Mở đầu LÀN SÓNG JEFFERSON NƯỚC MỸ, 1992-1993
Nếu Jefferson đã sai, nước Mỹ đang sai .
Nếu nước Mỹ đang đúng, Jefferson đã đúng .
JAMES PARTON ( 1874)
⚝ ✽ ⚝
Bạn có thể cho tay vào túi mình, lấy ra một đồng 5 xu và nhận thấy trên đó hình ảnh ông đang nhìn vào khoảng không xa xăm - như những người bạn phe tự do của tôi lưu ý, luôn nhìn sang trái. Bạn có thể tới Charlottesville, Virginia, và nhìn thấy bức tượng toàn thân của ông ở ngôi trường do ông thiết kế, sau đó đi vài dặm lên đỉnh núi ghé thăm ngôi biệt thự và là linh hồn của ông tại Monticello. Nếu đó là năm 1993, bạn có thể men theo sông James xuống Williamsburg, tuyến đường ông thường đi lại nhiều lần thời trẻ, và sẽ nhìn thấy một bức tượng toàn thân khác của ông trong khuôn viên trường Đại học William & Mary, là món quà gần đây từ trường đại học do ông thành lập gửi đến trường đại học nơi ông tốt nghiệp, bức tượng nhìn sang bên phải - như những người bạn phe bảo thủ của tôi để ý - hình như đang chăm chú quan sát những người ra vào ký túc xá nữ cạnh đó. Bạn có thể đi về phía bắc ra khỏi khu vực Tidewater, qua những nơi từng là chiến trường thời Nội chiến - Cold Harbor, Chancellorsville, Fredricksburg - nơi binh sĩ cả hai phe Liên minh và Liên bang đều tin rằng họ đã chiến đấu nhân danh di sản của ông. Rồi bạn có thể băng qua sông Potomac từ Virginia tới quận Columbia, và thấy Đài tưởng niệm ông trên Tidal Basin, trong tư thế nhìn thẳng về phía trước, với những bức phù điêu trên tường đá cẩm thạch bao quanh, tái hiện các tuyên ngôn đầy cảm hứng của ông về quyền tự do cá nhân. Hoặc nếu bạn có tình cảm với miền Tây nước Mỹ như ông, bạn có thể bắt gặp ông trong phiên bản khổng lồ và tự nhiên nhất trên núi Rushmore.
Nhưng tất cả chỉ là những bản sao. Tháng 11 năm 1993, một hiện thân Thomas Jefferson được hứa hẹn sẽ xuất hiện ở nơi không ai nghĩ tới - một nhà thờ lớn bằng gạch ở Worcester, Massachusetts. Trong buổi tối tại New England này, một người tên là Clay Jenkinson đã đóng vai Jefferson bằng xương bằng thịt, sống giữa chúng ta trong những năm cuối thế kỷ 20. Tôi có cảm giác là 40 hay 50 linh hồn táo bạo sẽ xuất hiện chẳng ngại thời tiết. Xét đến cùng, đây là một việc làm có tính nửa học thuật, với mục đích làm sống lại Jefferson mà không cần báo chí tán thưởng hoặc phô trương lòng yêu nước. Tuy nhiên, hóa ra có khoảng 400 người New England nhiệt tình chen chúc ở nhà thờ. Mặc dù người miền Nam từ lâu đã có tính hoài nghi, đặc biệt là người Virginia (John Adams đã nói rằng “ở Virginia, mọi con ngỗng đều là thiên nga”), nhưng sự xuất hiện của Jefferson rõ ràng có sức thu hút rất lớn.
Hiệp hội Đồ cổ Mỹ đã tổ chức một bữa tiệc tối trước sự kiện này. Dường như tất cả những nhà lãnh đạo cộng đồng, bao gồm các hiệu trưởng, giám đốc công ty bảo hiểm và điện toán ở địa phương, và một phái đoàn nhỏ từ cơ quan lập pháp Massachusetts đều có mặt. Bên cạnh đó, còn có các đại diện của Thư viện Quốc hội và Quỹ Nhân đạo Quốc gia đã bay tới từ Washington. Ngoài ra còn có hai đoàn làm phim. Camilla Rockwell đến từ Hãng phim Florentine nói với tôi rằng Ken Burns - nổi tiếng trong phim Nội chiến - đang lên kế hoạch làm một phim tài liệu lớn về Jefferson trên truyền hình. Còn Bud Leeds và Chip Stokes đến từ Quỹ Di sản Jefferson vừa mới công bố một chiến dịch gây quỹ cho một bộ phim thương mại tốn kém về Jefferson. (Qua Leeds và Stokes, lần đầu tiên tôi được biết có một bộ phim khác về Jefferson ở Paris đã được lên kế hoạch, diễn viên chính là Nick Nolte). Đoàn tháp tùng còn có một triệu phú người Iran, cho biết là mình đã yêu quý Jefferson sau khi thoát khỏi tay phe Hồi giáo cực đoan ở Iran, một trải nghiệm đem lại cho ông ta cách tiếp cận độc đáo với thiên tư của Jefferson trong việc khẳng định sự tách biệt giữa nhà thờ và nhà nước.
Trong suốt bữa tối, mầm mống của ý tưởng này bắt đầu xuất hiện trong tâm trí tôi, ban đầu ở dạng một câu hỏi: Điều đó liên quan gì đến Jefferson? Năm 1993 là kỷ niệm 250 năm ngày sinh Jefferson, do đó có thể mong đợi một làn sóng đột biến về danh tiếng của ông. Nhưng liệu có nhân vật nổi tiếng nào trong quá khứ Mỹ có thể gây nên nhiều hứng thú đương đại đến thế? Hiện chỉ có hai ứng viên khả thi, dường như với tôi, cả hai đều giữ không gian thiêng liêng tại Mall, trong thủ đô của đất nước, là phiên bản Mỹ của đỉnh Olympus. Đó là George Washington, “Người Cha của Đất nước chúng ta”, người có tượng đài ghi công lớn nhất trên thế giới, làm lu mờ tượng đài của các nhân vật khác của nước Mỹ. Sau đó là Abraham Lincoln, tượng đài của ông ở Tidal Basin lớn hơn cả của Jefferson và thường chiến thắng trong mọi cuộc thăm dò ý kiến nhằm xếp hạng những tổng thống Mỹ vĩ đại nhất.
Nhưng Washington thường lu mờ trước Jefferson; ông dường như quá xa cách và lặng lẽ. Không có những lời tưởng nhớ khắc trên những bức tường của Đài tưởng niệm Washington. Ông là nhà tiên tri Delphic không bao giờ nói, giống Jehovah trong kinh Cựu Ước không bao giờ xuống Trái đất, như Jefferson đã xuất hiện tối nay. Lincoln là một ứng viên đáng gờm hơn. Giống như Jefferson, ông gần gũi và cũng có những lời nói đầy lôi cuốn. Những công dân bình thường thường biết nhiều về Diễn văn Gettysburg gần như Tuyên ngôn Độc lập. Nhưng sức lôi cuốn của Lincoln ảm đạm và nặng nề hơn; ông là một người tử vì đạo và sức lôi cuốn của ông cũng có phần bi thảm. Jefferson là ánh sáng, nguồn cảm hứng, và sự lạc quan. Mặc dù Lincoln được tôn sùng hơn, nhưng Jefferson lại được yêu mến hơn.
Đó là những suy nghĩ của tôi khi băng qua đường tới nhà thờ, nơi Jenkinson lên kế hoạch tái hiện Jefferson. Ông ta xuất hiện trên các bậc thánh đường trong trang phục thế kỷ 18 và bắt đầu chậm rãi kể về những ngày trước đây, khi là một sinh viên trường Đại học William & Mary, những suy nghĩ về Cách mạng Mỹ, tình yêu với rượu vang Pháp và tư tưởng Pháp, những thành tựu và nỗi thất vọng của ông ở cương vị nhà lãnh đạo chính trị và tổng thống, nỗi ám ảnh với kiến trúc và giáo dục, sự hàn gắn với John Adams trong những năm hoàng hôn của cuộc đời, niềm tin vô bờ vào triển vọng rằng Mỹ sẽ trở thành thế lực chủ đạo của nền dân chủ thế giới.
