← Quay lại trang sách

Chương 1 PHILADELPHIA: 1775-1776

Là dễ dàng để đưa ra những nhận định chắc chắn về con người

Jefferson vào năm 1776 hơn là vào năm 1793 hoặc năm 1800 .

DUMAS MALONE (1948)

⚝ ✽ ⚝

Đó là một nhận định đã lỗi thời về bước khởi đầu lớn [của Thomas Jefferson] (4) . Ngày 20 tháng 6 năm 1775, Thommas Jefferson đến Philadelphia trong một cỗ xe lộng lẫy, được gọi là phaeton, cùng với bốn con ngựa và ba nô lệ. Quãng đường khoảng 300 dặm từ Williamsburg tới đây phải đi mất 10 ngày, phần vì đường sá còn kém và hệ thống biển chỉ dẫn sơ sài - ông đã hai lần buộc phải thuê người hướng dẫn chỉ lại đường - phần vì ông đã nán lại ở Fredricksburg và Annapolis để mua thêm đồ đạc cho đoàn tùy tùng. Là đại biểu bang Virginia trẻ nhất và mới được bầu của Quốc hội Lục địa, rõ ràng ông định phát huy chuẩn mực sành điệu của giới quý tộc Virginia, thứ mà báo chí Philadelphia gần đây đã mô tả với sự ngưỡng mộ và vị nể xen lẫn như những “đấng quân vương kiêu hãnh của phương Nam”… 1

(4) “Đó” ở đây nhằm chỉ nhận định của Dumas Malone ở trên, về việc có thể dễ đưa ra nhận định “chắc chắn” về Jefferson hồi năm 1776 hơn là so với thời kỳ sau. Ngược với quan điểm này, ở đoạn dưới, tác giả nhấn mạnh sự “mơ hồ” của chân dung Thomas Jefferson qua các lời kể về ông thời kỳ này.

Vì vậy, ông đã sắm cho mấy người hầu da đen của mình là Jesse, Jupiter và Richard những bộ cánh sang trọng để tương xứng với một quý ông Virginia chuẩn mực, bao gồm cả roi xà ích cho Jesse, cưỡi ngựa dẫn đầu đoàn. Richard ngồi trong xe với ông chủ của mình; Jupiter, người hầu riêng của Jefferson và đồng hành cùng ông từ thời sinh viên tại Đại học William & Mary, đi sau với hai con ngựa nữa. (Sau này, chính Jupiter là người đi cùng với Jefferson trong hầu hết thời gian đầu và đi vào lịch sử, rồi qua đời vào năm 1800 ngay trước khi Jefferson nhậm chức tổng thống, sau khi uống thuốc do “thầy lang” ở khu nô lệ Monticello pha chế). Hiện không có ghi chép gì về ấn tượng mà đoàn tùy tùng lịch thiệp này đã để lại trong đầu những cư dân Quaker quen sống tằn tiện của Philadelphia, nhưng sự đối lập gay gắt trong tính cách và sự nghiệp của Jefferson đã bắt đầu bộc lộ. Người mà đúng một năm sau đó, đã dự thảo một tuyên ngôn về nhân quyền nổi tiếng và hùng hồn nhất ở nước Mỹ - và có lẽ của cả thế giới - đã bước chân vào chính trường với tư cách một nhà quý tộc đường đường sở hữu nô lệ. 2

Vì vậy, đa phần những gì chúng ta biết về Jefferson thời trẻ là từ những hồi tưởng sau này, khi mà ký ức đã bị bao phủ bởi ánh hào quang xung quanh huyền thoại Tuyên ngôn Độc lập và các giai thoại đã được sắp xếp lại cho phù hợp với những mục đích cá nhân và chính trị khác nhau. Hơn nữa, có một khó khăn mà các chuyên gia về Jefferson gần như không thể vượt qua, đó là trận hỏa hoạn Shadwell, đã phá hủy hầu hết giấy tờ cá nhân của Jefferson vào năm 1770, khiến việc phục hồi thông tin về những năm đầu sự nghiệp của ông chủ yếu dựa trên các phán đoán cảm hứng. Với sự thiếu thốn tư liệu thời gian đầu và thừa mứa từ sau năm 1776, người ta rất dễ, và nhiều khi là không thể tránh khỏi theo một cách nào đó, hiểu về nhà cách mạng non trẻ thông qua vị chính khách già dặn.

Ví dụ, vấn đề về ngoại hình của Jefferson hồi trẻ. Vị đại biểu 32 tuổi của bang Virginia trông thế nào? Tất cả đều nhất trí rằng anh ta cao khoảng 1m87, có lẽ hơn thế vài phân. Tuy nhiên, sau đó bức hình bắt đầu mờ đi. Edmund Bacon, đốc công tại Monticello của Jefferson dưới thời ông làm tổng thống và sau đó nghỉ hưu, nhớ lại rằng “làn da của ông ấy rất sáng và thuần khiết, giống như con người ông ấy nói chung”. Nhưng hầu hết các báo cáo khác, và hầu hết các bức chân dung gần đây nhất, mô tả ông là người có gương mặt đỏ gay và nhiều tàn nhang, với nước da hoặc bị cháy hoặc rạng rỡ, tùy theo cảm giác từng người nhìn. Hình ảnh đương thời duy nhất của Jefferson hồi trẻ, được họa sĩ Pierre du Simitière vẽ bằng bút mực vào năm 1776, cho thấy một khuôn mặt như bị độn cái gì đó với ánh nhìn trống rỗng. Và có lý do để nghi ngờ rằng bức vẽ chưa chắc đã là Jefferson. Nhưng hầu hết những mô tả về Jefferson khi về già đều nhấn mạnh rằng ông có một khuôn mặt “gầy gò” hoặc mỏng tang. Bacon nói rằng ông “không có thịt thừa” - và đôi mắt rất sáng. Màu mắt của ông cũng gây nhiều tranh cãi. Hầu như tất cả các báo cáo sau này đều nói mắt ông màu xanh trong; nhưng những mô tả trước đó, cũng như hầu hết các bức chân dung, lại cho thấy mắt ông có màu hạt dẻ hoặc xanh lá cây. Có lẽ ánh sáng đã khiến màu mắt ông thay đổi. 3

Một trong những người từng là nô lệ của ông, Isaac, nhấn mạnh rằng ông chủ mình có dáng đứng thẳng. “Ông Jefferson có dáng người cao và thẳng nhất mà bạn từng gặp”, ông nhớ lại. “Hiếm có người nào trong thị trấn này có dáng đi thẳng như thế”. Bacon cũng nhất trí rằng Jefferson “thẳng như nòng súng”. Nhưng những người khác, chủ yếu là kẻ thù, mô tả ông là người oặt oẹo và lúc nào cũng chực sụp xuống, toàn bộ cổ tay, khuỷu tay và mắt cá chân. Sự khác biệt trong cách mô tả có thể là do các tư thế khác nhau. Khi đứng thẳng, ông có đôi vai vuông vức và dáng điệu trịnh trọng. Ông cúi chào mọi người mình gặp và hay đứng khoanh tay trước ngực, xác lập không gian riêng của mình và để phòng những người có ý xâm phạm. Tuy nhiên, khi ngồi, ông dường như hòa vào nêm ghế, dáng vặn vẹo, bên hông này lệch lên, bên hông kia lệch xuống, vai thõng xuống và vẹo sang bên, phần thân gập lại ở vài chỗ, chỗ như dao xếp, chỗ như đàn accordion.

