?” anh ta hỏi Mycroft.

Mycroft gật đầu. “Tôi ở trong phòng,” anh trả lời rành rọt.

“Xin ngài cho biết tên?”

“Mycroft Siger Holmes.”

“Ngài có giết người này không?”

“Tôi không giết người này.”

Sherlock nhận thấy môi ông Crowe mím lại khi nghe giọng chắc nịch của Mycroft. Viên hạ sĩ có vẻ sửng sốt.

“Thưa ngài, tôi e rằng tôi phải bắt ngài thôi. Ngài sẽ được dẫn về Scotland Yard để phỏng vấn có tuyên thệ.” Anh ta liếc nhìn cái xác, rồi nhìn sang một đồng sự. “Cử người đi tìm bác sĩ pháp y. Lão Murdock đang trực phiên hôm nay. Gọi ông ta tới mang cái xác đi. Mang theo con dao này nữa để trình cho quan tòa, cứ thế mà làm.”

Những lời này giống như tiếng rung buốt tai của một cái chuông lớn dội vào đầu Sherlock. Cậu hoảng loạn khi thấy Mycroft bị xốc nách dẫn ra khỏi phòng dành cho khách, băng ngang qua phòng câu lạc bộ để tới sảnh lớn. Một viên cảnh sát thận trọng nhón lấy chỗ cán con dao và mang đi.

“Chú Crowe…” Sherlock mở lời.

“Không phải lúc này.” Ông Crowe xẵng giọng. “Ta biết cháu đang chấn động. Dễ hiểu thôi. Vấn đề là nếu ta muốn bảo vệ thanh danh cho anh cháu và đưa cậu ta ra khỏi nhà giam thì chúng ta phải nhanh tay, ta cần phải hành động hết sức chính xác và đúng đắn. Xúc động lúc này chỉ tổ làm ta trì trệ và làm cho sự phán đoán của ta lùng bùng mà thôi. Cháu có hiểu những gì chú đang nói không?”

“Vâng,” Sherlock thở mạnh.

“Hãy dẹp qua một bên những đau khổ và bàng hoàng. Cứ nghĩ rằng cháu đang cuốn tất cả mấy thứ đó vào một cái chăn, bó chặt lại rồi chất gọn trong một góc đầu. Chú chẳng bắt cháu phải quên luôn, nhưng chỉ lúc này thôi. Cháu có thể nhớ đến những xúc cảm đó sau này, khi mọi việc đã an toàn, lúc ấy cháu có thể nghiền ngẫm tùy thích. Nhưng không phải lúc này.”

“Vâng, cháu nghe đây.” Sherlock nhắm mắt lại, cố làm theo những lời Crowe vừa nói. Cậu cố mường tượng các cảm xúc đang sôi sục của mình giống như một quả cầu lửa treo lơ lửng bên trong đầu, rồi cậu lại tưởng tượng đến một tấm vải chống cháy đen kịt như bóng đêm bọc lấy quả cầu đang ngùn ngụt này. Từ trong chỗ tối hiện ra những dây, những xích quấn quanh tấm vải, buộc chặt cho đến lúc quả cầu tắt ngấm. Rồi cậu hình dung tiếp quả cầu này chìm dần vào bóng tối cho đến lúc đụng đến sàn nhà, chui vào trong một ngăn tủ bếp đầy bụi bặm, nằm ở phía sau của đầu mình. Và cậu đóng sập cánh cửa lại.

Cậu mở mắt và hít một hơi mạnh. Khá hơn rồi. Bớt hoảng loạn. Cậu biết rằng các xúc cảm còn nằm đó, nằm trong ngăn tủ, nhưng cậu không dò tìm. Cậu có thể lấy ra khi mình muốn, nhưng hiện thời cậu không chắc rằng có lúc nào đó mình muốn hay không.

“Cháu ổn chứ?”

“Cháu ổn. Ta cần phải làm gì bây giờ?”

“Ta cần khám xét cái xác, ta cần khám xét căn phòng. Chú làm việc thứ nhất, cháu làm việc thứ hai.”

