← Quay lại trang sách

PHẦN 2 CHƯƠNG 19

Ngày hôm đó thật mát mẻ, với một cơn gió xuân mạnh mẽ chứa đầy bụi. Tất cả những phụ nữ lớn tuổi của hai gia đình đã cởi bỏ những chiếc áo lông chồn bạc màu và khăn lông chồn màu vàng, và mùi long não từ những hàng băng ghế phía trước trong nhà thờ hầu như làm át đi hương vị mùa xuân thoang thoảng của những bông huệ tây chất đống trên bệ thờ.

Newland Archer, theo dấu hiệu của người trông nom nhà thờ, đã ra khỏi phòng thay đồ và ngồi với phù rể trên bậc thềm ở thánh đường của nhà thờ Grace.

Dấu hiệu đó có ý nghĩa rằng cỗ xe độc mã chở cô dâu và cha cô đã xuất hiện. Nhưng chắc chắn vẫn còn một khoảng thời gian đáng kể để điều chỉnh và trao đổi trong sảnh, nơi những phù dâu đã sẵn sàng bay lượn như một đám hoa trong lễ Phục sinh. Trong suốt khoảng thời gian không thể tránh khỏi này, chú rể, để chứng minh cho sự háo hức của mình, buộc phải tự phô bày một mình trước cái nhìn của đám đông tụ tập. Archer đã cam chịu trải qua nghi lễ này cũng như tất cả những thứ đã biến đám cưới ở New York vào thế kỷ XIX thành một nghi lễ mà có vẻ thuộc về thuở ban đầu của lịch sử. Mọi thứ đều dễ dàng ngang nhau - hoặc vất vả ngang nhau, tùy theo người ta đánh giá - trên con đường mà anh chấp nhận bước đi, anh đã ngoan ngoãn phục tùng những mệnh lệnh bối rối của người phù rể cũng như những chú rể khác đã tuân theo anh, trong những ngày anh hướng dẫn họ qua cái mê cung tương tự.

Cho đến nay, anh khá chắc chắn về việc đã hoàn thành những nghĩa vụ của mình. Tám bó hoa tử đinh hương trắng và hoa lan chuông của các cô phù dâu đã được gửi đến đúng giờ, cũng như những khuy tay áo màu vàng và sapphire của tám phù rể và cái nơ cổ màu mắt mèo của người phù rể. Archer đã ngồi suốt đến nửa đêm để cố gắng thay đổi cách diễn đạt lời cảm ơn cho những món quà cuối cùng từ những người bạn và những người tình cũ. Tiền thù lao cho Đức giám mục và mục sư đã an toàn trong túi của người phù rể. Hành lý của anh đã ở nhà bà Manson Mingott, nơi tiệc cưới được tổ chức, và những bộ đồ du lịch mà anh muốn thay cũng đã ở đó. Một toa tàu riêng cũng đã được đặt chỗ để mang đôi bạn trẻ đến một nơi bí mật - việc giấu giếm về địa điểm diễn ra đêm tân hôn là một trong những điều bí mật thiêng liêng của nghi thức tiền sử.

- Có nhẫn chưa? - chàng Van der Luyden Newland trẻ tuổi, người thiếu kinh nghiệm trong bổn phận của một phù rể và sợ hãi bởi sức nặng của trách nhiệm này, thì thầm nói.

Archer làm một cử chỉ mà anh đã thấy quá nhiều chú rể làm: anh đưa bàn tay phải không đeo găng sờ vào túi chiếc áo khoác màu xám đen, và đảm bảo rằng chiếc nhẫn vàng nhỏ (được khắc bên trong hàng chữ: Newland trao May. Tháng Tư…, năm 187…) vẫn ở chỗ của nó; rồi khôi phục lại tư thế cũ, tay trái nắm chặt cái mũ chóp cao và đôi găng tay màu xám ngọc trai với những mũi thêu đen, anh đứng nhìn về phía cửa nhà thờ.

