← Quay lại trang sách

- II -

Ở Phú Lâm thêm hai ngày nữa tôi đu xe ngựa lên Phú Thứ. Tới ga Gò Mầm, mọi xe cộ hoặc người đi bộ đều phải quay lui. Mặc dù Cách mạng đã rút lên núi nhưng lính Cộng hòa vẫn không cho ai lên, vì bom mìn còn dày đặc trên mặt đất. Thỉnh thoảng từng tiếng súng “cắt bùm” của du kích bí mật bám lại. Tôi đứng tại ga nhìn về Phú Thứ. Qua cánh đồng rộng ngút tầm mắt là xóm đầu tiên và cũng là chợ, nơi đó có nhà tôi. Ruộng đồng xanh ngát cỏ non, lác đác đây đó những cụm lúa màu vàng xám, còn sót lại sau làn xích xe tăng vằm nát, nham nhở. Chợ Phú Thú giờ gần như không còn gì, có chăng là còn đôi cây cụt ngọn cháy nám, nhà cửa thì tan hoang. Bất giác hai gò má nóng ran. Những giọt nước mắt mặn chát ngập ngừng trên cánh mũi. Con mương dẫn thủy vẫn rì rào ngày đêm, bầu trời trong xanh còn xóm làng thì tiêu điều, xơ xác, nám đen mùi thuốc súng. Chẳng thấy một cánh chim, chẳng nghe tiếng chó sủa, tiếng gà gáy trưa, lâu lâu vài tiếng “cắt bùm”, vài loạt đạn nổ còn thì im ắng đến rợn người. Phía bên trái tôi, bên kia mương dẫn thủy là cánh đồng rộng mênh mông, mờ xa những ngọn núi là Phú Nhiêu. Sau vụ gặt bọn trẻ con chúng tôi thường chơi đánh giặc giả ở cánh đồng này. Nào thằng Phú, thằng Ngọng, nào Đức lì, Khôi đen... Có cả Vân nữa. Vân làm hậu cần, chuyên tiếp tế nước uống và lương thực (lương thực ở đây là châu chấu, cào cào). Bọn con trai chơi “đánh giặc” với xóm khác thì nhỏ Vân đi rảo quanh mấy đám ruộng còn trơ gốc rạ, bắt những anh chàng châu chấu, cào cào mập cui bỏ vào bao. Cứ sau mỗi trận đánh, cả nhóm tụ lại quơ đâu đó nạm rơm đốt lên, mấy anh châu chấu cào cào quẫy rào rào trong lửa, mùi thơm bốc lên nức cả mũi, một bữa tiệc được bày ra trên mấy lá bông súng bứt ở bàu súng gần đó. Sau những trận đánh giặc giả toàn thắng, cũng có khi thua xiểng niểng, bị địch rượt chạy có cờ. Ăn tiệc xong, cả bọn lại rủ nhau nhảy ùm xuống mương, cười nói, la hét ỏm tỏi một vùng quê yên bình ngày đó.

Trời xế chiều, cứ người chạy tới kẻ quay lui. Gồng gánh, dắc díu nhau định trở về nhà. Dù nhà không còn, làng xóm không còn nhưng ai cũng muốn trở về, nhặt nhạnh những tài sản một đời chắt chiu dành dụm. Dựng lại ngôi nhà đã tan hoang bằng những thanh gỗ vương vãi, cháy đen. Lính Cộng hòa dứt khoát không cho đi, mọi người năn nỉ cũng chẳng được đành tiu nghỉu, buồn bã quay lui. Tôi đứng xớ rớ quanh quẩn ga vừa để gặp người thân, vừa để nhìn lại, nuối tiếc những ngày tháng qua của tuổi thơ, của gia đình, bạn bè làng xóm.