“Vâng.” Cậu ngẫm nghĩ. “Tại sao cảnh sát lại cho chúng ta ở lại đây… với cái xác?”

Crowe nhướng mắt. “Vấn đề của nghề chống tội phạm là họ ưa những đáp án đơn giản. Họ phát hiện có hai người trong một căn phòng khóa kín, một người thì chết, người kia thì không. Đối với họ, câu trả lời quá đơn giản, về phần mình, chú phải thú thật là nếu chú không quen biết cậu Holmes, thì vụ việc này cũng trở nên đơn giản như thế. Tới lúc này thì họ cho rằng đã tìm ra thủ phạm. Con dao còn hơn là một chiến tích đối với họ – họ có thể vẫy cao trong phòng xử án để dọa quan tòa. Còn cái xác – đã chết rồi nên chẳng đi đâu được chỉ chờ tay bác sĩ pháp y đến để mang đi. Như thế ta còn đủ thời gian để tìm những thứ mà họ chán không muốn thấy. Thôi nhé, nói đủ rồi. Ra tay nào!”

Trong lúc Crowe mãi bận bịu ở chỗ bàn thì Sherlock bắt đầu từ một góc phòng và xem xét một cách hệ thống từng chút một. Cậu không biết mình đang tìm cái gì nên để ý đến những thứ mà cậu cho là không bình thường. Cậu kiểm tra mấy bức tường lát gỗ, mấy bức tranh treo trên đó, thậm chí cậu còn kéo một chiếc ghế từ chỗ bàn đến tận bức tường để trèo lên kiểm tra những dây buộc nối phần trên của bức tranh chạy lên tận trên trần nhà. Rồi cậu leo xuống, kiểm tra tấm thảm để xem có thứ gì rớt từ tay hoặc ví của ai đó còn mắc kẹt giữa các thớ vải không.

“Có tìm thấy thứ gì không?” Lát sau ông Crowe hỏi.

“Chưa có gì ạ,” Sherlock ngán ngẩm trả lời.

Cậu rảo khắp trong phòng, đảo mắt nhìn mọi thứ. Khi bước đến góc bàn, cậu nhận ra có một thứ gì nằm trên sàn dưới bàn: một chiếc hộp da nhỏ, nằm khuất trong bóng của cái chân bàn như thể có ai muốn giấu đi cho nhanh.

“Cháu tìm thấy cái này,” cậu kêu lên, tay kéo chiếc hộp ra và đặt lên bàn.

Ông Crowe đi vòng qua thi thể để xem Sherlock tìm được gì. Ông khám xét kĩ càng.

“Khung bằng gỗ, lót da, bản lề, khóa, bệ lót đều bằng đồng,” ông ta lầm bầm. “Chẳng có gì đặc biệt hoặc bất thường. Bệ lót không trầy, tay cầm không mòn, chứng tỏ cái này còn mới. À, nhìn chỗ tay cầm kìa – cháu có thấy có một sợi dây buộc quanh không? Có thể để buộc miếng giấy báo giá tiền. Người này, hoặc ai đó, đã giật bỏ miếng giấy đi nhưng lại quên tháo sợi dây buộc. Quả là một sơ suất.” Ông với lấy chiếc hộp và bật mở khóa. “Hộp không khóa, càng tốt cho chúng ta.” Ông ta mở chiếc hộp để Sherlock cùng nhìn vào bên trong.

Chiếc hộp được lót vải đỏ, có lẽ là lụa hay satin. Lớp lót được độn rất dày đến mức khi đóng nắp hộp lại, phần nắp và đáy của chiếc hộp sẽ ép chặt vào bất cứ món đồ gì đặt vào trong hộp.

“Thấy hai chỗ lõm trong lớp lót không?” Crowe đưa tay chỉ 2 chỗ nơi lớp độn bị ép vào, cho thấy rằng chiếc hộp đã đựng hai món đồ, nhưng Sherlock đã để ý thấy rồi. “Mờ quá nên ta khó biết hình dạng như thế nào, nhưng chúng hình như khác nhau.”