Ở trên cao, hành khúc của Handel[81] nổi lên kiêu hãnh qua mái vòm giả đá, mang theo trong từng đợt sóng nhạc hình ảnh mờ ảo của nhiều đám cưới, mà với sự bàng quan thú vị, anh từng đứng trên bậc thánh đường này để xem những cô dâu khác lướt đi trên chính điện về phía những chú rể của họ.

“Sao mà giống đêm đầu tiên ở rạp hát thế!” - anh nghĩ, nhận ra tất cả những khuôn mặt quen thuộc trong những lô quen thuộc (không phải, những hàng ghế), và tự hỏi liệu bà Selfridge Merry với những chiếc lông đà điểu cao ngất trên mũ nồi và bà Beaufort với đôi hoa tai kim cương và nụ cười quen thuộc có ở đó khi tiếng kèn vang lên không - và liệu những chỗ ngồi phía trước thích hợp có được chuẩn bị sẵn sàng cho họ trong một thế giới khác.

Sau đó vẫn còn có thời gian để xem xét, từng người một, những vẻ mặt quen thuộc ở hàng đầu. Những người phụ nữ với sự tò mò và hứng thú rõ rệt, vẻ bực bội của những người đàn ông với nghĩa vụ mặc áo choàng dài trước bữa trưa, và phải giành nhau thức ăn tại tiệc cưới.

“Thật quá tệ khi tiệc cưới tổ chức tại nhà bà Catherine”, chú rể có thể nghĩ ra lời nói của Reggie Chivers. “Nhưng nghe nói Lovell Mingott đã đòi để cho đầu bếp của ông ta nấu nó, vì vậy có lẽ nó sẽ ngon nếu ông ta có thể chạm vào nó.” Và anh có thể tưởng tượng Sillerton Jackson nói thêm với uy tín của mình: “Bạn thân mến, anh đã nghe chưa? Nó sẽ được phục vụ trên những chiếc bàn nhỏ, theo kiểu Anh mới”.

Đôi mắt Archer nấn ná một lúc trên hàng ghế bên trái, nơi mẹ anh, người đã khoác tay ông Henry Van der Luyden vào nhà thờ, ngồi sụt sịt khóc dưới chiếc mạng che mặt Chantilly, tay bà đeo đôi găng lông chồn được truyền lại từ người bà của bà.

“Janey tội nghiệp!”, anh nghĩ, nhìn vào em gái, thậm chí bằng việc ngó nghiêng xung quanh cô cũng chỉ có thể thấy những người ở vài hàng ghế đầu; và họ hầu như là những người nhà Newland và Dagonet ăn mặc không đúng mốt.

Ở phía này của sợi ruy băng trắng chia những chỗ ngồi dành cho hai gia đình, anh thấy Beaufort, cao và mặt đỏ gay,

đang chăm chú nhìn những người phụ nữ với ánh mắt kiêu căng. Ngồi cạnh ông là bà vợ, với bộ đồ da lông sóc và hoa violet. Và phía bên kia dải ruy băng, cái đầu chải bóng mượt của Lawrence Lefferts dường như làm nhiệm vụ canh gác cho vị thần vô hình của “Hình thức đẹp” mà đang chủ trì buổi lễ.

Archer tự hỏi có bao nhiêu nhược điểm mà đôi mắt sắc bén của Lefferts sẽ phát hiện ra trong nghi lễ vị thần của anh. Rồi anh đột nhiên nhớ lại rằng, anh cũng từng coi những vấn đề đó là quan trọng. Những điều từng quen thuộc với anh giờ có vẻ như những thứ được nhai đi nhai lại trong nhà trẻ, hay như cuộc cãi nhau của những giáo sư thời Trung cổ về những thuật ngữ siêu hình mà không ai hiểu được. Một cuộc tranh luận dữ dội để xem liệu những món quà cưới có nên được “trưng ra” hay không đã làm u ám thêm những giờ cuối cùng trước đám cưới. Archer dường như không thể hiểu được sao những người lớn lại tự gây ra cuộc tranh cãi với những chuyện nhỏ mọn này, và vấn đề đã được quyết định (một cách tiêu cực) bởi lời nói của bà Welland, với những giọt nước mắt căm phẫn: “Tôi nên để những phóng viên được tự do trong nhà mình ngay lập tức”. Tuy nhiên có lúc Archer đã có những ý kiến khá gay gắt và rõ ràng về tất cả những vấn đề đó, mọi thứ liên quan đến phong tục và tập quán của cái gia tộc nhỏ bé của anh dường như có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.