Jenkinson biết rõ Jefferson của ông ta. Là một sử gia đã quen với các tài liệu học thuật, tôi nhận thấy có một số lĩnh vực đòi hỏi sự khéo léo bởi chỉ một sơ suất nhỏ cũng có thể khiến ta trượt dài trong hành lang của những sự thật nửa vời, một nơi nếu thiếu kiến thức có thể khiến ta đi lạc rất xa. Nhưng Jenkinson không bao giờ chùn bước. Ông ta đã cho chúng ta một bài giảng tinh tế về lịch sử Mỹ, gợi ra khéo léo những nghiên cứu hiện đại về Jefferson.
Hai điều Jenkinson đã không làm cũng rất ấn tượng. Ông ta đã không cố nói giọng miền Nam hoặc Virginia. Hiển nhiên ông ta nhận ra là chẳng có ai biết rõ về giọng nói hay ngữ điệu của Jefferson, rằng liệu âm điệu miền Nam hay âm điệu Anh nhiều hơn, hay đó là sự kết hợp độc đáo. Vì vậy, Jenkinson nói giọng Mỹ. Ông ta cũng đã không làm ra vẻ đang ở thế kỷ 18. Jefferson của ông ta đã được hiện thực hóa trong thế giới và thời đại chúng ta. Không thể cáo buộc là ông ta đã phạm lỗi “hiện tại chủ nghĩa” bởi ông ta không hề tuyên bố về việc hãy quên đi thực tế rằng đó là hiện tại, chứ không phải trước đây.
Thật sự thì hấu hết các câu hỏi từ khán giả đều là về những chuyện hiện tại: Ông sẽ làm gì với vấn đề chăm sóc sức khỏe, ông Jefferson? Ông nghĩ gì về Tổng thống Clinton? Ông có ý tưởng gì cho cuộc khủng hoảng Bosnia? Liệu ông có cho quân Mỹ tham gia chiến tranh Vùng Vịnh? Xen vào đó là một số câu hỏi về lịch sử Mỹ và vai trò của Jefferson trong việc tạo ra lịch sử đó: Tại sao ông không bao giờ tái hôn? Ông có ý gì khi nói “mưu cầu hạnh phúc” trong Tuyên ngôn Độc lập? Tại sao ông lại sở hữu nô lệ?
Câu hỏi cuối cùng này khá sắc sảo, và Jenkinson xử lý nó một cách thận trọng. Nô lệ là một trò hề đạo đức, ông nói, một thiết chế rõ ràng là mâu thuẫn với các giá trị của Cách mạng Mỹ. Ông đã cố gắng hết sức thuyết phục đồng bào mình chấm dứt buôn bán nô lệ và dần chấm dứt chính chế độ nô lệ. Nhưng ông đã thất bại. Ông đã đối xử tốt với những nô lệ của mình, như những con người. Ông kết luận với một câu tự vấn: Quý vị muốn tôi làm gì nữa đây? Một câu hỏi tiếp nối vào lúc này có thể châm ngòi cho cuộc chiến trí tuệ, nhưng không ai hỏi gì. Khán giả không đến để chứng kiến một cuộc cãi vã, mà là để bày tỏ lòng kính trọng với một biểu tượng. Nếu Jefferson là Mona Lisa của Mỹ, họ đến để xem ông mỉm cười.
Mặc dù bầu không khí rất tôn nghiêm, nhưng tôi vẫn ngạc nhiên rằng không có ai đưa ra “câu hỏi về Sally”. Với kinh nghiệm của một giảng viên đại học, tôi thấy hầu hết sinh viên phải biết hai điều về Jefferson: một là ông đã viết Tuyên ngôn Độc lập, và hai là ông đã bị cáo buộc có quan hệ bất chính với Sally Hemings, một nô lệ da trắng lai đen tại Monticello. Vụ bê bối lần đầu tiên được hé lộ vào năm 1802 khi Jefferson là Tổng thống, và sau đó gắn chặt với tên tuổi của ông như một cái lon thiếc lăn leng keng qua các thời đại và những trang lịch sử. Sau này tôi mới biết Jenkinson đã chuẩn bị sẵn câu trả lời cho “câu hỏi về Sally”, một câu chuyện bắt nguồn từ một người đáng thất vọng chuyên mua quan bán tước tên là James Callender, vốn nổi danh nhờ bán những thông tin bê bối (khá đúng), và Jefferson đã có lần phủ nhận điều này và từ chối bình luận về nó (cũng đúng). Một vài tháng sau khi tôi gặp Jenkinson ở Worcester, ông ta đã trở thành trung tâm của sự chú ý tại một bữa tiệc kỷ niệm Jefferson ở Nhà Trắng, nhờ việc nói rằng Jefferson sẽ bỏ qua toàn bộ cuộc điều tra Whitewater vì đó “hoàn toàn chẳng phải việc của ai cả”, ông ta đã giành được trái tim của những người ủng hộ Clinton.
Màn biểu diễn của Jenkinson vào buổi tối tháng 11 cứ luẩn quẩn mãi trong tâm trí tôi, nhưng thứ trở nên ám ảnh hơn cả chính là khán giả. Ở đây, trong trái tim của New England (hẳn nhiên là quê hương của Adams), Jefferson chính là Người cha Lập quốc yêu quý và thật sự là anh hùng nước Mỹ của mọi thời đại. Theo những cách riêng, dường như tình yêu vô điều kiện của họ dành cho Jefferson cũng bí ẩn như chính tính cách kỳ lạ nơi người đàn ông này. Giống như buổi hoàng hôn lộng lẫy hay vẻ đẹp của người thiếu nữ, đơn giản vậy thôi. Jefferson không chỉ có lợi từ những nghi ngờ; dường như ông còn tạo ra một điểm tập hợp những người Mỹ bình thường với xuất thân khác nhau để xua tan đi chính những nghi ngờ đó.
Theo một nghĩa nào đó, mọi thứ đã luôn đi theo hướng ấy. Ngay sau khi ông qua đời vào năm 1826, Jefferson đã trở thành một chuẩn mực cho các phong trào chính trị rất khác nhau tiếp tục đua tranh nhằm kế thừa tên tuổi và di sản của ông. Những người ly khai miền Nam viện dẫn ông nhân danh quyền của các bang; những người theo chủ nghĩa bãi nô miền Bắc trích lời ông trong Tuyên ngôn Độc lập chống lại chế độ nô lệ. Người mệnh danh là Robber Barons của Thời kỳ Hoàng kim còn tạo tiếng vang cho lời cảnh báo của ông về sự bành trướng quyền lực của chính phủ liên bang; những nhà cải cách tự do và những người theo chủ nghĩa dân túy cấp tiến đưa ra những phê phán của ông dành cho các doanh nghiệp tham nhũng và thổi phồng các chỉ báo của ông về sự ưu việt của giá trị đất đai. Trong phiên tòa Scopes, cả William Jennings Bryan và Clarence Darrow đều khẳng định rằng Jefferson đồng ý với quan điểm của họ về cải cách. Cả Herbert Hoover lẫn Franklin Roosevelt đều tuyên bố ông là người dẫn đường cho họ trong việc xử lý Đại suy thoái. Merrill Peterson, nhà biên niên sử về di sản phức tạp của Jefferson, dùng từ “hay thay đổi” để gọi một cách cổ điển và trang trọng cho những gì mà một số nhà phê bình mô tả là trạng thái tư tưởng pha tạp của Jefferson khiến người ta nguôi giận. Ông là Thường dân (1) nước Mỹ. 1
(1) Nguyên văn: Everyman. Lưu ý: Trong cuốn sách này, tất cả các chú thích chân trang đều là của người biên tập, trừ chú thích của người dịch sẽ ghi rõ (ND).