Ba ngày trước tôi ngỡ đã gặp lại nhỏ Vân, mừng không để đâu cho hết. Ít ra cũng như sợi dây nối lại của hôm qua và hôm nay, ít ra có một liên kết nào đó để tôi biết được mình còn những người thân hiện hữu bên cạnh, mình còn biết mình là ai, không trơ trọi trên đời này. Nhỏ Vân ấy chẳng phải là Vân của tôi ngày trước. Tôi hụt hẫng. Chiến tranh như một nhát chém sát rạt sau lưng, nó cắt đứt hết thảy mọi thứ quanh tôi. Má, anh Hà, chị Hai chưa tìm thấy, Ba, anh Sơn chẳng biết sống chết ra sao, nhà cửa, ruộng vườn đứng trơ nhìn mà không thể bước tới. Có mất mát nào hơn nỗi đau này? Tôi buồn rầu nhìn Phú Thứ mờ mờ trong sương chiều muộn, nhìn cánh đồng, nhìn dòng mương không biết đến bao giờ mới gặp lại quê hương thân yêu. Chiếc xe ngựa cuối cùng gõ lọc cọc trên đường nhựa chạy về hướng Phú Lâm. Bỏ lại sau lưng làng xóm tiêu điều không còn sự sống. Màn đêm phủ trùm cảnh vật, lâu lâu lại “ùng, oàng” những tiếng nổ, ánh chớp xé toạc đêm đen.

Về tới Phú Lâm trời đã tối không còn nhìn rõ mặt người. Đường phố, nhà cửa tối om om. Ánh sáng từ những ngọn đèn dầu trong nhà hai bên đường hắt ra cũng chỉ đủ sáng một ô nhỏ ngoài thềm hiên. Tôi định tìm lại ngôi nhà mà ngày đầu đến Phú Lâm chọn làm nơi ngủ qua đêm. Tôi mò mẫm đi mà vẫn không tìm ra. Đã bắt đầu thấy mệt, thấy đói. Ăn ổ bánh mỳ khi trưa giờ chẳng còn gì trong bụng. Hàng quán đóng cửa, tôi chặc lưỡi: “Thôi kệ, mai sớm dậy ăn cũng được”. Lại đi tiếp. Vết thương cũ nơi chân mấy hôm nay thấy đau đau, có vẻ hơi sưng không đi nhanh được. Tôi đành ngồi nghỉ bên gốc cây gì đó rất to. Ngồi một lúc tôi đưa mắt nhìn quanh, tối quá, chẳng thấy được gì, quay lui thấy sau lưng có cái miếu, hơi sờ sợ. Ngồi lâu trong bóng tối, mắt nhìn được nhiều thứ hơn. Cách chỗ tôi ngồi không xa, một chiếc xe bốn bánh đang đậu, hình như có người ngủ trên xe. Thỉnh thoảng vài tiếng ho phát ra từ đó. Tôi yên tâm tự nhủ: “Ngủ ở đây cũng được, bên mình còn có người”. Rồi đưa mắt nhìn vào trong miếu, ước lượng khoảng cách xem có đủ an toàn không. Ngộ nhỡ đêm khuya có ai đó hiện về thì chết chắc. Tôi ngã lưng xuống bên gốc cây, lá rụng dưới gốc nhiều nên nằm cũng dễ chịu. Tôi nhổm dậy cào thêm ít lá lót nằm cho êm. Đã đói khát, đã không có nhà cửa mà còn màn trời chiếu đất nữa thì buồn quá, lót nệm lá để êm lưng. Đang lui cui cào lá chợt ống chân nhói đau, rất đau. Tôi đưa tay xoa xoa ống chân, chân nóng ran, rồi cả người rất khó chịu, hầm hập sốt. Ngày còn ở trong rừng, những món nóng, lạnh thế này diễn ra như cơm bữa nên tôi cho là bình thường, không lo lắm: “Ngủ một giấc mai hết đau thôi, nằm thế này cũng được, khỏi lót lá thêm”.