“Mình cho rằng, suốt thời gian này”, anh nghĩ, “những con người thực đang sống ở đâu đó, và những điều thực đang xảy ra với họ…”.

- Họ đến rồi! - phù rể thì thào vui vẻ; nhưng chú rể biết rõ hơn nhiều.

Cánh cửa nhà thờ mở ra cẩn thận như thế chỉ có nghĩa rằng ông Brown, người chủ chuồng ngựa cho thuê (thỉnh thoảng mặc áo đen trong vai trò làm người trông nom nhà thờ), đến quan sát quang cảnh trước khi đưa dẫn lực lượng của ông vào. Cánh cửa lại nhẹ nhàng đóng lại; rồi sau một lúc nữa nó uy nghi mở toang ra, và một tiếng rì rầm xuyên khắp nhà thờ: “Gia đình đến!”

Bà Welland đi đầu, khoác tay người con trai cả. Khuôn mặt to lớn hồng hào của bà trang nghiêm một cách thích hợp, bộ sa-tanh màu mận chín với những ô vải cạnh bên màu xanh nhạt và cái mũ nồi sa-tanh nhỏ nhắn cắm những chiếc lông chim của bà được mọi người tán đồng. Nhưng trước khi bà trịnh trọng ngồi xuống với một tiếng sột soạt trong hàng ghế đối diện bà Archer, những khán giả đã nghển cổ lên để xem ai đi sau bà. Những lời đồn lung tung đã được truyền đi khắp nơi ngày hôm trước rằng bà Manson Mingott, dù những khiếm khuyết về thể chất, đã quyết tâm có mặt tại buổi lễ. Và ý định đó quá hợp với tính can đảm của bà đến nỗi những lời đánh cuộc liệu bà có thể bước lại gần gian giữa của giáo đường và chen được vào một chỗ ngồi đã lan nhanh khắp các câu lạc bộ. Có tin rằng bà đã đòi cử thợ mộc của mình đến xem xét khả năng tháo dỡ miếng ván đằng sau của dãy ghế đầu, và đo khoảng cách giữa mặt ghế và phía trước. Nhưng kết quả thật đáng chán; trong một ngày lo lắng, gia đình bà đã chứng kiến bà tính toán kế hoạch đi vào gian giữa giáo đường trên chiếc ghế lăn khổng lồ của mình và ngự trên nó ở chân thánh đường.

Ý tưởng về sự xuất hiện kỳ quái này đã gây phiền lòng những người thân của bà, đến nỗi họ có thể dát vàng lên bất kỳ con người khôn khéo nào đột nhiên tiết lộ rằng cái ghế quá rộng để đi qua giữa hai trụ sắt của mái hiên kéo dài từ cửa nhà thờ đến đá lát lề đường. Việc bỏ đi mái hiên, phơi bày cô dâu trước đám đông thợ may và phóng viên báo chí đang tranh nhau phía ngoài để lại gần mối nối của vải bạt, vượt quá ngay cả lòng can đảm của cụ Catherine, dù có lúc bà đã cân nhắc khả năng này. “Sao, họ có thể chụp một tấm ảnh của con bé và đăng nó lên báo!”. Bà Welland thốt lên khi kế hoạch cuối cùng của mẹ bà được gợi ra với bà; và từ sự khiếm nhã không thể tưởng tượng này toàn gia tộc đều rùng mình rút lui. Bà cụ đã phải nhượng bộ. Nhưng sự nhượng bộ ấy chỉ được đánh đổi bởi lời hứa rằng tiệc cưới sẽ được diễn ra dưới mái nhà của bà, dù (như họ hàng của bà ở Quảng trường Washington đã nói) vì ngôi nhà của gia đình Welland ở gần họ hơn nên thật khó chịu khi phải trả một giá đặc biệt cho Brown để đưa người ta đến một nơi xa xôi hẻo lánh.