Nhưng ít nhất cho đến thời kỳ Chính sách Kinh tế mới của Franklin Roosevelt đã có những người chỉ trích. Trên thực tế, cốt truyện chính của lịch sử Mỹ lại do Jefferson và Alexander Hamilton thủ vai chính trong một cuộc đua tranh đầy kịch tính giữa các lực lượng dân chủ (hoặc chủ nghĩa tự do) với các lực lượng quý tộc (hay chủ nghĩa bảo thủ). Mặc dù sự kết hợp này bị nghi ngờ là có mùi khoa trương của một vở kịch chính trị, nhưng nó cũng đã giúp giảm bớt những sự phức tạp rối loạn của lịch sử Mỹ để thành một kế hoạch có thể hiểu được: Mọi người chống lại tầng lớp quý tộc, miền Tây chống lại miền Đông, nhà nông nghiệp chống lại nhà công nghiệp, phe Dân chủ chống lại phe Cộng hòa. Jefferson chỉ là một phần bên trong cuộc đối thoại chính trị Mỹ, thường là bên có đặc quyền bảo đảm, tiếng nói của “số nhiều” chống lại “số ít”.
Xin nhắc lại, phiên bản này của lịch sử Mỹ luôn có chút giả tưởng nửa vời với kịch bản được thêm thắt của những người thuộc phe Jefferson, và do đó có thể gây phương hại; nhưng nó không còn ý nghĩa gì nữa, bởi vào những năm 1930, khi Franklin Roosevelt dùng các phương pháp Hamilton (tức là chính phủ can thiệp) để đạt được những mục tiêu Jefferson (tức là bình đẳng kinh tế). Sau Chính sách Kinh tế mới, hầu hết các sử gia không còn phân biệt Jefferson với Hamilton nữa, và hầu hết các chính khách thôi khao khát về một xã hội không tưởng của Jefferson không chịu ảnh hưởng từ chính phủ. Không học giả nghiêm túc nào còn tin rằng niềm tin của Jefferson dành cho chính phủ liên bang tối giản là phù hợp với xã hội công nghiệp đô thị Mỹ. Sự tan rã của các phạm trù cũ đồng nghĩa với việc Jefferson không còn là lãnh đạo biểu tượng cho phe tự do chống lại phe quý tộc bảo thủ. 2
Những gì xảy ra tiếp theo đã định nghĩa cho mô hình mới về hình ảnh Jefferson và tạo ra sân khấu cho hiện tượng mà tôi đã chứng kiến tại nhà thờ Worcester. Jefferson đã không còn là một nửa tự do trong cuộc đối thoại chính trị Mỹ, thay vào đó, ông đã trở thành người vượt qua mọi xung đột chính trị và đảng phái. Như Peterson nói, “sự tan rã của triết lý Jefferson về chính phủ đã báo trước lần phong thánh tối thượng của Jefferson”. Khoảnh khắc Jefferson đi vào thiên đường chính trị phiên bản Mỹ có thể tính chính xác: Ngày 13 tháng 4 năm 1943, ngày mà Franklin Roosevelt khánh thành Đài tưởng niệm Jefferson ở Tidal Basin. Roosevelt tuyên bố: “Hôm nay, giữa một cuộc chiến vĩ đại vì tự do, chúng ta khánh thành một đền thờ tự do”. Jefferson giờ đây là một vị thánh của Mỹ, “Tông đồ Tự do” của chúng ta, như Roosevelt đã nói; ông kết luận bằng cách trích dẫn những lời ghi nơi mái vòm Đài tưởng niệm Jefferson: “Tôi tuyên thệ nơi bàn thờ Chúa sự phản đối không ngừng trước mọi hình thức bạo ngược với trí tuệ con người”. Jefferson đã không chỉ là một phần thiết yếu trong truyền thống chính trị Mỹ, mà ông chính là bản chất của nó, một kiểu biểu tượng tự do, bay lượn trên chính trường Mỹ như một trong các khinh khí cầu bay trên một sân bóng đá đông đúc, phất phơ mấy dòng cổ động cho cả hai đội. 3
Càng nghĩ về điều này, dường như tôi càng thấy rõ khán giả tại Worcester là một minh chứng tốt đẹp cho những gì chúng ta có thể gọi là cội nguồn của chủ nghĩa Jefferson. Những học giả và người viết tiểu sử về Jefferson ít khi chú ý đến hiện tượng này, vì nó hầu như không cho biết Jefferson thật sự là ai trong lịch sử, và quá trình suy ngẫm, ít nhất ở bề ngoài của nó, có vẻ giống sự pha trộn giữa việc sùng bái anh hùng không cần suy nghĩ với trào lưu chính trị chính thống. Nhưng với tôi, dường như có nhiều người Mỹ bình thường vẫn thừa nhận và kỳ vọng vào những gì mà Jefferson là biểu tượng, mạnh mẽ hơn bất kỳ sự thật lịch sử nào. Các sử gia vĩ đại nhất và các học giả về Jefferson của Mỹ đã miệt mài trong nhiều thập niên để đưa ra những nghiên cứu đáng tin cậy và tinh tế nhất, chính xác thì một số trong đó đã làm được điều ấy, một cách độc lập và không làm ảnh hưởng đến hình ảnh của Jefferson trong công chúng. Đây là sự mê hoặc của Jefferson, nhưng sự mê hoặc đó đã diễn ra thế nào?
Nơi có thể tìm hiểu rõ ràng chính là chốn thiêng ở Tidal Basin. Theo Cục Công viên quốc gia, khoảng một triệu du khách đã bày tỏ sự kính trọng với Jefferson khi ghé thăm Đài tưởng niệm ông mỗi năm. 4 Vào một ngày tháng 3 năm 1993, khi tôi đến đây, hàng trăm du khách bước trên những bậc thang bằng đá cẩm thạch, sau đó tiếp tục dành một vài phút chiêm ngưỡng bức tượng Jefferson cao quý và chụp ảnh. Rồi hầu hết họ đều nhìn lên bốn tấm bảng trên các bức tường, thầm đọc những câu nói nổi tiếng của ông. Thu hút nhiều sự chú ý hơn cả là tấm đầu tiên, ghi những câu nói nổi tiếng và quen thuộc nhất trong lịch sử Mỹ: “Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng, tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được Sống, quyền được Tự do và mưu cầu Hạnh phúc”.
Thực tế, đây không hoàn toàn là những dòng được Jefferson viết vào tháng 6 năm 1776. Trước khi được Quốc hội chỉnh sửa, dự thảo ban đầu của Jefferson thậm chí còn thể hiện ý định của ông về một tầm nhìn tâm linh rõ ràng hơn: “Chúng tôi khẳng định một chân lý thiêng liêng và không thể phủ nhận; rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng và độc lập, từ tạo hóa công bằng đó, họ đều có quyền cố hữu và bất khả xâm phạm, trong đó có sự duy trì quyền sống, tự do, và mưu cầu hạnh phúc”. Đây là những điều cốt lõi về đức tin trong Tín điều Mỹ. Những lời này của Jefferson là tâm điểm của sức lôi cuốn ở ông qua các thời đại, là tuyên bố trung tâm của ông, chiếm được tình cảm của hậu thế. Vậy chúng có ý nghĩa gì? Làm thế nào chúng có sức mê hoặc đến vậy?
Chỉ cần đặt ra câu hỏi này thôi là đã có nguy cơ bị buộc tội phản quốc và báng bổ, bởi đó là những chân lý hiển nhiên không cần phân tích; đó là hiển nhiên, thế thôi. Nhưng khi những lời này được tách khỏi làn sương của lòng yêu nước, đen trắng phân minh, ta ở đây có hai lời tuyên bố bất hủ. Tuyên bố trực tiếp qua câu chữ rằng, cá nhân là thực thể có chủ quyền trong xã hội; trạng thái tự nhiên của mỗi người là tự do và bình đẳng với tất cả cá nhân khác; đây là trật tự tự nhiên của vạn vật. Tuyên bố ẩn sau câu chữ là, tất cả các hạn chế đối với trật tự tự nhiên này chính là sự vi phạm đạo đức, chống lại những gì Chúa đã định; cá nhân được giải phóng khỏi những hạn chế đó sẽ tương tác hài hòa với đồng loại và khiến con người hạnh phúc tối đa mà không cần kỷ luật từ bên ngoài.