Hai đặc điểm nổi bật nhất của ông là mái tóc và thường hát suốt ngày. Không như những bất đồng về màu mắt, những bất đồng về màu tóc của ông dường như dễ hòa giải hơn. Tóc ông màu vàng đỏ hoặc đỏ cát. Số ít người khi kể lại đã mô tả tóc ông màu xám là về sau này, khi tuổi tác làm sắc đỏ nhạt đi nhưng không làm thay đổi chi tiết phụ làm nên sự hoàn hảo tự nhiên nơi ông, đó là ít khi ăn diện và thậm chí không thường xuyên rắc bột (5) hay đội tóc giả. Ông hay buộc tóc ra sau khi ngồi, lỏng lẻo và để rối tự nhiên.

(5) Rắc bột lên tóc, một cách phục sức trước đây của đàn ông phương Tây.

Ông hát mỗi khi đi bộ hoặc cưỡi ngựa, đôi khi trong lúc đọc sách. Isaac kể lại rằng “hiếm khi người ta nhìn thấy ông ấy ở bên ngoài, nhưng lại thường nghe thấy ông ấy hát”. Bacon cũng xác nhận rằng “khi ông ấy không nói chuyện thì ông ấy gần như luôn ngân nga một giai điệu nào đó, hoặc khẽ hát cho mình nghe”. Rõ ràng việc hay hát này là một thói quen đã có từ lâu. Vì vậy, nếu tin vào những điều trên, ta có thể hình dung Jefferson tới Philadelphia vào năm 1775 trong cỗ xe phaeton cùng với ngựa và nô lệ của mình, hình ảnh một thanh niên cao ráo mảnh khảnh tới từ Virginia có mái tóc vàng đỏ, ngồi rụt rè, thờ ơ, và khe khẽ hát. 4

JEFFERSON THỜI TRẺ

Những chi tiết quan trọng về thời thanh niên của ông, chí ít là các mảnh thông tin căn bản về tiểu sử, không mù mờ bằng hình ảnh bể ngoài của ông. Jefferson sinh ra tại Shadwell, hạt Albemarle, Virginia, ở chân núi Blue Ridge vào năm 1743. Chuyện kể rằng ký ức đầu đời của ông, khi ông chỉ khoảng 3 tuổi, “được đặt vào một cái gối và được một nô lệ cưỡi ngựa mang đi từ Shadwell đến Tuckahoe”, có lẽ đây là một kiểu dự cảm cho chuyến đi tới Philadelphia của ông. Cha của ông, Peter Jefferson, là một chủ đồn điền khá giả, nổi tiếng trong vùng là người khỏe mạnh, thích phiêu lưu như một nhà thám hiểm và khám phá vùng đất phía Tây. Khi qua đời năm 1757, Peter đã để lại 200 con lợn, 70 đầu gia súc, 25 con ngựa, 60 nô lệ, sáu con gái, hai con trai và bà vợ góa Jane Randolph Jefferson.

Người ta biết rất ít về bà (lại là do trận hỏa hoạn Shadwell), trừ việc là một người mang họ Randolph và xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất Virginia. Có lý do để tin rằng mối quan hệ của Jefferson với mẹ khá căng thẳng, đặc biệt sau cái chết của cha, là con trai cả, ông đã làm mọi cách có thể để loại bỏ sự giám sát của mẹ. Nhưng tất cả những suy đoán về điều này thực ra chỉ đơn thuần là suy đoán mà không có bằng chứng rõ ràng. Sau khi học xong tiếng Latin và Hy Lạp ở trường tư trong vùng, ông học tiếp lên Đại học William & Mary vào năm 1760. Ở đấy, ông nổi tiếng trong đám bạn cùng học như là một sinh viên chăm chỉ, đôi khi dành hẳn 15 tiếng để đọc sách, ba tiếng tập violon và sáu tiếng còn lại ăn và ngủ. Ông là một thanh niên cực kỳ nghiêm túc. 5

Sau khi tốt nghiệp năm 1762, ông tiếp tục lối sống kỷ luật cao độ của mình khi học tiếp về luật tại Williamsburg dưới sự hướng dẫn của George Wythe (phát âm là with ). Sau năm năm đằng đẵng tập sự, ông bắt đầu ra làm riêng, chủ yếu đại diện cho các chủ đồn điền quy mô nhỏ ở các hạt miền Tây trong các vụ liên quan đến đòi quyền đất đai và tước hiệu. Mặc dù ông không có đột phá gì về mặt luật pháp và cũng chẳng xử lý vụ nào đáng chú ý, nhưng ông nổi lên ở Tòa án Williamsburg như một luật sư có sự chuẩn bị cực kỳ tốt, một người phát ngôn trung lập trước tòa và một học giả về luật pháp đáng nể. 6

Năm 1768, ông đã có hai quyết định quan trọng: thứ nhất, xây dựng nhà riêng của mình trên đỉnh một ngọn núi cao khoảng 264 mét thuộc điền sản ông được thừa kế từ cha mình; thứ hai, tự ứng cử vào Hạ viện vùng. Quyết định đầu tiên phản ánh điều mà sau này trở thành sự thôi thúc suốt đời ông, đó là được rút vào thế giới riêng của mình. Lúc đầu ông đặt tên cho ngôi nhà tương lai của mình là The Hermitage, (6) một nơi khép kín và chẳng mấy chốc đã trở thành Monticello, ngôi biệt thự trên núi và là dự án kiến trúc cả đời của ông. Quyết định thứ hai phản ánh tham vọng chính trị của ông và tiếng tăm ngày càng tăng ở vùng đất xa xôi Old Dominion, cũng như vị trí mới nổi của ông trong giới thượng lưu chủ đồn điền vùng Tidewater. Ông có một ghế ở Hạ viện vùng vào tháng 5 năm 1769, rồi nhanh chóng nằm dưới sự bảo trợ của hai nhân vật quan trọng vùng Tidewater: Peyton Randolph, ông cậu đằng mẹ của Jefferson, một nhân vật quyền lực nhất trong cơ quan lập pháp; và Edmund Pendleton, một nhà biện giải sắc sảo và nổi tiếng nhanh nhẹn của giới quý tộc chủ đồn điền. 7

(6) Tức nơi ẩn dật.

Vào ngày đầu năm mới năm 1772, ông hoàn thiện hình ảnh “gia trưởng” đầy cảm hứng của mình bằng việc kết hôn với Martha Wales Skelton, một góa phụ trẻ hấp dẫn và tinh tế, có của hồi môn nhiều gấp đôi số đất đai và nô lệ của Jefferson. Hôn nhân dường như đã giúp cho ông trở nên vững vàng. Cho đến đầu thập niên 1770, những sổ sách thường nhật và kế toán khác nhau mà ông dùng để ghi chép các giao dịch và bài viết cứ như do những người khác nhau viết nên. Chữ viết tay trong những sổ sách này khác nhau một trời một vực về độ nghiêng, lối viết và khoảng cách giữa các từ. Khi ông lấy vợ, việc thử nghiệm vô thức này đã dừng lại; văn phong của ông đi vào quy củ với hình thức rõ ràng, khiêm tốn và cứ vậy cho tới lúc ông về già, và giờ đây được lưu giữ trong dự thảo ban đầu của Tuyên ngôn Độc lập. 8

Mặt khác, bản sắc chính trị của ông vẫn không rõ nét và nằm bên lề. Hình ảnh sống động đầu tiên của Jefferson ở Hạ viện vùng có tính tượng trưng. Như một sinh viên luật trẻ ở Williamsburg, ông đứng trong sảnh Hạ viện, nghe Patrick Henry hùng hồn tranh biện để phản đối Đạo luật Tem năm 1765. Jefferson là một người thích lắng nghe và quan sát, đặc biệt không thoải mái khi phải đứng dưới ánh đèn sân khấu, sự nhút nhát và lo lắng thể hiện trong tính cách mất tập trung của ông đôi khi khiến người ta nhầm lẫn với sự kiêu ngạo. 9