Dù tất cả những việc này đã được nhà Jackson thông báo rộng rãi, một số ít người ngoan cố vẫn bám vào niềm tin rằng cụ bà Catherine sẽ xuất hiện ở nhà thờ, và nhiệt độ giảm xuống rõ rệt khi người ta nhận thấy bà đã được thay thế bởi cô con dâu của bà. Phu nhân Lovell Mingott có vẻ mặt cao ngạo và cái nhìn lạnh lùng như những người phụ nữ có độ tuổi và vóc người giống bà khi mặc một bộ đồ mới. Nhưng ngay khi sự thất vọng về việc mẹ chồng bà không xuất hiện lắng xuống, người ta đồng ý rằng tấm mạng che Chantilly đen trên bộ sa-tanh màu tía nhạt của bà, với chiếc mũ nồi đính những bông violet Parma, đã tạo nên sự đối lập khéo léo nhất với màu mận chín và xanh da trời của phu nhân Welland. Thật khác xa với họ là ấn tượng được tạo ra từ người phụ nữ gầy gò và yểu điệu đang khoác tay ông Mingott theo sau đó, với vẻ lôi thôi rối bời bởi những sọc vằn, tua đai và khăn quàng bồng bềnh. Khi sự xuất hiện cuối cùng này đi vào tầm mắt Archer, trái tim anh đau nhói và ngừng đập.

Anh đã tưởng rằng nữ Hầu tước Manson vẫn ở Wash- ington, nơi bà đã đến khoảng bốn tuần trước với cháu gái là Madame Olenska. Mọi người đều cho rằng họ rời đi đột ngột là do Madame Olenska muốn tách cô mình khỏi tài hùng biện tai họa của tiến sĩ Agathon Carver, người đã gần như thành công trong việc tuyển bà như một thành viên mới của Thung lũng tình yêu. Trong hoàn cảnh ấy không ai nghĩ rằng hai người phụ nữ này sẽ quay về dự đám cưới. Archer đứng nhìn chằm chằm vào hình dạng kỳ quái của Medora một lúc, căng thẳng chờ xem ai đi sau bà. Nhưng cuộc diễu hành nhỏ đã kết thúc, vì những thành viên khác trong gia đình đã lấy chỗ. Tám phù rể phụ cao ráo, tụ họp nhau lại như lũ chim hay côn trùng đang chuẩn bị cho những kế hoạch di trú, đã sẵn sàng băng qua những cánh cửa cạnh để vào trong sảnh đường.

- Newland… Này, cô ấy đến rồi! - người phù rể thì thầm.

Archer giật mình thức tỉnh.

Rõ ràng một lúc lâu đã trôi qua từ lúc trái tim anh ngừng đập, vì cuộc diễu hành hạnh phúc và vui vẻ trong thực tế đã đi được một nửa vào giáo đường. Giám mục, mục sư và hai người trợ giáo đeo cánh trắng đang lượn quanh bệ thờ chất đầy hoa, những thanh âm đầu tiên của bản giao hưởng Spohr[82] đang trải những nốt nhạc như cánh hoa trước cô dâu.

Archer mở mắt (nhưng chúng có thực sự đã nhắm không, như anh tưởng?), và anh cảm thấy trái tim bắt đầu hồi phục lại nhiệm vụ thường lệ của nó. Âm nhạc, mùi hương của những đám hoa huệ tây trên bệ thờ, hình ảnh của đám mây vải tuyn và hoa cam đang trôi càng lúc càng gần hơn, hình ảnh khuôn mặt bà Archer đột nhiên run lên những tiếng nức nở hạnh phúc, tiếng rì rầm giữ phúc nho nhỏ trong giọng nói của mục sư, đội hình trật tự của tám cô phù dâu váy hồng và tám phù rể áo đen. Tất cả những cảnh tượng, âm thanh và cảm giác này, bản thân chúng quá quen thuộc nhưng lại xa lạ một cách khó tả và vô nghĩa trong sự liên hệ mới của anh với chúng, đang xáo trộn mơ hồ trong trí óc anh.