Đây là một thông điệp cực kỳ lý tưởng, một kiểu tin vui đơn giản là quá tốt lành để có thể trở thành sự thật. Nói cho đúng, đây là một công thức cho tình trạng vô chính phủ. Bất cứ chính phủ quốc gia nào có ý định thực hiện nghiêm túc những nguyên tắc này thì sẽ chẳng khác gì tự đặt mình vào thế khó. Nhưng tất nhiên, những lời nói đó không phải là một kế hoạch chi tiết cho hoạt động chính trị. Jefferson không phải là một nhà tư tưởng chính trị sâu sắc nhưng ông là một nhà hùng biện chính trị xuất sắc và có tầm nhìn xa. Cái thiên tài trong tầm nhìn của ông là đề xuất việc thực hiện những khao khát sâu xa nhất của chúng ta về tự do cá nhân trong thực tế. Cái thiên tài trong khả năng hùng biện của ông là đã chỉ rõ những thôi thúc không thể hòa giải của con người ở một mức độ trừu tượng để che đi sự tương khắc giữa chúng [những thôi thúc đó]. Jefferson gìn giữ Tín điều Mỹ một cách đầy cảm hứng, nó hoàn toàn miễn nhiễm với những hoài nghi học thuật và đây là nơi mà những người Mỹ bình thường có thể tụ tập để nói những lời mê hoặc với nhau. Sự mê hoặc Jefferson có tác dụng, vì chúng ta cho phép nó hoạt động ở một nơi biệt lập chẳng cần đến những lựa chọn thực tế.
Và thế là, ví dụ như ở nhà thờ Worcester kia hoặc tại không gian thiêng liêng của Đài tưởng niệm Jefferson, công dân Mỹ có thể cùng nhau đến để thấy Jefferson xuất hiện và đồng thời trình bày những vấn đề: phá thai là quyền của phụ nữ và không thể giết một đứa trẻ chưa sinh; chăm sóc sức khỏe và môi trường sạch cho mọi người Mỹ là những quyền tự nhiên, hệ thống hành chính và thuế khóa liên bang là cần thiết để thực hiện các chương trình y tế và môi trường nhưng lại vi phạm quyền độc lập cá nhân; không được từ chối các quyền công dân của phụ nữ và người da đen, những chương trình hành động quả quyết lại vi phạm nguyên tắc về sự bình đẳng. Nguồn gốc căn bản cho sức hấp dẫn đương đại của Jefferson chính là ông đã tạo ra một không gian thiêng liêng, không thật sự là vùng đất bình thường mà giống như một vùng lơ lửng trên tất cả những tranh cãi chính trị - nơi mà mọi người Mỹ có thể đến bên nhau, và ít nhất là trong thời điểm đó, hòa thành một dàn đồng ca thay vì những tạp âm chói tai.
Là một sử gia chuyên nghiệp đã quyết định chọn Jefferson cho dự án nghiên cứu tiếp theo, tôi thấy đây là một cách hiểu không rõ ràng, đầy hàm ý đáng lo ngại. Jefferson không giống như hầu hết những nhân vật lịch sử khác - chết đi, chìm vào quên lãng và thờ ơ ủy thác cho các sử gia, những người dường như chỉ là kẻ canh giữ ngôi mộ của những kỷ niệm bị chôn vùi mà chẳng ai thật sự quan tâm nữa. Jefferson đã trở lại từ cõi chết. Hay đúng hơn là những huyền thoại về Jefferson có đời sống riêng của nó. Rất nhiều người Mỹ quan tâm sâu sắc đến ý nghĩa của những ký ức về ông. Ông đã trở thành Nhân sư Vĩ đại của lịch sử Mỹ, là viên đá thử vàng bí ẩn và khó nắm bắt cho những niềm tin được ấp ủ nhiều nhất và những chân lý gây tranh cãi nhất của văn hóa Mỹ. Điều này giống như việc một nhà nghiên cứu bệnh học, chỉ vừa bắt đầu khám nghiệm tử thi, đã phát hiện ra cơ thể trên bàn mổ vẫn còn thở.
Không phải ai cũng có thể trở thành Thường dân. Năm năm trước, khi tôi đang viết cuốn sách về cuộc đời và tư tưởng của John Adams, chỉ có một vài học giả bè bạn từng hỏi tôi đang làm gì, và khi được trả lời, họ lại cảm thấy thôi thúc phải hỏi những câu cho thấy Adams đã ảnh hưởng đến cuộc sống của họ trên mọi phương diện. (Câu trả lời phổ biến nhất từ những bạn bè không thuộc giới học giả của tôi là họ biết mặt Adams vì nó xuất hiện trên loại bia yêu thích của họ, nhưng họ đã lầm Adams với Sam - anh họ của ông). Mặt khác, nghiên cứu về Jefferson giống như bước vào một vùng từ trường mà rất nhiều bạn bè và hàng xóm - những doanh nhân, thư ký, nhà báo, lao công - đều cộng hưởng cùng với sự phấn khích. Khi lò sưởi của tôi hỏng trong mùa đông lạnh cóng, thợ sửa chữa trong vùng tới và nhìn thấy những chồng sách về Jefferson trong nghiên cứu của tôi. Trong tầng hầm, tôi thì giữ đèn còn anh thợ thì nằm ngửa để thay mấy bộ phận bị hỏng của bơm nhiệt, anh ta đã nói suốt một tiếng về việc những người chỉ trích đã bôi nhọ Jefferson là một người vô thần ra sao. Anh thợ sửa chữa là một người sùng đạo Ki-tô và đã từng đọc ở đâu đó về mối quan tâm của Jefferson với Kinh Thánh. Không, thưa ngài, Jefferson là một quý ông Ki-tô đức hạnh, và anh ta hy vọng tôi sẽ viết điều đúng đắn đó trong cuốn sách của mình.
Một người hàng xóm dạy ở trường trung học địa phương, khi biết tôi đang nghiên cứu về Jefferson, đã hứa gửi cho tôi một cuốn sách mà ông ta thấy rất hữu ích trong việc chắt lọc thông điệp của Jefferson cho học sinh của mình. Sau đó, một gói hàng được gửi đến qua đường bưu điện, trong đó có ba bản sao của Bài ca Cách mạng (Revolution Song), được một người là Jim Strupp “chắp nối” chứ không phải viết, để “mang đến cho giới trẻ một cái nhìn hiện đại về niềm tin, lý tưởng và tư tưởng cấp tiến của Thomas Jefferson”. Lời giới thiệu trên trang bìa: “Ở nước ta hiện nay, chính phủ dân chủ chân chính đã bị phản bội ở tất cả các cấp. Các nền dân chủ xuất hiện khắp nơi trên thế giới, nhưng chúng cũng đang bị phá hủy một cách tinh vi”. Giọng văn hừng hực của Bài ca Cách mạng gợi nhớ đến những trang quảng cáo kín đặc trên báo của mấy thầy pháp châu Á hay mấy nhà tiên tri tự xưng về 12 bước để xoay chuyển khải huyền đang tới. Trên thực tế, mô hình tuyên truyền cho Bài ca Cách mạng thậm chí còn khiêu khích hơn: “Cuốn sách nhỏ này cố gắng trở thành một giải pháp dân chủ thay thế cho những tác phẩm của Mao Chủ tịch và các nhà lãnh đạo phi dân chủ khác”. Nó được thiết kế như một cuốn giáo lý ngắn gọn về tư tưởng Jefferson, một “cuốn sách nhỏ màu xanh” để chống lại “cuốn sách nhỏ màu đỏ” của Mao. Cuộc chiến toàn cầu vì những linh hồn con người không bao giờ kết thúc, và Jefferson vẫn là nguồn cảm hứng, là ngọn đèn hiệu được nhân dân lựa chọn, tỏa hào quang từ Monticello, Thành phố trên Đồi (2) của riêng ông. Chắc chắn toàn là thứ ngớ ngẩn, nhưng có một ví dụ khác cho thấy mức độ phổ biến về sức ám ảnh mạnh mẽ bền bỉ của di sản Jefferson. 5
(2) Chi tiết trong Kinh Thánh, ngụ ý về một vùng đất hạnh phúc.