Tôi lơ mơ tỉnh dậy, thấy quanh mình cái gì cũng lạ, cũng khác. Nhìn lên một màu trắng, đưa mắt nhìn qua phải, qua trái cũng một màu trắng. Tôi thất kinh, toát mồ hôi hột, thầm nghĩ: “Mình chết rồi sao?” Chỉ có chết mới thấy sự lạ lùng này. Ngày trước má hay kể chuyện, người chết khi xuống âm phủ toàn cảnh âm u ma quái, ma quỉ đứng quanh, còn lên thiên đàng cái gì cũng trắng trong, xinh đẹp mà ở trần gian không có. Như vậy tôi chết thật rồi. Thôi xong, tôi nhắm mắt lại, hai giọt nước từ từ lăn qua đuôi mắt. Thế là hết, chẳng còn gì để nghĩ ngợi nữa Hà em ơi! Mà sao lại chết nhanh thế nhỉ, mới hôm còn nằm ngủ dưới gốc cây gần cái miếu kia mà. Nghĩ tới cái miếu tôi lại rùng mình: “Đúng, ai đó đêm khuya hiện về trong miếu bắt mình rồi”. Đang lan man nghĩ ngợi thì một bàn tay đặt lên trán, tôi giật bắn người, mở mắt nhìn và không tin vào mắt mình: “Tôi lại mơ đây sao?” Người đặt tay lên trán tôi là nhỏ Vân, nhỏ Vân đánh phèng la bán thuốc dạo mà tôi mới quen hôm trước. Sao nó lại ở đây? Không thể có chuyện lạ đời như vậy được. Tôi chống tay định ngồi dậy hỏi cho ra lẽ thì lại ngã bật ra vì cái chân đau buốt không thể co lên. Chợt một tiếng nói khác, giọng ồm ồm, dù rất khẻ nhưng rõ:

- Cứ nằm cho khỏe, cháu còn yếu lắm không cần ngồi dậy đâu.

Tôi cố ngước lên nhìn người vừa nói, thấy quen quen, hình như ba của Vân. Tôi đã tỉnh lại phần nào nhưng vẫn chẳng hiểu điều gì đang xảy ra. Chú Lộc (ba Vân) lại nói:

- Cháu nằm bất tỉnh gần nơi chú đậu xe...

Nhỏ Vân liến thoắng:

- Nên ba mình chở bạn vô nhà thương, may mà bạn không sao. Mình lo...

Tôi bình tỉnh trở lại và dần hiểu ra mọi chuyện. Vết thương nơi chân ngày trước tái phát, tôi bị nhiễm trùng, sốt cao đến mê man. Đêm ấy nằm ngủ dưới gốc cây, và may mắn làm sao xe của nhà Vân lại đậu gần đó. Mấy ngày đầu mê sảng, Thầy thuốc gắp viên đạn trong chân ra và hôm nay tôi mới thật sự tỉnh táo. Vân lấy cam trên tủ ở đầu giường lột vỏ, bóc ra từng múi đưa vào miệng tôi, chú Lộc nhìn Vân, nói:

- Con ở lại chơi với nó, ba về.

- Dạ, trưa ba khỏi qua. Hà em tỉnh rồi, trưa con mua cháo cho bạn ấy.

- Ừ.

Tôi có mơ không, nhỏ Vân ở lại chăm sóc cho tôi? Tôi đem niềm vui này hỏi Vân:

- Bạn ở đây với mình sao?

- Không phải mới hôm nay đâu. Mình ở đây từ lúc ba đưa bạn vào nhà thương kìa.

Tôi ngạc nhiên vô cùng. Hai đứa mới quen mà Vân tốt quá. Tôi nói:

- Mình mang ơn bạn nhiều lắm. Rồi bạn ở đây ai đánh phèng la và diễn?

- Mẹ mình. Mẹ giỏi lắm, cái gì cũng biết, hát hay nữa.

- Hôm bữa nghe cô hát rồi. Hay đến nỗi mình sắp khóc luôn, còn hôm ấy chỉ thấy bạn uốn dẻo, chưa nghe bạn hát.