Từ những ngày đầu ở Hạ viện, ông đã phản đối mọi hình thức đánh thuế của Quốc hội và ủng hộ các nghị quyết về không nhập khẩu để chống lại các quy định thương mại của Anh. Nhưng những thành viên khác của Hạ viện cũng làm vậy, cùng với toàn bộ giới lãnh đạo Tidewater. (Năm 1771, quan điểm chính trị cấp tiến của ông lại va phải kế hoạch cá nhân khi ông đặt hàng một cây đàn piano đắt tiền từ London, “cây đàn bằng gỗ gụ đẹp, chắc chắn, không phải gỗ dán”, nằm trong kế hoạch đám cưới của ông với Martha. Mặc dù vi phạm nghị quyết không nhập khẩu, nhưng ông vẫn yêu cầu gửi cây đàn và nói rằng ông sẽ để nó trong kho cho đến khi lệnh cấm vận được dỡ bỏ. Điều tương tự cũng xảy ra ba năm sau đó khi ông đặt “cửa sổ trượt” cho biệt thự Monticello). Giống với hầu hết những chính khách đương thời, ông hiện diện một cách phảng phất và lặng lẽ, như một trong những người ngoại quốc tại bữa tiệc tối, họ sẽ gật đầu một cách lịch sự khi di chuyển từ nhóm này sang nhóm khác nhưng không bao giờ để lộ việc họ nói hay không nói được tiếng bản địa. Ông có một ác cảm sâu xa với sự ganh đua và hỗn độn vốn có trên chính trường. Ông luôn nói với bạn bè rằng cuộc sống trên sân khấu trước công chúng không dành cho mình. Ngay từ lúc bắt đầu sự nghiệp chính trị, ông dường như đã sẵn sàng muốn nghỉ hưu. 10

Nếu xét đến vai trò sau này của ông trong Quốc hội Lục địa và sau đó là trong công cuộc định hình Cách mạng Mỹ, thì việc ông chọn tham gia vào đoàn dại biểu Virginia ở Philadelphia là một tai nạn may mắn. Jefferson đã không được bầu vào đoàn đại biểu ban đầu năm 1774; ông không được coi là một nhân vật đủ nổi bật để tham gia đoàn cùng những cái tên như George Washington, Patrick Henry, Edmund Pendleton và Peyton Randolph. Tuy nhiên, năm 1775, ông đã được chọn làm người thay thế dự bị cho Randolph - Jefferson được coi như con đỡ đầu trong chính giới của Randolph - dự kiến là Randolph sẽ từ bỏ vị trí của mình tại Philadelphia để quay về phụ trách một việc được coi là quan trọng hơn ở Virginia. Công bằng mà nói thì Jefferson đã được xếp vào danh sách những nhân vật có tiếng trong chính giới ở Old Dominion, nhưng chỉ ở mức vừa phải, chủ yếu là nhờ ông có quan hệ họ hàng và nhận được sự bảo trợ từ những người trong nhóm Randolph. Nếu việc ông đến Philadelphia vào tháng 6 năm 1775 được coi là đã đánh dấu sự tham gia của ông vào chính trường, thì ông đã bước vào bằng cửa phụ. 11

NHỮNG NGUYÊN TẮC WHIG

Sự dè dặt và mờ nhạt của Jefferson lại có một ngoại lệ quan trọng. Chính điểm này ở ông đã khiến những đại biểu đến từ các thuộc địa khác biết đến chàng thanh niên Jefferson. “Tôi chưa bao giờ đồng hành với ông ấy”, Samuel Ward kể lại thời điểm sau khi Jefferson đến, nhưng “ông ấy có vẻ là một người tốt, mạnh mẽ, hiểu chuyện, và theo như cuốn sách ông ấy đã viết mùa hè trước thì hẳn ông ấy đúng là người như thế”. Tương tự như vậy, John Adams kể lại rằng Jefferson bước chân vào Quốc hội Lục địa, mang theo “danh tiếng của một cây bút bậc thầy… hệ quả từ một tài liệu hay ho ông đã viết cho Hạ viện vùng, đem lại cho ông đặc điểm của một tay viết cừ”. 12

Tài liệu ấy chính là cuốn sách nhỏ mà Jefferson đã phần nào tình cờ công bố năm trước. Tháng 7 năm 1774, ông đã tự soạn thảo một tập hợp các hướng dẫn cho đoàn đại biểu đầu tiên của Virginia tại Quốc hội Lục địa. Ông đã chọn cách tránh né điển hình là cáo bệnh để không phải tham gia tranh luận trong Hội nghị Virginia, nhưng bạn bè lại thu xếp để một tờ báo ở Williamsburg đăng tải dự thảo của ông. Từ đó, các nhà in và các biên tập viên báo chí trên khắp các thuộc địa đã gọi cuốn sách nhỏ của ông với tiêu đề Quan điểm tóm tắt về quyền của Mỹ dưới sự cai trị của Anh (A Summary View of the Rights of British America).

Các nhà lập pháp Virginia là độc giả mà những chỉ dẫn của Jefferson thật sự định nhắm đến, nhưng họ đã không đi theo các chỉ dẫn ấy, mà chủ trương áp dụng một thái độ ôn hòa hơn với Anh. Những kiến nghị của Jefferson, và những gì đã đặt cơ sở cho uy tín chính trị của ông bên ngoài Virginia, rõ ràng là cực đoan hơn. Thật vậy, nếu tin vào những luận điểm trong Quan điểm tóm tắt , ta sẽ thấy Jefferson chính là người đi tiên phong trong phong trào cách mạng ở Mỹ. 13

Lối viết của Quan điểm tóm tắt giản dị và dứt khoát, báo hiệu trước khí chất rồi sẽ xuất hiện sau này trong một số đoạn của Tuyên ngôn Độc lập (ví dụ, “Những hành vi độc tài đơn độc có thể được coi như ý kiến ngẫu nhiên hiện thời, nhưng một loạt các áp bức, bắt đầu tại một thời kỳ nhất định, và tiếp tục bất biến dù bộ máy chính quyền đã thay đổi, đã chứng tỏ quá rõ ràng rằng có một kế hoạch có hệ thống và cố ý nhằm biến chúng ta thành nô lệ”). Tuy nhiên, điều mà hầu hết độc giả nhận thấy, và sau này Jefferson cho là đóng góp chính của ông, đó là những lập luận pháp lý rằng Nghị viện Anh không có quyền áp đặt bất kỳ điều gì lên các thuộc địa. Trong khi quan điểm này không được thể hiện rõ trong các tài liệu phản đối chế độ thuộc địa kể từ cuộc khủng hoảng Đạo luật Tem năm 1765, thì sự rõ ràng trong trường hợp của thuộc địa đã đụng chạm tới những điểm đặc biệt phức tạp. Giả sử, Nghị viện không có quyền đánh thuế đối với thuộc địa nếu không có sự đồng ý của họ, nhưng phải chăng Nghị viện không có quyền điều tiết thương mại? Đúng, Nghị viện không có quyền, nhưng sẽ được phép làm thế khi mục đích của việc điều tiết thương mại là nhằm tăng doanh thu. Nhưng vậy thì làm thế nào để đánh giá được mục đích? Và còn những hành động lập pháp khác của Nghị viện, ví dụ như đóng quân tại các thành phố thuộc địa và đóng cửa cảng Boston, thì sao? Những câu hỏi dai dẳng này được nêu ra làm cho vấn đề pháp lý hơi phức tạp. Phải chăng có một số việc này Nghị viện có thể làm nhưng một số việc khác thì không? Nếu vậy, làm sao để quyết định việc nào với việc nào? Sức hấp dẫn chính của Quan điểm tóm tắt là Jefferson đã xuyên qua mớ câu hỏi hỗn độn này bằng một nhát cắt sắc bén: “Nghị viện Anh không có quyền áp đặt lên chúng ta”. 14

Thời điểm ra đời của cuốn sách cũng rất đúng lúc. Một số người bất đồng với chế độ thuộc địa - John Adams ở Massachusetts và James Wilson ở Pennsylvania - lúc này cũng rút ra cùng một kết luận rằng Nghị viện không có quyền đối với thuộc địa. Như đã đề cập trước đó, theo logic, điều này sẽ dẫn tới phong trào phản đối thực dân khắp nơi bắt đầu từ năm 1765. Nhưng Jefferson đã đặt nền móng pháp lý cho luận điểm này ngay khi nó trở thành một quan điểm duy nhất đứng vững để những người phản đối chính sách đế quốc Anh lấy đó dựa vào. Và ông đã làm điều đó trong cuốn sách, vừa như một bản tóm tắt pháp lý súc tích và thực tế, vừa có tính trào phúng của một bài giảng chính trị. 15 .