“Lớp độn quanh một trong hai chỗ lõm có màu khác,” Sherlock nhận xét. “Màu hơi đậm hơn.”

“Có thể là do bị sờn,” ông Crowe càu nhàu.

“Nhưng chiếc hộp này chỉ vừa mới mua”.

“Cái đó thì đúng.” Crowe sờ tay vào bề mặt của lớp lót. “Hơi bị ẩm. Lạ thật. Có thứ gì làm chỗ này bị ướt – có thể là một cái chai chứa chất lỏng gì đó bị rò chảy ra ngoài.”

Sherlock nhìn quanh phòng. “Cái chai chứa gì?”

“Chưa rõ. Cứ thu thập thông tin rồi tính sau.” Ông Crowe đóng nắp chiếc hộp lại và nhìn quanh phòng. “Còn những khung gỗ trên tường thì sao - có cánh cửa bí mật nào không? Có dấu hiệu nào cho thấy có khung cửa nằm bên dưới không? Hẳn có ai đã bí mật chui vào rồi đi ra khỏi phòng này.”

“Cháu cũng đã nghĩ tới điều này, nhưng trên tường không hề có bản lề hoặc chỗ nối. Cháu cũng đã thử gõ vào tường, nhưng không chỗ nào nghe âm rỗng cả.”

“Được rồi”

“Chú có muốn kiểm tra không?”

“Tại sao phải kiểm tra chứ?” ông Crowe tỏ vẻ ngạc nhiên. “Cháu có đôi mắt tinh thông, đầu óc tỉnh táo mà. Còn tấm thảm thì sao?”

“Có vẻ như được làm sạch mỗi ngày, và cháu cũng chẳng thấy có thứ gì rơi vãi lên đó ngày hôm nay cả.”

“Vậy là,” Crowe ngán ngẩm, “không có gì cả”.

“Ngoại trừ…” Sherlock chen ngang.

“Ngoại trừ cái gì?”

“Ngoại trừ một mảng nước thấm ở chỗ này trên thảm. Chỗ đó lại lạnh nữa.”

Ông Crowe quay lại, nhìn chằm chằm Sherlock. “Một cái gì?”

“Một mảng nước thấm. Có lẽ có người làm đổ ly nước.”

Crowe nhướng mày. “Thú vị đây. Ta có một chiếc hộp bên trong chứa một cái chai chứa một thứ gì đó, ta lại có một mảng nước thấm có thể do chai nước đổ ra, nhưng cái mà ta không có là cái chai, và những thứ nằm bên trong nó. Đây là điều bất thường, và chính những cái bất thường là thứ mà ta muốn có ngay bây giờ. Có cái gì không khớp ở đây.”

Sherlock không hiểu lắm. “Thế nghĩa là sao ạ?”

Người đàn ông đồ sộ nhún vai. “Chú cũng chưa biết, nhưng chú đang tập hợp các thông tin để xem xét sau, cháu cũng nên làm vậy. Còn bây giờ, tiếp tục quan sát. Khi tìm được một thứ, không có nghĩa là không còn gì để tìm nữa.”

Sherlock mất thêm mười phút nữa lục soát những chỗ còn lại trong căn phòng, nhưng khi quay lại cái góc mà cậu đã bắt đầu, Sherlock dừng lại. Dường như Amyus Crowe đã khám xong thi thể: ông đứng lùi ra và đưa mắt nhìn khắp căn phòng.

“Chú tìm thấy gì chưa?” Sherlock hỏi.

Ông Crowe nhún vai. “Vài điểm nhỏ đáng chú ý. Trước hết, người đàn ông này bị bệnh. Gần đây ông ta sụt cân khá nhanh, ông ta đang được điều trị. Chú tìm được cái này…” vừa nói ông ta đưa ra một cái chai thủy tinh nhỏ, bên trên gắn một thứ giống như nút chai xịt khi bấm xuống. “Ta nghĩ là một thứ thuốc gì đó, cần phải kiểm tra mới rõ được.”