“Chúa ơi”, anh nghĩ, “mình đã có nhẫn chưa?”, và một lần nữa anh lại thực hiện cái động tác bối rối của một chú rể.

Rồi, trong khoảnh khắc, May đã ở bên anh, vẻ lộng lẫy tỏa ra từ cô đã truyền hơi ấm nhẹ nhàng đến tình trạng tê cóng của anh, anh đứng thẳng người và cười với cô.

- Các bạn thân mến, chúng ta cùng nhau tụ họp nơi đây.

- Mục sư bắt đầu…

Chiếc nhẫn đã đeo trên tay cô, lễ giáng phúc của Giám mục đã được thực hiện, những cô phù dâu đã ngay ngắn quay lại vị trí trong đoàn diễu hành, và tiếng đàn ống đang chỉ ra những dấu hiệu mở đầu của hành khúc Mendelssohn[83], mà không có cặp đôi mới cưới nào ở New York từng thoát khỏi.

- Tay anh… này, đưa tay anh cho cô ấy! - Chàng Newland lo lắng rít lên; và một lần nữa Archer bỗng nhận thấy mình đang lênh đênh trôi giạt đến một nơi xa xôi chưa hề biết đến. Điều gì đã đưa anh đến đó? Anh tự hỏi. Có lẽ là một cái nhìn, trong số những khán giả vô danh trong cánh ngang, của một mớ tóc sẫm màu dưới một chiếc mũ, một lát sau lộ ra là thuộc về một phụ nữ vô danh với chiếc mũi dài, không hề giống hình ảnh đã khiến anh băn khoăn liệu mình có đang bị ảo giác.

Và giờ anh và vợ đang bước đi chậm chạp xuống giáo đường, tiến về phía trước trong giai điệu nhẹ nhàng của Men- delssohn. Ngày xuân vẫy tay ra hiệu cho họ qua cánh cửa rộng mở, cỗ xe ngựa màu hạt dẻ của bà Welland, với những huy hiệu lớn màu trắng ở mặt trước, chồm đến và có mặt tại đầu kia dưới mái hiên.

Người gia nhân có một chiếc huy hiệu còn to hơn trên ve áo, khoác áo choàng trắng của May lên mình cô, và Archer nhảy vào trong cỗ xe độc mã bên cạnh cô. Cô quay lại anh với nụ cười hoan hỉ và tay họ siết chặt dưới mạng che của cô.

- Em yêu! - Archer nói - và đột nhiên cái vực sâu đen ngòm quen thuộc toác ra trước anh và anh thấy mình chìm vào trong đó, càng lúc càng sâu, khi giọng anh huyên thuyên đều đều và hớn hở - Ừ, dĩ nhiên anh đã nghĩ là mình đã làm mất chiếc nhẫn; không đám cưới nào trọn vẹn nếu chú rể không hoàn thành nó. Nhưng em đã bắt anh chờ, em biết đấy! Anh đã có thời gian để nghĩ về mọi điều khủng khiếp có thể xảy ra.

Cô làm anh ngạc nhiên bằng cách quay lại và vòng tay quanh cổ anh ở ngay Đại lộ Năm đông đúc.

- Nhưng giờ thì sẽ không có chuyện gì xảy ra, đúng không nào, anh Newland, khi mà chúng ta được ở bên nhau?

Mọi chi tiết của ngày hôm đó đã được tính toán cẩn thận đến nỗi cặp vợ chồng trẻ, sau bữa tiệc cưới, đã có dư thời gian để thay bộ đồ du lịch, đi xuống thang gác rộng nhà Mingott giữa những cô phù dâu tươi cười và những bậc cha mẹ đang khóc lóc, rồi đi vào cỗ xe độc mã dưới cơn mưa gạo và dép sa-tanh truyền thống. Vẫn còn nửa tiếng để đánh xe đến nhà ga, mua những tờ báo cuối tuần còn lại tại quầy sách với dáng vẻ của những người đi du lịch dày dạn, ngồi vào toa tàu được đặt trước mà cô hầu của May đã đặt vào đó chiếc áo choàng du lịch màu xám xanh óng và hộp đựng trang sức mới bóng bẩy từ London của cô.