Ngay sau khi tôi có bản sao ca tụng của Bài ca Cách mạng , tôi nhận được lá thư đến từ một người nào đó cũng đang lần theo dấu Jefferson. Bức thư đến từ Paris và người gửi là Mary Jo Salter, một người bạn vui vẻ, và tình cờ cũng là một trong những nhà thơ được chú ý nhất của Mỹ. Cô và chồng mình, nhà văn Brad Leithauser, đã dành một năm nghỉ ở Paris, tại đây Mary Jo tiếp tục làm người biên tập thơ của tờ New Republic và hoàn thành một tập thơ mới. Bài thơ dài nhất trong đó hóa ra sẽ tập trung hoàn toàn vào Jefferson. Dù cô đã giải thích rằng “98% các sự kiện và 92% những lý giải của các sử gia về Jefferson sẽ không xuất hiện trong thơ tôi”, nhưng Mary Jo băn khoăn liệu tôi có thể giúp cô về phần lịch sử với lý do, sẽ là “một tội ác nếu tôi trình bày lịch sử sai sự thật trong khi có thể tránh được nó”. 6
Đối với một nhà thơ có tầm vóc và nhạy cảm như Mary Jo, Jefferson chắc chắn không phải là một lựa chọn mang tính chính trị, ít nhất là theo nghĩa thông thường của từ này. Cô không có trục tư tưởng để quay, không có bài thánh ca yêu nước để hát. Và chẳng có lý gì khi nghĩ rằng những tuyên truyền viên và các nhà thơ đã hòa chung vào mạng lưới văn hóa bắt nguồn từ những ngọn núi xung quanh Monticello. Vì vậy, tôi hỏi cô: Tại sao lại là Jefferson?
Câu hỏi đó đã kích thích những trao đổi thư từ đầy hăng say trong nhiều tháng liền. Một phần sự hấp dẫn nên thơ của Jefferson hóa ra chính là mối liên hệ suốt đời của ông với ngôn ngữ. Ông cũng đã là chủ đề của nhiều nhà thơ xuất sắc trong quá khứ; Robert Frost, Ezra Pound và Robert Penn Warren đều viết về ông. Nhưng Mary Jo giải thích, phần lớn “các nhà thơ bị thu hút bởi hình ảnh”, và trong trường hợp của Jefferson, có hai sự kiện đặc biệt khơi gợi hồn thơ của cô: Đầu tiên là việc ông qua đời vào ngày 4 tháng 7 năm 1826, 15 năm sau ngày Tuyên ngôn Độc lập được Quốc hội chấp thuận và cũng là ngày John Adams qua đời; tiếp theo là một sự trùng hợp kỳ lạ khác, ông mua một nhiệt kế vào ngày 4 tháng 7 năm 1776, và ông đã đo được nhiệt độ cao nhất lên tới 76°F (3) trong cái ngày đặc biệt đó. Đây là những “sự kiện sâu sắc và rất gợi cảm”, cô giải thích, được trí tưởng tượng của một nhà thơ nắm bắt. Đó là những loại sự kiện lịch sử thường khiến các nhà thơ tìm đến để sáng tác. Cho dù đó là một sở trường nhất định hoặc số phận tuyệt đối, thì cuộc đời của Jefferson vẫn đầy chất thơ. 7
(3) Tức 24,444°C.
Bài thơ 30 trang của Mary Jo cuối cùng cũng ra đời với tựa đề “Bàn tay của Thomas Jefferson” (The Hand of Thomas Jefferson), là một suy ngẫm về bàn tay đã viết nến Tuyên ngôn Độc lập và bị gãy ở Paris trong cuộc vui đùa lãng mạn với Maria Cosway, sau đó khắc họa lại những lời bi thương cuối cùng gửi cho Adams, và cuối cùng qua nhiều năm tháng ông vẫn thu hút được sự chú ý của chúng ta. Khi tôi hỏi điều gì ở Jefferson cuốn hút cô , Mary Jo nói đó chính là “sự huyền bí có thể tiếp cận được” của ông, thực tế là sự quyến rũ của nhân cách hay cá tính bên trong Jefferson, những thứ không thể nói chuyện với nhau nhưng có thể đã từng nói chuyện với chúng ta. Điều này có một chút khác biệt với cách gọi Jefferson “hay thay đổi” của Peterson, gợi ra hình ảnh một Người đàn ông Phục hưng đa chiều. Jefferson của Mary Jo giống như Người đàn ông Hậu hiện đại, với một loạt các sắc thái rời rạc, thu hút sự thiếu mạch lạc tạm thời và hầu như chỉ có thể được kết hợp trong trí tưởng tượng nơi các thi sĩ. 8
Tôi không rõ các sử gia ở đâu, nhưng chắc chắn những người không buộc phải chối bỏ việc sử dụng trí tưởng tượng thì đều gắn chặt khả năng hư cấu với các bằng chứng sẵn có. Đọc tác phẩm của Mary Jo khiến tôi tự hỏi, liệu tính cách bí ẩn của Jefferson có thể không cần mất nhiều thời gian tưởng tượng như mấy câu chuyện hư cấu hay thơ ca mà vẫn có thể vượt qua những khoảng trống nội tâm im lặng khiến ông khá nổi tiếng. Liệu điều đó có nghĩa rằng bất kỳ sử gia nào nghiên cứu về Jefferson đều cần có chứng chỉ nhà thơ? Tôi hoàn toàn rõ rằng tình yêu vô hạn và vô điều kiện dành cho Jefferson của quần chúng nhân dân gần như không cần tranh luận hay chứng cứ lịch sử. Thậm chí việc truy tìm Jefferson trong lịch sử dường như cũng giống việc tìm kiếm Jesus trong lịch sử vậy, một việc hoàn toàn vô ích. Merrill Peterson, người còn sống viết tiểu sử tốt nhất về Jefferson, dường như đã xác nhận những nghi ngờ này khi thực hiện những gì ông gọi là “lời thú nhận mất hết thể diện”, rằng sau hơn 30 năm làm việc, “cuối cùng với tôi, Jefferson vẫn là một người đàn ông khó hiểu”. 9
Bất cứ ai dừng lại quá lâu để suy ngẫm về sự khôn ngoan trong cuộc truy tìm đều có khả năng bị chà đạp bởi những đám đông vốn không hề hồ nghi. Hơn 600.000 người yêu mến Jefferson đã tới một cuộc triển lãm lớn về “Thế giới của Thomas Jefferson ở Monticello”, kéo dài từ tháng 4 đến tháng 12 năm 1993. Susan Stein, người phụ trách nghệ thuật của Monticello, đã thực hiện một nỗ lực dũng cảm khi phục chế hầu hết đồ nội thất bị thất lạc từ năm 1827, khi các khoản nợ của Jefferson để lại buộc con cháu ông phải bán đấu giá tài sản. Kết quả là bản sao chân thực không gian nội thất của Monticello, trông thật sự giống như những ngày Jefferson còn sống. Nếu những căn phòng biệt thự theo một cách đáng tin nào đó phản ánh chính xác những tính cách khác nhau của ông, thì chúng cũng gợi ra sự lộn xộn cực kỳ xa hoa và nguyên tắc lựa chọn theo khí chất sang trọng mang phong cách riêng: tượng Houdon bán thân bên cạnh mấy cái mũ Ấn Độ, bàn gỗ gụ bày đầy những bộ đồ sứ và giá nến bằng bạc, chân dung treo khắp các bức tường, bản in, vải gấm hoa treo và những tấm gương lớn có khung mạ vàng. 10
Có lẽ tất cả cuộc sống của chúng ta trông sẽ giống như sự ngẫu nhiên và lộn xộn, nếu những tài sản vật chất quý giá nhất mà chúng ta thu thập trong một đời được tập hợp lại một chỗ. Tuy nhiên, Monticello giống như một cái rương chật ních chiến lợi phẩm của một trong những nhà sưu tập đam mê và chiết trung nhất nước Mỹ. Làm thế nào mà kho báu khổng lồ đầy những đồ đắt tiền này lại gắn với tính giản đơn nông nghiệp và thói khổ hạnh Cicero được? Cuộc triển lãm cho thấy Jefferson sống trong một bảo tàng đầy ắp các loại đồ vật đắt tiền của mấy gã nhà buôn cắt cổ vào cuối thế kỷ 19, những kẻ dám làm tất cả để thỏa mãn bản tính tham lam. Món đồ gợi nhớ nhất về sở thích của Jefferson đối với những gì ông gọi là “sự giản đơn cộng hòa” cũng là vật có giá trị nhất trong triển lãm: chiếc bàn viết nhỏ ông đã ngồi biên soạn Tuyên ngôn Độc lập. Nó được mượn từ Viện Smithsonian - nơi cất giữ nó từ năm 1880, và chỉ một lần duy nhất được phép mang ra ngoài vào năm 1943 để cùng Franklin Roosevelt tới Đài tưởng niệm Jefferson. Viện Smithsonian công nhận chiếc bàn viết này là một di vật thiêng liêng của lịch sử Mỹ, và nhấn mạnh cần cử người bảo vệ liên tục 24 giờ trong suốt một tháng cho Monticello mượn. Một phần nhờ sự thiêng liêng của chiếc bàn này, vào năm đó, chỉ một tư ấp duy nhất ở Mỹ là Graceland của Elvis Presley thu hút nhiều du khách hơn Monticello. 11