Hai luận điểm nổi bật khác của Quan điểm tóm tắt ít được chú ý vào thời điểm đó, nhưng vào những tháng sau này đã được mở rộng trong các cuộc tranh luận trong Quốc hội Lục địa. Thứ nhất là cách đối xử của Jefferson với George III và thái độ của nhà vua đối với nền quân chủ Anh. Phản ứng của hầu hết độc giả đối với Quan điểm tóm tắt tập trung vào điểm Jefferson phủ nhận quyền áp đặt của Nghị viện, bởi đó là vấn đề bức xúc về mặt pháp lý mà các cơ quan lập pháp thuộc địa khác nhau đều phải đối mặt. Có một điều mà nhiều người không để ý là Jefferson đã tiến một bước đến mục tiêu kế tiếp, đó là chế độ quân chủ mà trên thực tế chính là trở ngại duy nhất còn lại ngăn cản việc tuyên bố độc lập của Mỹ. Nói cách khác, bản cáo trạng dài dòng phản đối nhà vua mà ta thấy đã chiếm mất hai phần ba Tuyên ngôn Độc lập thực ra đã được thai nghén trong Quan điểm tóm tắt .

Thái độ của Jefferson đối với chế độ quân chủ trong Quan điểm tóm tắt mang tính tuyên bố hơn là ai oán, và giọng điệu của ông khi nói về George III vừa thể hiện sự thiếu tôn trọng vừa có ý tố cáo. Nhà vua không phải là một đấng trị vì trời phú mà chỉ đơn thuần là “người đứng đầu nhân dân theo luật định, và bị hạn chế bởi quyền năng nhất định nhằm hỗ trợ sự hoạt động của cỗ máy chính phủ khổng lồ, được dựng lên để phục vụ chính kẻ trị vì, và do đó phải chịu sự giám sát của kẻ đó”. Jefferson đã không đổ lỗi cho Nghị viện hoặc “Những bộ trưởng xấu xa của nhà vua” vì sự quản lý nước Mỹ yếu kém của cả bộ máy chính sách đế quốc, cách tiếp cận được chấp nhận ngay cả trong phái cấp tiến. Thay vì thế, ông biến nhà vua trở thành kẻ đồng lõa trong những tội ác chống lại quyền của các nước thuộc địa. Ông cáo buộc George III về tội cẩu thả: cho phép hội đồng thuộc địa giải thể; từ chối nghe kháng cáo của bên bị hại; trì hoãn việc thông qua cải cách ruộng đất. Tuy nhiên, ông cũng đã buộc tội nhà vua về những hành vi hoàn toàn phi pháp của chính nhà vua: gửi lính có vũ trang vào các thành phố thuộc địa để dập tắt biểu tình hợp pháp; nghiêm cấm cư dân vùng thuộc địa di cư tự nhiên vượt quá ranh giới dãy núi Appalachian. Ông thậm chí còn đưa lời cáo buộc làm dấy lên một cuộc tranh cãi nảy lửa này vào bản dự thảo ban đầu của Tuyên ngôn Độc lập, cụ thể là George III đã duy trì sự tồn tại của chế độ chiếm hữu nô lệ bằng cách liên tục ngăn cản các nỗ lực của thuộc địa trong việc chấm dứt việc buôn bán nô lệ châu Phi. Trong thực tế, khi có điều kiện nhìn lại, ta có thể thấy cuốn Quan điểm tóm tắt là một dự thảo sơ bộ của bản cáo trạng chống lại George III có trong bản Tuyên ngôn, được viết tròn hai năm trước văn bản nổi tiếng hơn và thậm chí là trước cả khi Jefferson có một ghế trong Quốc hội Lục địa. 16

Thứ hai, thậm chí quan trọng hơn, là Quan điểm tóm tắt , vào lúc đó đã không được quan tâm, còn bộc lộ tâm tư của Jefferson ở buổi ban đầu trong sự nghiệp chính trị của ông. Đó là một phiên bản tinh vi và chủ yếu mang tính truyền thuyết của lịch sử Anh. Trong bối cảnh mong muốn chống lại sự lạm dụng quyền lực của chế độ quân chủ, Jefferson đả chèn thêm một đoạn dài, trong đó ông đã lần về nguồn gốc của sự lạm dụng, đó là cuộc chinh phục của người Norman. Nguồn gốc vấn đề thuộc địa của chính quyền Anh không phải là từ cuộc khủng hoảng Đạo luật Tem năm 1765, mà vấn đề thật sự bắt đầu từ năm 1066, khi người Norman đánh bại người Saxon trong trận Hastings. Đây là nguồn gốc của cái mà Jefferson gọi là “nguyên tắc tưởng tượng trong đó mọi vùng đất ban đầu đều thuộc về vua…” Toàn bộ lịch sử Anh kể từ cuộc chinh phục của người Norman đã là một sự lầm lạc không may, được biết đến với tên gọi chế độ phong kiến, rồi sau đó phát triển thành một hình thức độc ác nhất, đó là quyền lực tuyệt đối của hoàng gia ở các thuộc địa. Jefferson theo đuổi “nguyên tắc tưởng tượng” của mình bằng việc gợi ý tìm hiểu về quá khứ Saxon của Anh trước khi bị người Norman chinh phục, về cái thời trước đây trong những khu rừng ở Đức có một nhóm người sống tự do và hòa hợp, không có vua hoặc lãnh chúa cai trị, họ làm việc và sở hữu đất đai như những chủ thể có chủ quyền. 17

Kiểu diễn giải “chuyện xưa kể rằng” của Jefferson về sau được biết đến như kiểu diễn giải lịch sử của Đảng Whig, đáng được quan tâm nghiên cứu như một đầu mối quan trọng trong việc tìm hiểu bản năng trí tuệ sâu xa nhất của Jefferson. Ông đã được tiếp xúc với câu chuyện trung tâm của lịch sử Whig qua một số cuốn sách ông đọc thời trẻ, chủ yếu là tuyển tập Lịch sử Anh (History of England) của Paul de Rapin và Lịch sử chế độ sở hữu phong kiến ở Anh (History of Feudal Property in Great Britain) của Ngài John Dalrymple. Ông cũng đã từng đọc bản dịch cuốn Germania của Tacitus, nguồn tài liệu chủ yếu của các sử gia Whig vì có phần mô tả mô hình Saxon của chính phủ đại diện trước khi bị chế độ quân chủ phong kiến làm vấy bẩn. Vì vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, những tác phẩm tiêu chuẩn về lịch sử Whig mà Jefferson đọc thời trẻ đã giúp định hình tư duy chính trị của ông trước năm 1776, và là một lý do để ông thường xuyên liên hệ “các nguyên tắc Whig cổ xưa” với suối nguồn các giá trị căn bản trong phong trào giành độc lập của Mỹ. Nhưng sự hấp dẫn của lịch sử Whig bắt nguồn từ một thứ khác, mạnh hơn lối biện luận hay tính logic của nó. Chúng có sức ảnh hưởng chính là bởi câu chuyện mà chúng kể lại cực kỳ hợp với cách tư duy của ông. Lối hành văn lãng mạn của chúng về một quá khứ hoang sơ, về một thời kỳ dài đã mất và về nơi con người từng sống với nhau rất hòa hợp mà không cần luật pháp cưỡng chế hoặc những kẻ cai trị khát máu, đã định hình lối viết trần thuật để trí tưởng tượng của Jefferson và những ảo vọng chôn sâu trong nhân cách của ông bay bổng. Lịch sử Whig đã không tạo nên những mơ mộng lãng mạn trong ông, mà nó đã biến những hy vọng và tầm nhìn sẵn có trong tâm trí và trái tim ông thành con chữ.