Những bà bác già cả họ du Lac ở Rhinebeck đã sắp xếp nhà của họ cho cặp đôi mới cưới, với thiện chí được thôi thúc bằng viễn cảnh được trải qua một tuần ở New York với bà Archer. Và Archer, vui mừng thoát khỏi những dãy buồng tân hôn của các khách sạn ở Philadelphia hay Baltimore, chấp nhận việc này với một sự sốt sắng như vậy.

May thích thú với kế hoạch đi về miền quê, và buồn cười với những nỗ lực vô ích của tám cô phù dâu khi muốn khám phá ra nơi ẩn dật bí mật của họ. Việc cho người khác mượn căn nhà nông thôn của mình được coi là “rất Anh”, và điều này đã tạo ra sự khác biệt cuối cùng của thứ mà được mọi người công nhận là một đám cưới lộng lẫy nhất trong năm. Nhưng địa điểm căn nhà thì không ai được phép biết, trừ bố mẹ cô dâu chú rể, mà khi được tra hỏi thông tin, họ mím môi và bí mật nói: “Ôi, chúng không nói với tôi…” mà rõ ràng là đúng, vì họ không cần phải làm vậy.

Khi họ đã yên vị ở trong toa, và con tàu thoát khỏi những rừng cây ngoại ô bất tận, đã lao vào bức tranh phong cảnh nhẹ nhàng của mùa xuân, cuộc nói chuyện trở nên dễ dàng hơn Archer tưởng. May, trong vẻ ngoài và giọng nói, vẫn là cô gái đơn giản của ngày hôm qua, háo hức trao đổi với anh về những sự kiện ở đám cưới, và vô tư bàn luận chúng như một cô phù dâu nói chuyện đó với một phù rể phụ. Ban đầu, Archer đã tưởng rằng sự vô tư này là để che giấu vẻ run rẩy bên trong; nhưng đôi mắt trong sáng của cô chỉ tiết lộ sự ngây thơ yên bình nhất. Lần đầu tiên, cô ở một mình với chồng, nhưng chồng cô chỉ là người bạn tình quyến rũ của ngày hôm qua. Quả thực, không ai khiến cô yêu nhiều như thế, không ai khiến cô tin tưởng hoàn toàn như thế, và “niềm vui” lớn nhất của toàn chuyến phiêu lưu trong cuộc đính hôn cũng như đám cưới thú vị này là được ở bên anh trên một chuyến đi, như một người lớn, như một “phụ nữ đã có chồng”.

Thật tuyệt vời khi - như anh đã nhận thấy ở vườn Mission tại St Augustine - những ý nghĩ sâu sắc này có thể đồng thời tồn tại với sự thiếu vắng trí tưởng tượng. Nhưng anh nhớ, ngay cả khi đó, cô đã làm anh ngạc nhiên như thế nào khi quay trở lại là một cô gái không biểu cảm ngay khi lương tâm cô đã trút bớt được gánh nặng. Anh thấy rằng có lẽ cô sẽ trải qua cuộc đời bằng cách đối phó với những việc xảy ra bằng khả năng tốt nhất của cô, nhưng không bao giờ dự đoán trước hay tìm hiểu chúng bằng cách liếc trộm.

Có lẽ sự ngây thơ là thứ khiến mắt cô mang vẻ trong sáng, và khuôn mặt cô dường như đại diện cho một kiểu mẫu hơn là một người. Như thể cô đã được chọn để làm mẫu cho một công dân đức hạnh hay một nữ thần Hy Lạp. Dòng máu nóng đang chảy gần làn da trắng trẻo của cô có lẽ là một chất lỏng bảo quản hơn là một nguyên tố hủy hoại. Tuy nhiên vẻ trẻ trung bền vững của cô khiến cô có vẻ không khắc nghiệt cũng không buồn tẻ, mà chỉ mộc mạc và thuần khiết. Trong suy nghĩ sâu xa này, Archer đột nhiên thấy mình đang nhìn cô với cái nhìn ngạc nhiên của một người lạ, đang ngập chìm vào sự hồi tưởng về bữa tiệc cưới cùng niềm vui của cụ bà Mingott.