Hiện tượng đó xứng đáng có một cái tên hoặc tiêu đề, vì vậy tôi bắt đầu gọi nó là Làn sóng Jefferson. Kể cả những dịp kỷ niệm 250 năm ngày sinh của George Washington, Benjamin Franklin hay John Adams cũng không thể sánh kịp. Kể cả lễ kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Lincoln cũng không thể tạo ra làn sóng rộng lớn như thế. Làn sóng Jefferson không phải là một phong trào được các sử gia chuyên nghiệp định hướng hay điều khiển. Jefferson là một phần của công chúng với vị thế độc lập và có sức mạnh trong giới học thuật. Các nhà xuất bản (17 cuốn sách mới có tên Jefferson trong tiêu đề xuất hiện vào năm 1993), các nhà sản xuất và đạo diễn phim (Hãng Florentine Films đang trong quá trình sản xuất, hãng James Ivory và Ismail Merchant đã bắt đầu bấm máy ở Paris), cũng như các nhà quản lý bảo tàng và giám đốc các tổ chức, tất cả đều coi Jefferson như một sự bảo đảm. So với mọi nhân vật lịch sử khác, những gì thuộc Jefferson đều có một thị trường rộng lớn, sầu sắc và đa dạng. Điều này giống như thể ai đó tham gia vào buổi bắn pháo hoa ngày 4 tháng 7, thay vì thấy những quả pháo sáng thông thường thì sẽ chứng kiến vụ nổ của một quả bom hạt nhân cỡ vừa. 12
Trong giới học thuật, gió lại đổi chiều. Không phải là các học giả đã bỏ qua Jefferson hoặc đặt ông xuống hàng thứ yếu về ý nghĩa lịch sử. Số lượng sách và bài viết nghiên cứu tập trung vào Jefferson hoặc một số khía cạnh trong cuộc sống của ông tiếp tục tăng theo cấp số nhân; phải cần đến hai tập sách dày chỉ để liệt kê tất cả các học giả nghiên cứu về Jefferson, đa số xuất hiện trong một phần tư thế kỷ qua. 13 Dự án nghiên cứu quan trọng, Các bài viết về Thomas Jefferson (The Papers of Thomas Jefferson) của Nhà xuất bản Đại học Princeton duy trì nhịp độ đều đặn hai năm một tập (đã xuất bản 25 tập đến năm 1993), mặc dù nếu theo tốc độ hiện tại thì sẽ không có người lớn nào có khả năng còn sống khi các biên tập viên viết hết những điều họ biết về Jefferson từ trước đến nay.
Vấn đề là sự quan tâm lại không nhiều bằng sự tranh cãi về quan điểm và thành tựu của con người này. Tình yêu mà công chúng dành cho ông vẫn tiếp tục nở rộ cho dù vấp phải nhiều sự bất đồng mạnh mẽ từ giới học giả; thậm chí trong một số lĩnh vực còn trở nên khá chua chát. Là biểu tượng cho mọi sự đúng đắn của nước Mỹ, Jefferson cũng trở thành hòn đá thử vàng cho những sai lầm.
Bạn có thể nhìn lại, với lợi thế đã biết trước lịch sử, xác định được thời điểm thủy triều bắt đầu xuất hiện trong những năm 1960. Năm 1963, Leonard Levy xuất bản cuốn Jefferson và quyền tự do công dân: Mảng tối (Jefferson and Civil Liberties: The Darker Side), như tiêu đề của sách, phát hiện bản ghi của Jefferson với tư cách là một người bảo vệ tự do cho những quyền của số ít truyền cảm hứng hơn và bài hùng biện của ông về tự do ngôn luận và tự do báo chí thường xuyên mâu thuẫn với hành động của mình. Thậm chí còn có một nhát búa nặng hơn vào năm 1968, với việc xuất bản cuốn Trắng hơn Đen (White over Black) của Winthrop Jordan, đánh giá lại các mối quan hệ chủng tộc ở Mỹ giai đoạn đầu với một đoạn dài nói về Jefferson. Tuy đây không phải một bản cáo trạng nặng nề dành cho Jefferson, nhưng cuốn sách của Jordan cho rằng phân biệt chủng tộc đã mọc rễ trong linh hồn Mỹ từ rất sớm trong lịch sử, và Jefferson là minh họa tiêu biểu nhất cho các giá trị có tính phân biệt chủng tộc ẩn sâu trong những nếp gấp của tính cách người da trắng. 14
Jordan có một thái độ bất khả tri trước các cáo buộc về mối quan hệ tình ái với Sally Hemings, nhưng cũng không ủng hộ những câu chuyện liên quan đến Sally, mô tả một Jefferson có những cảm xúc sâu sắc nhất đối với người da đen bởi sự thôi thúc nguyên sơ trong tiềm thức giống như thiên hướng tính dục vậy. Nhiều cuốn sách học thuật khác đã sớm nói về các chủ đề liên quan, nhưng Trắng hơn Đen đã tạo ra sự tranh luận về vấn đề trung tâm là chủng tộc và chế độ nô lệ trong bất kỳ đánh giá nào về Jefferson. Khi điều này trở thành một thước đo chính cho tính cách của Jefferson, uy tín của ông trong giới học giả hẳn sẽ giảm sút.
Một dấu hiệu của hiện tượng suy giảm sắp xảy ra - một lần nữa lại là sự nhìn lại dĩ vãng - đó là bài luận năm 1970 của Eric McKitrick đánh giá tiểu sử của Jefferson do Dumas Malone và Merrill Peterson viết. McKitrick đã táo bạo đặt ra vấn đề, liệu đây có phải lúc để tuyên bố tạm ngưng lối nghiên cứu nhằm ca ngợi Jefferson. McKitrick đặt câu hỏi: “Có điểm nhân cách nào không mang đậm tính anh hùng từ mọi góc độ?” - đặc điểm đó đã vượt xa sự phức tạp rõ ràng với chế độ nô lệ. Còn sự thể hiện yếu ớt của ông ở cương vị Thống đốc bang Virginia trong Cách mạng Mỹ, khi ông không huy động nổi dân quân và phải phi ngựa về Monticello để trốn đạo quân cướp giật của Anh thì sao? Và chuỗi dài thất bại của ông với lệnh Cấm vận Mỹ năm 1807, nhưng ông vẫn bám vào ảo tưởng rằng biện pháp trừng phạt kinh tế sẽ giữ cho chúng ta ở ngoài cuộc chiến, ngay cả sau khi đã thấy quá rõ ràng rằng chúng chỉ tàn phá nền kinh tế Mỹ? 15
Từ góc nhìn ở Charlottesville, đây là những câu hỏi xấc láo, nếu không muốn nói là mang đầy tính thù địch. Dumas Malone, học giả lớn tuổi hiểu biết về Jefferson, đã làm việc vất vả hầu như cả đời, dành phần lớn thời gian trong khuôn viên trường Đại học Virginia để viết sáu tập tiểu sử về Jefferson và thời đại của ông (Jefferson and His Time), một trong những tác phẩm lớn vì tình yêu trong giới học giả Mỹ. Nghiên cứu về Jefferson của Merrill Peterson chỉ ít tính anh hùng hơn một chút. Giờ thì McKitrick đang tuyên bố không thể tiếp tục giải thích theo những hiểu biết có sẵn theo quan điểm Charlottesville, những thứ được ông gọi là “theo cách nhìn của phe Jefferson”, vốn chỉ làm suy yếu sức mạnh lý giải của chúng.