Trong những tháng đầu ở Philadelphia, Jefferson quan tâm đến việc chia sẻ ý nghĩa thực tế của những nguyên tắc Whig với các đại biểu đồng nghiệp của mình hơn là nghiên cứu sự thâm sâu của chúng. Thuật ngữ chủ chốt ở đây là “biệt xứ”. Ý tưởng cốt lõi ở đây là các giá trị Saxon gốc ẩn chứa trong nước Mỹ. Suốt mùa thu và mùa đông năm 1775, Jefferson chuyên tâm nghiên cứu cuốn Những cuộc hành trình (Voyages) của Richard Hakluyt, nhằm thu thập tài liệu làm bằng chứng cho tuyên bố rằng những người di cư đầu tiên từ Anh đến Mỹ đã phải tự chi phí cho chuyến đi của mình, “không được trợ cấp bởi của cải hay sức mạnh của Anh”, và quan trọng nhất, họ coi việc di cư là một cách cắt đứt hoàn toàn với mẫu quốc. Nếu đúng, đây chính là lịch sử được xét lại với những kết quả mang tính cách mạng nhất, vì nó cho thấy việc độc lập khỏi Anh không phải là một viễn cảnh tương lai nào đó mà Jefferson và các đại biểu đồng nghiệp của ông trong Quốc hội Lục địa đã dự tính nghiêm túc; mà đây là một sự kiện đã xảy ra trong quá khứ mù sương. 18

Lý thuyết về biệt xứ là hoàn toàn và căn cứ về mặt lịch sử. (Jefferson bám vào lý thuyết này với sự kiên trì gần như ám ảnh suốt cuộc đời mình, dù ngay cả ông cũng thừa nhận rằng: “Tôi chưa bao giờ buộc được ai đồng ý với mình ngoài thầy Wythe”, giáo viên luật cũ của ông). John Adams cũng vừa mới công bố khảo sát của mình về lịch sử thuộc địa, với tác phẩm Novanglus , trong đó ông cũng tìm kiếm các nguồn gốc của việc Mỹ tuyên bố độc lập khỏi sự kiểm soát của Hoàng gia và Nghị viện. Nhưng thay vì một quá khứ Saxon thần bí, Adams lại phát hiện ra một mạng lưới phức tạp của các tiền lệ chồng chéo và quyền tài phán trong tranh chấp. Điều này đúng hơn với sự hỗn độn cố hữu trong lịch sử Anh và thuộc địa, vốn đã chứng kiến nhiều thay đổi lớn trong mối quan hệ giữa quyền lực Hoàng gia và Nghị viện ở thời kỳ thuộc địa, sự khác biệt căn bản giữa các đặc quyền phụ thuộc vào thời điểm thành lập của các thuộc địa khác nhau, và duy nhất việc nhận thức dần dần về một phần thẩm quyền của Anh rằng họ đang giám sát một đế chế trên thực tế. Lý thuyết biệt xứ của Jefferson có cùng quan hệ với lịch sử thuộc địa giống như khúc hát tuổi thơ trong tiểu thuyết kiểu Jamesia. Đó chắc chắn là một phần hấp dẫn của nó. 19

Khao khát sáng tạo và nắm bắt những tưởng tượng quyến rũ ấy của Jefferson không phải là một nỗ lực có dụng ý tuyên truyền. Jefferson tin vào những gì ông viết. Đúng là ông đã lợi dụng các bằng chứng lịch sử vào mục đích lớn hơn. Kỹ năng trí tuệ của Jefferson, ví dụ như trong việc quy trách nhiệm cho George III về việc buôn bán nô lệ, có thể được giải thích như là một mưu đồ thông minh. Không một ai tỉnh táo lại đi tin điều đó, nhưng phải công nhận đó là một miêu tả sai lạc nhưng hữu ích về chính trị. Tương tự là phiên bản vui mắt của Tiệc trà Boston trong Quan điểm tóm tắt . Theo như mô tả của Jefferson, một nhóm trung thành với Boston đã phá hoại một tàu hàng lậu, bất chấp việc có thể bị bắt giữ và truy tố. Samuel Adams, một nhân vật quan trọng trong Quốc hội Lục địa và cầm đầu Tiệc trà, hẳn phải cười khẩy mãn nguyện khi ông ta biết rằng “những người trung thành với Boston” thực ra là một nhóm côn đồ và phá hoại giả làm người da đỏ để tránh bị lộ tung tích, họ cũng nhận được sự ủng hộ ngầm từ những thương gia Boston, nên nhiều người trong số đó đã phất lên nhờ buôn lậu. Sam Adams nhận ra rằng Tiệc trà là một vở diễn được dàn dựng của sân khấu cách mạng. Jefferson đã mô tả nó như một hành động tự phát của chủ nghĩa yêu nước, được tiến hành theo nghi thức của một buổi tiệc trà. Nhưng rồi một lần nữa, có lẽ phiên bản của Jefferson tự thân nó chính là một động thái tuyên truyền, được dàn dựng có ý thức như chính Tiệc trà. 20

Tuy nhiên, huyền thoại Saxon và thuyết biệt xứ lại là một vấn đề khác. Chúng không phải là những sự bóp méo khôn ngoan và cố ý. Chúng là sự bịa đặt hoàn toàn. Và Jefferson rõ ràng tin đó là sự thật. Đặc điểm nổi bật của chúng là mang màu sắc của một thế giới khác và gần như một câu chuyện cổ tích. Lịch sử đầy rẫy những nhân vật khôn ngoan và xuất chúng, sự vĩ đại của họ bắt nguồn từ quyết tâm tin vào những điều mà rốt cuộc lại là một tập hợp các ảo tưởng. Nhưng ảo tưởng của Jefferson có đặc điểm là ủy mị và trẻ con tới mức khó tin. Vì đặc điểm chủ chốt trong tư duy trưởng thành của Jefferson là, một mặt ông có cảm tình với những tầm nhìn được lý tưởng hóa và bình dị, mặt khác ông lại chối bỏ bằng chứng chứng tỏ những tầm nhìn ấy chỉ là hão huyền, do đó ta cần phải đặt câu hỏi xem đặc điểm này từ đâu ra.