May thực sự thích thú với chủ đề này.

- Tuy vậy, em đã ngạc nhiên - anh có thế không? - rằng dì Medora cuối cùng cũng đến. Ellen đã viết rằng họ đều không khỏe để quay về. Em ước gì chính chị ấy mới là người bình phục! Anh có thấy cái đăng-ten cũ thanh tú chị ấy gửi cho em chưa?

Anh đã biết thời điểm này sớm hay muộn cũng đến, nhưng anh đã phần nào nghĩ rằng nhờ sức mạnh của ý chí anh có thể tránh xa nó.

- Có… anh… không, nó đẹp lắm! - Anh nói, nhìn cô mù quáng, và tự hỏi bất cứ khi nào anh nghe hai âm tiết này, liệu cả cái thế giới đã được xây dựng cẩn thận của anh có đổ nhào xuống quanh anh như một trò chơi xếp nhà không.

- Em có mệt không? Khi đến nơi chúng ta sẽ uống chút trà - anh chắc rằng các bác đã chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng - anh nói tiếp, nắm lấy tay cô. Tâm trí cô ngay lập tức nhớ đến bộ đồ uống trà và cà phê Baltimore rất đẹp mà nhà Beaufort đã gửi, nó rất hợp với những cái khay và món ăn thêm quá hoàn hảo của cậu Lovell Mingott.

Trong ánh hoàng hôn mùa xuân, con tàu dừng lại ở ga Rhinebeck, và họ đi dọc theo sân ga đến cỗ xe ngựa đang chờ sẵn.

- Ôi, nhà Van der Luyden thật tốt quá - họ đã gửi người của họ đến từ Skuytercliff để gặp chúng ta - Archer thốt lên, khi một người không mặc chế phục khoan thai tiến về phía họ và giúp cô hầu gái xách những túi hành lý.

- Thật đáng tiếc, thưa ông - phái viên này nói - rằng có một tai nạn nhỏ đã xảy ra ở nhà các Miss du Lac: một lỗ thủng ở thùng chứa nước. Nó xảy ra hôm qua, ông Van der Luyden, nghe được tin vào sáng nay, đã cử một người giúp việc đến bằng chuyến tàu sớm để dọn dẹp căn nhà của người điền chủ. Tôi nghĩ ông sẽ nhận thấy nó khá thoải mái, thưa ông; và các Miss du Lac cũng đã gửi đầu bếp của họ đến, vì thế nó sẽ giống hệt như thể đang ở Rhinebeck.

Archer ngây ra nhìn người đang nói khiến anh ta lặp lại trong một giọng biết lỗi hơn:

- Nó sẽ giống hệt, thưa ông, tôi bảo đảm thế. Và giọng nói háo hức của May cất lên:

- Giống như ở Rhinebeck? Ngôi nhà của điền chủ? Nhưng nó sẽ tốt hơn gấp trăm nghìn lần - phải không, Newland? Ông Van der Luyden thật quá tốt bụng và đáng mến khi nghĩ đến nó.

Khi họ đánh xe đi, cô hầu ngồi bên cạnh người đánh xe, những chiếc túi của cô dâu sáng bóng ở chỗ ngồi phía trước họ, May tiếp tục một cách thú vị.

- Chỉ trong tưởng tượng thôi, em chưa bao giờ ở trong đó, còn anh? Nhà Van der Luyden trưng nó ra cho quá ít người. Nhưng hình như họ đã mở nó cho Ellen, và chị ấy đã kể với em đó là một nơi nhỏ bé đáng yêu: chị ấy nói đó là ngôi nhà duy nhất ở Mỹ mà chị ấy có thể cảm thấy hạnh phúc khi sống trong đó.

- Ồ, đó là điều mà chúng ta sắp có, đúng không? - Chồng cô thốt lên vui vẻ và cô trả lời với nụ cười trẻ thơ:

- Ôi, may mắn của chúng ta chỉ mới bắt đầu - vận may tuyệt diệu mà chúng ta sẽ luôn có cùng nhau!