Ngạc nhiên hơn là ở Charlottesville, việc nghiên cứu lại về Jefferson do McKitrick kêu gọi đã đạt tới đỉnh cao. Việc này xảy ra vào tháng 10 năm 1992, khi Quỹ Tưởng niệm Thomas Jefferson triệu tập một hội nghị với cái tên vô cùng tôn kính “Những di sản Jefferson”. Kết quả là một cuộc trao đổi hăng say diễn ra trong sáu ngày, được một phóng viên gọi là “kiến thức miễn phí cho mọi người”. Sau hội nghị, có 15 bài viết được Nhà xuất bản Đại học Virginia công bố trong thời gian kỷ lục, một băng video dài một giờ ghi hình cuộc trao đổi được chiếu trên truyền hình đại chúng, một loạt phóng sự trên các tờ báo ở Richmond và Washington Post . Được quảng bá như là phiên bản học thuật của bữa tiệc sinh nhật Jefferson (lần thứ 250 sắp diễn ra trong tháng 4), hội nghị giống như một phiên xử công khai, với Jefferson trong vai trò bị đơn.
Nội dung tố tụng chính đến từ Paul Finkelman, một sử gia sau này giảng dạy tại Đại học Virginia Tech, và lời buộc tội chủ yếu là đạo đức giả. “Bởi vì ông là tác giả của Tuyên ngôn Độc lập”, Finkelman nói, “nên việc kiểm tra quan điểm của Jefferson đối với chế độ nô lệ không phải là liệu ông có tốt hơn so với những người tồi nhất của thế hệ mình hay không, mà phải là ông có tiên phong cho những thứ tốt nhất hay không”. Câu trả lời rõ ràng là một bản cáo trạng: “Jefferson đã trượt bài kiểm tra”. Theo Finkelman, Jefferson là một người phân biệt chủng tộc từ trong ra ngoài, thậm chí đã phủ nhận ngay cả khả năng người da đen và người da trắng có thể sống với nhau trên cơ sở bình đẳng. Hơn nữa, một vài nỗ lực của ông để chấm dứt buôn bán nô lệ hoặc hạn chế việc mở rộng chế độ nô lệ xuống miền Nam cũng như kế hoạch từng bước giải phóng nô lệ của ông chỉ là miễn cưỡng. Monticello thân yêu của ông và sự tiêu xài phung phí cá nhân chỉ có thể có được là nhờ sức lao động của nô lệ. Finkelman cho rằng thật sai lầm, thậm chí là bệnh hoạn, khi tôn thờ Jefferson như là cha đẻ của tự do. 16
Nếu Finkelman là công tố viên trưởng, thì nhân chứng chính của bên nguyên là Robert Cooley, một người đàn ông da đen trung niên tự xưng là hậu duệ trực tiếp của Jefferson và Sally Hemings. Cooley đứng trước khán giả trong phần hỏi và trả lời, tự cho mình là “bằng chứng sống” cho thấy câu chuyện về sự lầm lạc của Jefferson với Sally Hemings là sự thật. Dù các học giả có kết luận gì đi nữa, thì mấy thế hệ người Mỹ gốc Phi sống tại Ohio và Illinois đều biết có dòng máu của Jefferson chảy trong huyết quản của mình. Có thể đến ngày tận thế, các học giả vẫn nói rằng không có bằng chứng hoặc tài liệu xác thực điều này. Nhưng bằng chứng không tồn tại vì một lý do chính đáng. “Hồi đó, chúng tôi không thể viết”, Cooley giải thích. “Vì chúng tôi là nô lệ”. Và những đứa con da trắng của Jefferson có thể đã hủy tất cả bằng chứng viết tay về mối quan hệ này ngay sau khi ông chết. Về cơ bản, Cooley đem truyền thống truyền khẩu của cộng đồng da đen đọ với truyền thống văn bản của giới học giả. Phiên bản của ông ta về lịch sử có thể không có những bằng chứng rõ ràng, nhưng nó chắc chắn có ảnh hưởng chính trị. Khi ông ta ngồi xuống, tiếng vỗ tay của khán giả vang lên khắp khán phòng. Phóng viên Washington Post thuật lại tình trạng hội nghị: “Những người bảo vệ Jefferson giữ thế phòng thủ. Thật là một thời điểm khó khăn cho các biểu tượng”. 17
Trên thực tế, kể cả nhát búa tạ của Finkelman hay chứng minh nhân thân đầy kịch tính của Cooley đều không phản ánh chính xác được toàn bộ hội nghị, mặc dù báo chí có xu hướng tập trung vào các bài trình bày, vì đó là những thứ đầy màu sắc và gây tranh cãi nhất. Một đánh giá cân bằng hơn đối với hiện trạng nghiên cứu về Jefferson là của Peter Onuf, người kế nhiệm Merrill Peterson trong vị trí Giáo sư Quỹ Tưởng niệm Thomas Jefferson tại Đại học Virginia và Trưởng ban tổ chức hội nghị Charlottesville. Trong một bài nghiên cứu có tựa đề “Jefferson của các học giả” (“The Scholars’ Jefferson”) xuất bản trong số tháng 10 năm 1993 của William and Mary Quarterly , tạp chí học thuật hàng đầu trong lĩnh vực này, Onuf cho rằng uy tín của Jefferson rõ ràng đang sa sút, nhưng chỉ có vài sử gia sẵn sàng theo bước Finkelman, chuyển cách nhìn Jefferson từ người anh hùng thành tội đồ nước Mỹ. Các học giả không hoàn toàn sẵn sàng san bằng Đài tưởng niệm Jefferson hoặc xóa khuôn mặt của ông khỏi núi Rushmore. Mặt khác, sự sùng bái mù quáng với một Jefferson thần thoại vẫn chiếm ưu thế trong văn hóa đại chúng rõ ràng đã đẩy những sinh viên nghiên cứu nghiêm túc về Jefferson đến chỗ tuyệt vọng. Và truyền thống sùng bái quá mức với hai đại diện là Malone và Peterson chắc chắn đã chết trong giới học giả. 18
Onuf đề nghị hai cách hợp lý để hiểu được vấn nạn trong tình hình nghiên cứu hiện tại. Cách thứ nhất, cuộc cách mạng dân chủ mà Jefferson góp phần khởi xướng tại Mỹ giờ đây đã mở rộng, bao gồm cả các hình thức bình đẳng nhân quyền - đặc biệt là bình đẳng về chủng tộc và giới - những nội dung mà Jefferson có thể chưa bao giờ ủng hộ hay thậm chí mường tượng ra. Vì lý do đó, ông là một mục tiêu lớn và hiển nhiên đối với những sử gia đầy cảm hứng tư tưởng và những nhà phê bình chính trị đang lục lại quá khứ Mỹ hòng tìm kiếm những ví dụ ghê gớm của phân biệt chủng tộc, bất bình đẳng giới và thói gia trưởng để tiêu diệt, lôi chúng tới hiện tại như là những chiến lợi phẩm biểu tượng cho sự tồi tệ của thời đại đó. Và ông là mục tiêu hoàn hảo cho sự tìm kiếm này, chính xác vì rất nhiều người dân thường Mỹ quan tâm đến ông. Ông là một giải thưởng gây tranh cãi trong các cuộc chiến văn hóa đang diễn ra. Nếu lịch sử là kiểu chỉ dẫn đáng tin cậy, thi các nhà phê bình có cái nhìn khác biệt hơn đã không có cơ hội giành phần thắng, nhưng ngày càng nhiều người nhấn mạnh rằng Jefferson là một người da trắng phân biệt chủng tộc, sở hữu nô lệ, có khả năng làm suy giảm tiếng tăm anh hùng của ông, vì ý kiến chỉ trích của các học giả đã thấm dần vào văn hóa đại chúng. Sau này, việc nghiên cứu về Jefferson có lẽ chỉ là một sự binh duyệt những nội dung thu hút sắp tới trong thế giới đại chúng rộng lớn hơn.