Lời giải thích được ẩn giấu trong các nếp gấp bên trong nhân cách của Jefferson, ngoài tầm với của các phương pháp lịch sử truyền thống và vũ khí bằng chứng. Những gì chúng ta có thể nhận ra ở đây là một kiểu hành vi thu mình lại, cho thấy rõ ràng có vấn đề về mặt tâm lý. Chàng thanh niên Jefferson đã thể hiện mình là một người có tính cách cực kỳ khép kín. Monticello cho ta một minh chứng mạnh mẽ nhất về nhu cầu của Jefferson là rút khỏi thế giới vốn đầy rẫy xung đột và áp bức giữa người với người để tạo ra một nơi trú ẩn có lối kiến trúc Palladian hoàn hảo, thiết lập môi trường lý tưởng cho tầm nhìn của ông về sự hài hòa bên trong. Và ông hay nói về mong muốn có một nơi trú ẩn an toàn khỏi sự hỗn độn và rối loạn của thế giới bằng những thuật ngữ rõ ràng là khoa trương. “Có thể có những người mà với tâm tính của họ thì họ sẽ hài lòng với việc đấu đá”, ông viết cho John Randolph năm 1775, “nhưng với tôi, trong tất thảy mọi thứ, đó lại là thứ kinh khủng nhất”. Ông rất thích “rút lui hoàn toàn khỏi sân khấu đại chúng và dành phần còn lại trong đời mình để nội tâm thư giãn và tĩnh lặng, xua tan mọi ham muốn sau tất cả, lắng nghe những gì đang trôi qua trên thế giới”. Người học trò khôn ngoan nhất, khi phải xây đi xây lại Monticello để nó trở thành nơi hoàn hảo và là một “chuyến du lịch bí ẩn huyền diệu của trò ảo thuật kiến trúc”, đã kết luận rằng nỗi ám ảnh cả đời của Jefferson về việc “xây rồi lại đập” tốt nhất nên được hiểu là một hình thức “trò chơi thời thơ ấu áp dụng vào thế giới người lớn”. Cả những kỳ vọng mà Jefferson ấp ủ trong cuộc sống riêng tư của ông nơi ngôi biệt thự trên núi, và cách mà ông cố gắng để thiết kế và xây dựng nó, cho thấy một mức độ đam mê thường thấy ở một thời tuổi trẻ. 21

Rất ít thư từ cá nhân từ thời trẻ của ông còn sót lại đến nay, và chúng cho thấy một thiên hướng lãng mạn kiểu trẻ con ấy. Ở tuổi 20, ngay sau khi tốt nghiệp trường William & Mary, Jefferson đã viết cho người bạn thân nhất của mình là John Page: “Page ạ, tôi rất tin là mình sẽ chết sớm, và dù tôi không thể đưa ra lý do cho việc đó, nhưng tôi mệt mỏi với cuộc sống. Tại thời điểm khi tôi đang viết những dòng này, tôi gần như không nhận ra mình đang tồn tại. Tạm biệt, Page thân mến”. Vài tháng sau, ông báo với Page cảm giác bẽ bàng khi phát hiện ra mối tình si của mình với Rebecca Burwell, một người đẹp gợi cảm lúc đó đang ở Williamsburg, là một sự vô vọng. Jefferson đã lại gần cô trong một buổi khiêu vũ tại phòng Apollo của quán rượu Raleigh, nhưng lưỡi ông dính chặt và Rebecca thì chẳng hề quan tâm. “Tôi đã chuẩn bị trong đầu, những suy nghĩ đến với tôi, tôi cố nói năng lưu loát hết mức có thể, và hy vọng mình hành xử nhã nhặn ở mức chấp nhận được”, ông giải thích. “Nhưng, Chúa ơi!” 22

Một mặt, những mẩu bằng chứng như thế cho thấy Jefferson là hình ảnh thu nhỏ của các thiếu niên tự ti (mặc dù trong thực tế, ông đã 20 tuổi tại thời điểm thất tình với Rebecca Burwell). Tuy nhiên, mặt khác, chúng lại cho thấy hình ảnh thoáng qua của một người trai trẻ dễ bị tổn thương, quen xây dựng thế giới nội tâm đầy những hấp dẫn tưởng tượng tuyệt vời mà chắc chắn sẽ xung đột với thực tại. Thay vì điều chỉnh kỳ vọng của mình khi đối mặt với nỗi thất vọng, ông lại chôn chặt chúng vào lòng, coi sự cách biệt giữa những lý tưởng của mình với sự không hoàn hảo của thế gian là vấn đề của mọi người chứ không phải của riêng mình. 23

Sự gắn bó kỳ lạ của Jefferson lúc đó với truyền thuyết về quá khứ Saxon là một biểu hiện thời kỳ đầu về mặt tư tưởng của lối tư duy đặc trưng kiểu Jefferson. Nó đại diện cho phát hiện của ông - đúng hơn là phát minh của ông- về một thời kỳ bình dị và một nơi hợp với ý thức mạnh mẽ của ông về cách thức mà đáng lẽ mọi thứ nên diễn ra. Và bất kỳ sự thỏa hiệp nào với ảo mộng quyến rũ ấy đều sẽ phản bội lại các nguyên tắc cá nhân của mình. Trở lại thế giới xa xôi của Anh trước khi có người Norman, trước cả những tệ hại phong kiến, nam giới và nữ giới có thể kết hợp sự độc lập cá nhân với sự hòa hợp xã hội, tự do cá nhân với thượng tôn pháp luật, nhu cầu làm việc với ham muốn vui chơi. Cả đời mình, Jefferson bị ám ảnh bởi những viễn tưởng về một thiên đường như vậy và mong muốn tìm thấy nó trong các cảnh đồng quê, các bộ lạc da đỏ xa xôi, những khu vườn tỉa tót, những cộng đồng địa phương (sau này ông gọi họ là cộng hòa xã), hoặc những thế hệ mới và do đó chưa bị mua chuộc. Ở cấp độ cá nhân, chàng trai trẻ đang có Demosthenes của người Mỹ (và hy vọng số phận sẽ chọn ông cho cả hai vai trò). Các mục nhật ký của ông thể hiện một tinh thần tràn ngập các cuộc tranh luận, đó là tinh thần mà mỗi người khi đứng lên phát biểu đều được các đồng nghiệp của mình đánh giá như một thí sinh trong trò hùng biện thường thấy. Adams quan sát thấy rằng Edward Rutledge từ Nam Carolina là “người hoạt bát nhưng không sâu sắc” và có thói quen gây mất tập trung, đó là nói giọng mũi. Benjamin Rush đến từ Pennsylvania đã bị sa thải vì “nói quá nhiều... Lịch duyệt nhưng không sâu sắc”. Roger Sherman của Connecticut thì lại là một mô hình hoàn hảo của sự lúng túng: “Không có một sự tương phản đẹp đẽ và nổi bật nào hơn với chuyển động của đôi tay ông ta. Nói chung, ông ta thường đứng thẳng với đôi tay để phía trước... Nhưng khi ông ta di chuyển bàn tay, giống như một hành động, thì đến cả Hogarth thiên tài cũng không thể nào phát minh ra được một chuyển động đối lập với sự duyên dáng hơn thế. Đó chính là sự cứng nhắc, và lúng túng. Lúng túng như một cử nhân, hoặc sinh viên năm thứ hai”. Vào thời điểm Jefferson đến Philadelphia, Adams đã bắt đầu nổi lên như là một trong những diễn giả hiệu quả nhất trong Quốc hội, một người đàn ông với cái tôi đau đớn đã tự gắn mình với sự nghiệp giành độc lập, người mà sự kết hợp giữa việc học luật với năng lượng hùng biện đơn thuần đã vượt xa những đại biểu ôn hòa hơn trong một phong cách mạnh mẽ, có vẻ vừa như chó bull, vừa như núi lửa. 24

Trong khi đó, vị thế của đoàn đại biểu Virginia ngày càng cao xuất phát chủ yếu từ tài diễn thuyết nổi tiếng của đoàn. Edmund Pendleton là bậc thầy hùng biện với mái tóc bạc và phong cách thanh lịch. Jefferson sau này mô tả ông ta là “người đàn ông giỏi tranh luận nhất mà tôi đã từng gặp”. Điểm đặc biệt của Pendleton là ở đoạn kết nhẹ nhàng và trầm lặng có sức thôi miên khán giả, trong khi lập luận của ông ta lại là một cuộc chiến tranh du kích ngầm chống lại những ý kiến tốt hơn, cho đến khi vấn đề cần giải quyết đi theo hướng suy nghĩ của ông ta gần như vô thức, giống như một quý tộc tự nhiên chiến thắng một cuộc đua mà không bao giờ tỏ ra phải cố gắng. 25