“Cháu xem được không?” Sherlock hỏi. Ông Crowe trao nó cho Sherlock. Cái chai này bằng cỡ ngón tay cái của cậu. Cái nút ấn trên đầu chai hình như là để xịt nước ra khỏi chai qua một đầu xịt nhỏ nằm bên hông. Sherlock đưa đầu xịt lên mũi ngửi và hơi dội lại. Có điều gì đó quen thuộc về vị đắng này, nhưng cậu chưa nhớ ra.

“Quần áo thì trông giống một quí ông,” Crowe tiếp tục, “nhưng hình xăm trên cánh tay chứng tỏ điều ngược lại.”

Sherlock đút gọn lọ thủy tinh nhỏ vào túi áo và đi qua phía bên kia đứng cạnh Crowe. Người đàn ông này gầy ốm, trên má lộ ra những mạch máu xanh li ti. Đầu anh ta ngửa ra sau, hai con mắt đỏ ngầu trợn trừng nhìn lên trần nhà. Da anh ta trắng bệch, Sherlock không chắc đó là màu da tự nhiên hoặc do người này vừa mới chết.

Phần trước chiếc sơ mi anh ta mặc lấm tấm đầy máu đã khô. Phần áo vùng trước tim có một vết rách toạc: nơi mũi dao đâm vào, Sherlock căng óc suy nghĩ.

Ai là người đã cầm con dao?

Cậu nhìn gần hơn. Chỗ vết áo rách có một cái gì đó khiến cậu chú ý, nhưng còn chưa rõ đó là cái gì.

“Phát hiện ra điều gì à?” ông Crowe hỏi.

Sherlock ngần ngừ. “Cháu cố nhớ hình dạng con dao như thế nào - con dao trong tay anh Mycroft ấy mà.”

“Thú thực là chú chưa nhìn kĩ con dao đó,” ông Crowe thừa nhận.

“Cháu nhìn rồi,” Sherlock nói. “Loại dao mỏng, như dao rọc thư, nhưng chỗ rách trên áo sơ mi thì quá lớn. Lớn hơn nhiều so với con dao mà cháu nhớ đã thấy.”

“Thú vị đây.” Crowe trầm ngâm. “Chú cũng vừa nhìn qua vết thương. Khá lớn. Chú nghĩ là lưỡi dao phải to, nhưng nếu cháu nói rằng cái con dao mà cảnh sát mang đi có lưỡi hẹp… thì đây là một bất thường khác cần lời giải thích.”

“Có khi nào người này vùng vẫy?” Sherlock hỏi. “Khiến cho lưỡi dao xé rộng chỗ rách trên áo và… chỗ da bị đâm không?”

“Có thể lắm.” Ông Crowe trầm ngâm một lúc. “Ta phải làm một thí nghiệm để kiểm chứng điều này.”

“Cái gì?” Sherlock kêu lên. “Ý chú là ta phải đâm một người nào đó, và hy vọng anh ta sẽ vùng vẫy chống trả?”

Crowe phá lên cười. “Không, ý chú là ta sẽ kiếm một con heo đã bị giết, mặc cho nó một cái áo sơ-mi, rồi một trong hai chúng ta sẽ cầm con dao rọc giấy đâm nó một nhát còn người kia vừa giữ lấy cái xác vừa lắc lư qua lại. Để xem chúng ta có thể tạo ra một vết rách và một vết thương tương tự như trên người này hay không. Phỏng đoán cũng chỉ tới đây thôi – cái ta cần là thêm chứng cứ.” Ông ra dấu về phía cửa ra vào. “Cháu đi tìm tay hầu bàn Brinnell về đây. Có mấy câu ta cần hỏi cậu ta.”