Cách thứ hai, Onuf cho rằng niềm đam mê với sự phức tạp trong tâm lý được ca tụng của Jefferson đã dần nhường chỗ cho sự thất vọng. Những nghịch lý nổi tiếng hấp dẫn các nhà thơ và tín đồ của “Jefferson hay thay đổi” đã bắt đầu trông giống như những mâu thuẫn tuyệt đối. Onuf mô tả chân dung học thuật mới của Jefferson là “một con quái vật tự lừa dối bản thân”, một người có phong cách vui vẻ quá đà, ngụy trang những lời tẻ nhạt thành sự khôn ngoan chính trị mà Onuf coi là “lá mặt lá trái của văn hóa dân chủ hiện nay”. Sự đa nhân cách của Jefferson không còn được coi là các khía cạnh khác nhau trong một con người thời Phục hưng, mà giống như những lớp cải trang khéo léo của một kẻ liều lĩnh. 19
Từ cuối cùng là của Gordon Wood, thường được coi là sử gia hàng đầu về thời đại cách mạng, ông được đề nghị đánh giá những bài xuất bản sau hội nghị Charlottesville. Wood cho rằng cốt lõi của vấn đề Jefferson không phải là những khiếm khuyết khó tránh khỏi ấy, mà là những kỳ vọng phi thực tế của chúng ta. “Người Mỹ chúng ta phạm lỗi lớn trong việc thần tượng hóa… và biểu tượng hóa những nhân vật có thật”, Wood cảnh báo, “không thể và không nên tách họ ra khỏi thời gian và không gian của họ”. Không nhân vật lịch sử nào mà trong đời thực lại có thể là một anh hùng toàn vẹn, vì những điểm yếu của con người sẽ làm hỏng vị thế thánh thần của người đó. Wood đã viết: “Bằng cách biến Jefferson thành một kiểu anh hùng đạo đức tối cao mà không một ai trong lịch sử từng có thể sánh bằng, chúng ta đã để bản thân mình sa ngã theo những khiếm khuyết thời đại của một chủ nô thế kỷ 18”. 20
Dường như với tôi, quan điểm của Wood khá chuẩn; thực tế, đây là đánh giá đúng mực về vấn đề Jefferson mà người ta muốn nghe giữa tất cả những tuyên bố đanh thép khác. Nhưng cũng có vẻ rất rõ rằng nó hoàn toàn không tạo ra sự khác biệt thực tế. Vâng, có lẽ tất cả chúng ta sẽ cảm thấy ổn hơn nếu người Mỹ chỉ được phép lựa chọn anh hùng (và cả tội đồ) cho mình từ các nhân vật giả tưởng, vì họ sẽ không bao giờ khiến chúng ta thất vọng. Nhưng chúng ta sẽ không và không thể làm thế. Thậm chí chúng ta sẽ cảm thấy ổn hơn nếu loại bỏ hẳn nhu cầu về các anh hùng. Nhưng không có ai trong lịch sử thành văn có thể làm được điều đó, và không có lý do để tin rằng người Mỹ hiện đại sẽ chứng tỏ một ngoại lệ. Hơn nữa, bản năng nghiên cứu để lập ra một trạm kiểm soát an ninh giữa quá khứ và hiện tại nhằm ngăn chặn việc quay về phía sau và tiến lên phía trước, trong khi nó có lợi thế là ngăn chặn được các phe phái có động cơ phá hủy ý thức hệ muốn quay ngược thời gian để nắm bắt những anh hùng và tội đồ phù hợp với mưu đồ chính trị của họ, nhưng cũng có những bất lợi khi biến lịch sử thành một không gian xa cách, không phù hợp, đã qua từ lâu và chỉ có các sử gia ở đó.
Thần đèn Jefferson từ lâu đã thoát khỏi cái đèn lịch sử. Không nên đưa ông trở lại. Bằng chứng về xu hướng tự nhiên của Jefferson thoát khỏi quá khứ và bước vào hiện tại liên tục xuất hiện trên báo chí, kể cả vào lễ kỷ niệm 250 năm ngày mất của ông. Tờ New York Times đưa tin về một phiên tòa giả tưởng đặc biệt do Hội Luật sư Thành phố New York tổ chức, Chánh án William Rehnquist chủ trì, cố gắng buộc Jefferson ba tội: phá vỡ sự độc lập của tư pháp liên bang, sống xa hoa theo phong cách của vua Louis XIV (triển lãm Monticello), và thường xuyên vi phạm Tuyên ngôn Nhân quyền. Mặc dù các công tố viên sở hữu hàng loạt bằng chứng kết tội, nhưng Jefferson vẫn được chứng minh vô tội; luật sư cả hai bên đều xướng tên ông. 21
Trong khi đó, ở Bắc Virginia, tờ Washington Post đưa tin về một cuộc biểu tình ngày càng căng thẳng, chống lại kế hoạch đặt một công viên giải trí Walt Disney mới tại khu vực lịch sử xung quanh các chiến trường của cuộc Nội chiến. Một chủ sở hữu bất động sản giàu có người Iran tên là Bahman Batmaughelidj cũng phản đối. Ông được báo chí gọi là Batman, hóa ra ông là người Iran nhân đức tôi đã gặp tối đó ở Worcester. Ông biết rằng Tập đoàn Walt Disney là nhà sản xuất và phát hành chính bộ phim Jefferson ở Paris (Jefferson in Paris) của hãng Merchant and Ivory, tán thành câu chuyện về mối quan hệ tình ái giữa Jefferson với Sally Hemings. Ông hiện đã quyết định cực lực phản đối công viên giải trí Disney vì Disney đã đồng lõa đổ thêm dầu vào lửa trong vụ bê bối Sally. Batmaughelidj cảnh tỉnh: “Người Mỹ không nhận ra Jefferson và ý tưởng của ông sống mãi trong những niềm hy vọng và ước mơ của người dân ở các nước khác như thế nào. Bộ phim này sẽ phá hủy tất cả. Mọi người trên thế giới sẽ xem nó như là sự thật chưa biết về Jefferson. Và tất nhiên đó là một lời nói dối”. 22
SỰ HỒI SINH, NĂM 1998
Vâng, sự thật chưa biết về câu chuyện Sally Hemings là bằng chứng sẵn có của mỗi bên trong cuộc tranh cãi, đủ để duy trì tranh luận nhưng không đủ để kết thúc cuộc tranh luận đó bằng cách này hay khác. Bất cứ ai tuyên bố có câu trả lời rõ ràng cho câu hỏi kích động nhất về Jefferson trong lịch sử đều tự dối mình hoặc nói dối trắng trợn. Trong hai lần thuyết trình trước các nhân viên và hướng dẫn viên tại Monticello, tôi đều để nghị rằng chúng ta nên khai quật hài cốt của Jefferson để có được mẫu gen cho phép so sánh DNA với hậu duệ Hemings. Dường như với tôi, đó là cách duy nhất để giải đáp điều bí ẩn này. Mọi người tại Monticello chăm chú lắng nghe, đồng tình với đánh giá của tôi về tình hình, nhưng lắc đầu kinh hãi với ý nghĩ mạo phạm tới ngôi mộ của Jefferson là một việc nghiêm trọng. Bên cạnh đó, một số còn cho rằng có lẽ là không đủ bằng chứng vật chất còn lại để xét nghiệm DNA cho các nghiên cứu khoa học đáng tin cậy.
Tôi không biết rằng khoa học hiện đại đang chạy đua để tìm ra một kỹ thuật mới cho phép so sánh DNA mà không cần mẫu gen từ chính Jefferson. Bởi nhiễm sắc thể Y được di truyền nguyên vẹn cho nam giới qua các thế hệ, và hiện nay về mặt khoa học đã có thể thực hiện các phương pháp thí nghiệm tinh vi hơn để xác định những chỉ dấu di truyền trên các nhiễm sắc thể Y mà không cần phải đào Jefferson lên. Một nhóm nghiên cứu do Tiến sĩ Eugene Foster p