Richard Henry Lee thì dễ bị kích động và phô trương hơn. Nếu kỹ thuật của Pendleton cho thấy một công việc yên bình, thì Lee lại là người ủng hộ một cuộc xâm lược toàn diện. Những người phản đối nhăn mặt mỗi khi ông ta đứng lên nói, bởi biết rằng các lập luận của họ sẽ được cuốn vào cơn lốc ngôn từ để rồi bị lãng quên. Cách thể hiện của Lee có phần giả tạo: ông ta thích quấn tay mình trong một chiếc khăn tay lụa khi phát biểu, giải thích rằng mình muốn ngăn khán giả bên dưới nhìn thấy vẻ khó coi của bàn tay nham nhở ấy, bị mất vài ngón trong một tai nạn đi săn. Hay đó là một trận đấu? Lee với Pendleton giống như quả bom với khẩu súng lục. Nhưng cả hai đều là những diễn giả nổi tiếng. 26

Nhà vô địch hùng biện không thể tranh cãi của Virginia tất nhiên là Patrick Henry, sự hiện diện của ông ta trong đoàn Virginia thu hút nhiều sự chú ý của công chúng hơn bất cứ ai, trừ George Washington. Bài phát biểu của Henry chống lại Đạo luật Tem đã được công bố rộng rãi ở các thuộc địa, vì vậy ông ta đã trở nên nổi tiếng trong nước vì nhiệt huyết của mình. Như Edmund Randolph đã nói, “thế giới phương Tây vẫn chưa đưa ra được một đối thủ mang lại ấn tượng to lớn trong việc bảo vệ tự do”. Nếu Pendleton là một quý tộc khéo léo và Lee là một kịch sĩ hung hăng, thì Henry là người rao giảng Phúc Âm, đến với khán giả bằng những làn sóng đầy cảm hứng xúc động, mỗi làn sóng cách nhau bằng những quãng dừng được phóng đại khiến cho hầu hết người nghe cảm thấy như những khoảng lặng trước lời phán xét của Đấng Tối cao.

Tất cả các quan sát còn sót lại đến nay của Jefferson về Henry sau này mới có, khi tình bạn của họ trở nên chua chát (Jefferson cho rằng Henry “tham lam và xấu bụng”, luôn phát biểu “không có logic, không có sự chuẩn bị”). Nhưng ngay cả những chỉ trích của Jefferson từng phản bội lại sự ngưỡng mộ nhất định đối với năng lực của Henry trong việc xoay chuyển đám đông bằng những phản đối đầy cảm xúc, không bị vướng víu bởi bất kỳ nghiên cứu hay bằng chứng nào. Năm 1784, ông đã cảnh báo James Madison rằng không được xem nhẹ sự phản đối của Henry với cải cách hiến pháp ở Virginia, vì một trong những diễn giả hấp dẫn của ông có thể lật lại thành quả của nhiều tuần làm việc cẩn thận nơi hậu trường. Không có cách nào để giải thích cho ảnh hưởng bí ẩn của ông tới những người khác hoặc để nhanh chóng đối phó với ông. “Những gì chúng ta phải làm”, Jefferson than thở với Madison, “là sốt sắng cầu nguyện cho cái chết của ông ta”. Dĩ nhiên, tại Quốc hội Lục địa, tài hùng biện sáng chói của Henry vẫn là một tài sản vô giá hơn là một cản trở to lớn. Giống Jefferson, Henry là một sản phẩm của biên giới phía tây Virginia, người đã giành được sự thừa nhận từ tầng lớp thượng lưu Tidewater, nhưng không như Jefferson, ông ta luôn giữ được phẩm chất nguyên sơ của một lực lượng tự nhiên, giống như cây cầu đá Natural Bridge mà Jefferson rất ngưỡng mộ, một trong những tạo vật ngẫu nhiên của các vị thần được tạo ra ở vùng núi phía tây. 27

So với Henry, Jefferson là hình ảnh thu nhỏ của một học giả uyên thâm và có kỷ luật với sự nhạy cảm tuyệt đối khác biệt. Theo như chúng ta biết, ông chưa từng có bài phát biểu nào tại Quốc hội Lục địa. Kể cả trong bầu không khí thân mật hơn ở các ủy ban, ông cũng thích nhường cho người khác nói. John Adams nhớ lại, với một cảm giác khâm phục xen lẫn ngạc nhiên, rằng “trong suốt thời gian tôi ngồi với ông ấy ở Quốc hội, tôi chưa bao giờ được nghe ông ấy nói liền ba câu”. Tuy nhiên, không một ai, kể cả Adams vốn luôn hoài nghi, lại mảy may nghi ngờ quan điểm cấp tiến của ông. Những tố cáo khá rõ ràng của ông về sự thống trị của Anh trong Quan điểm tóm tắt đã ghi tên ông vào kỷ lục với tư cách một người phản đối ôn hòa. Nhưng ông hoàn toàn vô dụng trong các tình huống đòi hỏi phải xuất hiện trước công chúng. Ông gần như bất lực nơi hậu trường, tay xoắn vào nhau và phỉnh phờ - cũng là sở trường của Sam Adams, em họ của John. Đơn giản là ông quá nhút nhát và thu mình tới nỗi không thể tương tác dễ dàng trong các hành lang. 28

Theo sự bố trí và thói quen, vũ đài thoải mái nhất với Jefferson là nghiên cứu và bục diễn thuyết tự nhiên nhất của ông là bàn viết. Kể từ hồi học đại học tại trường William & Mary, rồi tiếp tục học lên nữa và cuối cùng là thực tập luật, Jefferson đã luôn ở một mình, đọc sách và ghi chép cực kỳ chi tiết về những gì ông đọc được. Ông gọi đây là việc “thường ngày”, ám chỉ việc chép lại các đoạn văn của Coke hay Pufendorf về luật, của Milton hay Shakespeare về thân phận con người, Kames hoặc Hutcheson về ý thức đạo đức của con người. Nhưng Jefferson đã biến việc chép lại thành một hành động sáng tạo, ông thường xuyên viết lại một đoạn văn sao cho phù hợp với thị hiếu của riêng mình, hoặc thường xuyên hơn, pha trộn những suy nghĩ của mình về chủ đề đó trong các ghi chép. Ông là một chàng thanh niên rất thích được làm chủ. Nghiên cứu một mình cho phép ông sáng tạo ra quan điểm riêng của mình mà không bị can thiệp, không bị sa vào một cuộc tranh luận ngẫu hứng vô định. 29

Hành động đầu tiên của ông sau khi yên vị trong khu của mình trên phố Chestnut là một mình đánh giá xem cuộc chiến chống lại Anh sẽ khiến các thuộc địa phải tiêu tốn bao nhiêu, không phải về số người thương vong mà là về số đô-la. Ông dường như tin rằng một cuộc xung đột quân sự tổng lực sẽ không kéo dài lâu. “Một chiến dịch đẫm máu”, ông viết cho một người bạn, “có thể sẽ quyết định mãi mãi sự nghiệp tương lai của chúng ta”. Vì vậy, tính toán của ông về chi phí được dựa trên các giả định về một cuộc chiến kéo dài trong sáu tháng mà ông ước tính sẽ cần khoảng 3 triệu đô-la tiền thuế mới. 30

Vào một thời điểm của mùa hè, ông đã đề nghị chủ nhà của mình, Benjamin Randolph, người có họ hàng với mẹ ông và là một thợ đóng tủ có tay nghề cao, thiết kế một chiếc bàn viết. Ông cũng đặt làm một chiếc ghế Windsor mới để có chỗ ngồi cho thoải mái. Sau này, những đồ vật ấy đã trở thành các di vật thiêng liêng vì gắn với Tuyên ngôn Độc lập, đã xác định không gian nơi ông có thể thể hiện tốt nhất năng lượng sáng tạo của mình. Chỉ trong một thời gian ngắn, những ước tính kiểu bản kê khai của ông về chi phí quân sự đã bị đặt sang một bên để nhường chỗ cho một công việc quan trọng hơn, lý giải bằng lời, tại sao đứng lên cầm súng là việc đầu tiên các thuộc địa Mỹ cần làm.