Sherlock bước ra, đi vào phòng họp. Những người trong phòng khó chịu ngước nhìn khi cậu đi qua – họ đã thấy cảnh sát đến, và hiển nhiên là biết đã xảy ra một điều gì bất thường, nhưng họ cố giả vờ như mọi thứ vẫn êm ả như mọi ngày trong phạm vi của câu lạc bộ. Sherlock cố thu người và đi nhẹ nhàng hết mức có thể. Khi len lỏi qua đám ghế bành sang trọng màu xanh lá, cậu phải thú nhận rằng không biết anh mình tìm được cái gì trong câu lạc bộ này. Đây là chỗ nhàm chán nhất mà cậu từng được thấy – trừ vụ án mạng vừa qua, và cậu cho rằng câu lạc bộ Diogenes không phải là nơi thường xảy ra án mạng.

Cậu tìm thấy Brinnell đứng trong sảnh. Tay hầu bàn có vẻ lo lắng. Sherlock sắp sửa gọi anh ta quay lại Phòng dành cho khách thì Brinnell đưa ngón tay lên môi làm dấu hiệu giữ im lặng. Sherlock lấy tay chỉ Brinnell rồi chỉ ngược về phòng tiếp khách. Brinnell gật đầu. Anh ta vượt lên trước Sherlock, đi qua cầu thang đến một cánh cửa có lẽ dẫn vào khu vực nhân viên phục vụ. Một lúc sau anh ta quay lại, dẫn theo một người hầu bàn khác, người này già hơn, đầu hói nhiều hơn. Sau khi để người này đứng trong sảnh chắc là để trông chừng và không cho người lạ lai vãng hay gây ồn, Brinnell theo Sherlock quay lại phòng họp.

Ông Crowe vẫn đứng nguyên ở chỗ cũ khi Sherlock đi ra ngoài.

“Cám ơn anh đã dành cho chúng tôi ít thời gian,” ông nói với người hầu bàn khi Sherlock đóng cửa lại. “Chắc bây giờ anh đã sẵn sàng nói cho chúng tôi biết mọi thứ liên quan đến vụ án mạng chứ.”

“Quả là một sự việc chấn động,” Brinnell nói. “Thật sự chấn động.” Anh ta liếc nhìn về phía cái xác. “Và chính chúng tôi cũng cần phải làm sáng tỏ việc này.”

“Có phải anh là người dẫn quí ông đây đi tới phòng khách?”

“Vâng, chính tôi, thưa ngài.”

“Ông ta gặp anh như thế nào?”

Brinnell suy nghĩ một lúc. “Ông ta bước vào cửa chính, cũng như các quí ông. Ông ta đưa cho tôi một tấm danh thiếp. Trên mặt sau có viết tên Ngài Holmes cùng với vài chữ khác mà tôi không rõ lắm.”

“Những chữ đó là gì?”

Brinnell cau mày lại, cố nhớ. “Tôi nghĩ rằng đó là tên của một câu lạc bộ khác,” anh ta nói, “nhưng tôi không thể nhớ được đó là câu lạc bộ nào. Tôi thoáng nghĩ là quí ông này đã đi nhầm chỗ đến khi thấy được tên Ngài Holmes viết ở mặt sau tấm danh thiếp.”

Một câu lạc bộ khác. Có một điểm gì đó trong lời nói của người hầu bàn làm cho Sherlock phải chú ý. Một câu lạc bộ khác… Cậu gác lại dòng suy nghĩ để sau này sẽ đi vào chi tiết hơn.

“Tức là anh ta biết rõ phong cách của câu lạc bộ Diogenes,” Crowe chỉ ra. “Anh ta đủ biết là không nên mở lời ở đây.”

“Tôi nghĩ là anh ta biết, thưa ngài”.

“Thế sau đó anh làm gì?”

“Tôi đặt tấm danh thiếp lên một cái khay và mang vào cho Ngài Holmes. Ngài Holmes đang đứng chờ ngay chỗ này. Ngài có vẻ bực mình, như thể đang chờ ai khác chứ không phải người đàn ông này. Khó chịu, Ngài Homes trông đúng như thế. Tôi nghĩ rằng Ngài Holmes sẽ không tiếp gã này, nhưng ông ấy lật ngược tấm danh thiếp và đọc những chữ nằm ở mặt sau. Ngài Holmes dường như đổi ý và nói: “Mời ông bạn này vào, anh Brinnell.” Vì vậy tôi quay ra tìm anh ta và dẫn vào.”