- Mình hát Hà em nghe nha, mà hát nho nhỏ thôi đấy.

Vân hát tích Phạm Công Cúc Hoa, đoạn Nghi Xuân nhớ mẹ. Vân hát hay quá, hay không thua gì cô Lộc mẹ Vân. Giọng nhỏ trong veo, mang tâm trạng nhớ cha ngoài chiến trường, nhớ mẹ không còn trên đời, hai con bơ vơ nơi đầu ghềnh cuối bãi. Vân hát càng lúc càng tha thiết, như muốn thay tôi nói lên nỗi lòng u uẩn của mình. Tôi không khóc nhưng nước mắt cứ ướt nhòe đôi má. Trong phòng nhà thương chỉ chừng năm người, ai cũng nhổm dậy lắng nghe Vân hát. Bài hát đã kết thúc mà mọi người cứ ngẩn ngơ, thừ người ra như còn thấy lắng đọng dư âm đâu đó, tôi cũng vậy. Một lúc sau, tiếng vỗ tay rào rào, bác gái nằm gần đó giọng còn đầy xúc động, nói:

- Cô nhỏ này hát hay quá. Nhìn hai đứa giống Nghi Xuân Tấn Lực ghê.

Một chú ở góc phòng lên tiếng:

- Cô nhỏ, cháu ở đoàn cải lương à, hát hay quá!

Tôi thật sự xúc động và tự hào vì có nhỏ bạn mới quen giỏi thế. Vân đang ngồi ở mé giường, tôi đưa tay cầm tay nó, thấy tay tôi chỉ âm ấm, không còn sốt nữa, Vân nói:

- Hà em hết sốt rồi nè.

- Mình sẽ không quên ngày hôm nay. Mình luôn nhớ tình bạn của chúng ta.

Tôi thật sự xúc động, bóp mạnh tay nhỏ:

- Ái, đau tay Vân đấy!

Dù ở hoàn cảnh nào, tôi cũng thấy mình thật hạnh phúc.

Sáng hôm ấy tôi đã kể cho nhỏ Vân nghe về gia đình, về chiến tranh, về những ngày lưu lạc, về những người bạn, về nhỏ Vân ở trên quê và sự nhầm lẫn hôm gặp đầu tiên. Vân ngồi nghe mà lòng đầy thương cảm. Lần này Vân bóp mạnh tay tôi như động viên, như an ủi, như thầm bảo với tôi rằng: “Cố gắng lên, mạnh mẽ lên, rồi sẽ gặp ba má, các anh chị, Vân sẽ luôn bên cạnh Hà em”. Vân cho biết, trước kia nhà ở Diên Khánh Nha Trang, Vân có người anh hơn hai tuổi chết trong chiến tranh năm sáu lăm. Ngày đó cả nhà Vân đều ở trong đoàn hát, khi anh chết ba buồn nên ra khỏi đoàn luôn. Giờ thì đi hát rong, bán thuốc dạo. Mất mát nào cũng đau lòng cho những người ở lại. Chiến tranh đã đẩy những người cùng khổ xích lại gần với nhau hơn. Tôi chia sẻ với Vân:

- Mình không căm ghét ai cả, mình chỉ căm ghét chiến tranh, ghét những người tạo ra nó, nó đã làm tan nát gia đình mình, xóm làng mình và mất đi người anh của Vân nữa.

Vân không nói gì, cúi xuống gạch gạch từng đường hằn sâu trên tấm nệm giường, khác với nhỏ Vân ở quê ngày ấy. Ngày ấy tôi cũng nói ghét chiến tranh, nhỏ Vân nhìn tôi: Hà em sao hung thế?” nhưng lúc đó chiến tranh chỉ mom mem đến làm bọn tôi không được chạy chơi nhiều, không được sống vô tư, suốt ngày cứ nơm nớp, phập phồng lo sợ và lúc đó, chiến tranh chưa cướp đi của chúng tôi người thân, làng xóm. Còn giờ đây... Tôi căm ghét!