“Việc này xảy ra bao lâu trước khi chúng tôi tới?”

Người hầu bàn suy nghĩ một lúc. “Không nhiều hơn 5 phút,” cuối cùng anh ta nói. “Hoặc 10 phút gì đó.”

“Có tiếng ồn hoặc lộn xộn gì không?”

“Không hề, thưa ngài.”

Crowe gật đầu. “Thế anh nghĩ gì về vị khách này? Anh có nhận xét gì không?”

Brinnell nhăn mặt. “Thưa ngài, đây không phải là việc của tôi,” anh ta ấp úng.

Crowe chìa tay ra. Một đồng nửa crown lấp lánh giữa mấy ngón tay. “Tôi đánh giá cao ý kiến của anh,” ông nói. “Ngoài chúng ta ra, không ai biết đâu.”

Brinnell ngần ngừ. “Không cần phải thế đâu,” cuối cùng anh ta lên tiếng. “Tôi quí Ngài Homes. Ông ấy lúc nào cũng tử tế với tôi. Vâng, rất tốt với tôi. Nếu ông tìm cách giúp ông ấy, thì tôi cũng rất sẵn lòng.”

“Anh tốt lắm,” Crowe nói. Nửa đồng crown biến mất khỏi bàn tay đồ sộ của ông.

“Tôi cho rằng gã này ăn diện vượt quá vị trí xã hội của mình, ngài hiểu ý tôi chứ,” người hầu bàn nói.

“Tôi hiểu chính xác hàm ý của anh, và đánh giá cao sự thành thật này.”

“Anh ta có mang theo cái gì không?” Sherlock chen ngang. Ông Crowe gật đầu. “Một câu hỏi hay đấy.”

Brinnell nhíu mày cố nhớ lại. “Tôi tin là ông ta có mang theo một cái hộp nhỏ. Tôi nhớ là tôi có bảo ông ta để lại phòng gởi áo, nhưng ông ta cứ khư khư giữ lấy như thể nó rất quí giá. Tôi nghĩ rằng ông ta cần đến nó khi gặp Ngài Holmes.

“Rất có lợi,” Crowe nói.

Cánh cửa lớn đột ngột mở toang, và một trong những viên cảnh sát có mặt lúc nãy bước vào. “Hạ sĩ Coleman muốn mời ông đến Scoland Yard để lấy lời khai.”

“Rất sẵn lòng,” Crowe đáp lời. “Tôi cũng muốn biết ông ta tiến hành điều tra như thế nào.”

“Cái gì mà điều tra?” viên cảnh sát cười, lập lại. “Không cần đâu. Chúng tôi đã bắt được kẻ phạm pháp, chắc chắn là thế.”

Viên cảnh sát dẫn họ ra khỏi phòng dành cho khách, đi ngang qua phòng họp. Khi họ đi ra, có vẻ như Brinnell muốn nói thêm điều gì, nhưng thay vào đó anh ta băng qua và đưa cho Sherlock một mảnh giấy nhỏ. Liếc vào, Sherlock thấy những chữ sau: Orville Jenkinson, Luật sư và một địa chỉ. Chắc đây là tên người luật sư mà Mycroft nhắc tới – luật sư có hợp đồng làm việc cho Câu lạc bộ Diogenes. Sherlock mỉm cười và gật đầu cám ơn Brinnel.

Ra đến bên ngoài thoáng đãng, khi viên cảnh sát sải bước đi dọc theo vỉa hè, Sherlock quay sang phía Amyus Crowe để hỏi một câu đã nung nấu trong đầu cậu suốt cả giờ qua. “Chú Crowe – nếu ta không chứng minh được là anh cháu vô tội, thì việc gì sẽ xảy ra?”

“Phải ra tòa,” Crowe trả lời dứt khoát, “và sau đó nếu có tội, ta sợ rằng cậu Holmes sẽ bị treo cổ cho đến chết.”