Giới lãnh đạo Quốc hội chọn ông là người soạn thảo bài phát biểu mà sau này được đặt tên là Tuyên bố về những nguyên do và sự cần thiết của việc cầm vũ khí . Đây là một nhiệm vụ trọng yếu. Bài phát biểu được coi như một tuyên bố chủ đạo đại diện cho lối tư duy hiện thời trong Quốc hội; một nỗ lực thuở ban đầu lúng túng trước những bất đồng về ngôn ngữ. Việc lựa chọn Jefferson đã phản ánh danh tiếng của ông với tư cách một tài nghệ văn chương, và thừa nhận một thực tế rằng đóng góp lớn nhất của ông là trong tư cách một tác giả chứ không phải một diễn giả.

Sự phân công này cũng buộc chúng ta nhận ra một thực tế khó xử và dễ bị lãng quên, rằng mặc dù một tuyên ngôn độc lập chính thức của Mỹ sẽ xuất hiện sau thời điểm này một năm, nhưng cuộc chiến thực ra đã bắt đầu. Bởi khi Jefferson đến Philadelphia thì những trận đánh ở Lexington, Concord, Bunker Hill đã xảy ra, và George Washington đứng ra chỉ huy một đội quân ở ngoài Boston. Trong khi những người ôn hòa trong Quốc hội Lục địa tiếp tục hy vọng vào phương án hòa giải với Anh, thì vào mùa hè năm 1775 sáng kiến này đã bị chuyển qua những người cực đoan, cầm đầu là John và Sam Adams, vốn xem việc đòi độc lập là không thể tránh khỏi. Và mọi hành động của Chính phủ Anh dường như đã được tính toán để phá hoại phe ôn hòa và làm cho phe cực đoan giống như nhà tiên tri. Cũng giống như đoàn đại biểu Virginia, từ đầu Jefferson đã tự xác định mình là người theo trường phái cực đoan. Thư từ cá nhân của ông vào thời điểm đó rõ ràng cho thấy thời gian để thỏa hiệp đã trôi qua. Ví dụ vào tháng 6 năm 1775, ông đã viết cho người thân ở Virginia rằng “giờ đây người ta đang sôi sục bước vào cuộc chiến, biết trước không có viễn cảnh về sự hòa giải mà chỉ có sự can thiệp hiệu quả của vũ khí”. Một tháng sau, ông viết cho John Randolph rằng thay vì thống nhất với các điều khoản hòa giải của Anh, ông “sẽ giúp một tay để nhấn chìm cả hòn đảo xuống đại dương”. Theo nhìn nhận của Jefferson, vấn đề bây giờ không phải là các thuộc địa Mỹ có tuyên bố độc lập hay không, mà là khi nào và ra sao. 31

Hiểu được điều này là rất cần thiết, vì nó định hình một cách tinh tế nhưng vô cùng quan trọng sự thay đổi trong văn phong của Jefferson suốt một năm tiếp theo với tư cách là người soạn thảo chính các văn bản cho sự nghiệp cách mạng. Một mặt, các đại biểu trong Quốc hội Lục địa còn đang bận xây dựng quân đội, hướng dẫn các cơ quan lập pháp thuộc địa về cách thức phác thảo ra hiến pháp quốc gia mới, điều tra các liên minh nước ngoài, giám sát cuộc chiến đang diễn ra. Mặt khác, họ khẳng định mong muốn tránh xô xát công khai với mẫu quốc và cam kết trung thành mãi mãi với George III. Bằng cách nào đó, những quan điểm chính trị không tương thích này, vốn phản ánh sự chia rẽ giữa những người ôn hòa và cực đoan trong Quốc hội, cần phải được chắp nối với nhau qua ngôn từ. Và mặc dù các khán giả chính thức là Chính phủ Anh, nhưng khán giả thực chất lại là người dân Mỹ, hoặc ít nhất là các cơ quan lập pháp thuộc địa khác nhau, vốn cần được cung cấp một cách thức để giải thích cho chính mình lý do tại sao những điều không thể tưởng tượng trước đây bây giờ đã trở nên không thể tránh khỏi.

Ở cấp độ hiến pháp đơn thuần, lý luận của Jefferson trong Những nguyên do và sự cần thiết (Causes and Necessity) chính là quan điểm trong cuốn Quan điểm tóm tắt nhưng ở mức độ nhẹ hơn. Thay vì chối bỏ mọi thẩm quyền hợp pháp của Nghị viện Anh ở các thuộc địa, Jefferson đã thừa nhận rằng “đôi lúc Nghị viện Anh sử dụng quyền lực, tuy nhiên không được hiến pháp của các chính phủ chúng tôi thừa nhận, cuối cùng đã được nhượng bộ trong thiện chí ấm áp”. Điều này chắc chắn là một sự nhượng bộ với phe ôn hòa trong Quốc hội và phản ánh nhận thức của Jefferson rằng ông cần phải chấp nhận những quan điểm khác biệt với mình. Chủ đề biệt xứ cũng xuất hiện dưới hình thức ngầm. “Ông cha ta... đã rời mảnh đất tổ tiên”, ông viết, “để tìm kiếm trên các bờ biển này một nơi cư trú cho nhân dân và sự tự do tôn giáo”. Nhưng không có câu thần chú nào về huyền thoại Saxon hay về việc người Norman nắm giữ các quyền truyền thống của Anh. Jefferson đã lùi lại để tránh sự chuyển nhượng chưa được quyết định. 32

Đóng góp chính của Jefferson trong Những nguyên do và sự cần thiết là cung cấp một mạch truyện trong đó tập hợp tất cả các thuộc địa Mỹ như những nạn nhân vô tội. Trước đó những người Mỹ chỉ trích chính sách của Anh - những người như John Adams, John Dickinson và Daniel Dulany - đã lập luận về mặt pháp lý rằng sự tham gia của Nghị viện vào các công việc thuộc địa sau khi kết thúc Chiến tranh Pháp-Ấn (1763) là chưa từng có tiền lệ. Ở Anh, Edmund Burke đã gọi giai đoạn trước chiến tranh là một kỷ nguyên của “sự bỏ bê có lợi”. Phiên bản của Jefferson về cuộc xung đột Anh-Mỹ đơn giản đã thúc đẩy hơn nữa những hàm ý mạnh mẽ của sự thay đổi trong chính sách Anh. Trước năm 1763, đế chế này hài hòa và lành mạnh, một phiên bản Mỹ được ông giới thiệu trước đó, về sự bình yên trong những cánh rừng Saxon. Sau đó, hoàn toàn đột ngột, “chính phủ nhận thấy rằng mọi kẻ thù của Anh đã bị chinh phục, bèn nảy ra ý tưởng không may là chinh phục cả bạn bè mình”. Jefferson thể hiện một sự thính nhạy và một sự quan tâm trực giác đối với một cấu trúc câu chuyện được xây dựng quanh sự phản đối về đạo đức. Chủ đề ở đây là đế chế “ngày ấy và bây giờ”. Câu chuyện biến thành cuộc đụng độ giữa chế độ độc tài của Anh với sự tự do của thuộc địa, giữa những viên chức Anh xảo quyệt với những người dân thuộc địa đang van xin, mà cao trào là cuộc đụng độ tại Lexington và Concord giữa “quân đội chính phủ” do Tướng Thomas Gage chỉ huy với “người dân ngây thơ” của Massachusetts. Tất cả điều này đã được chuyển tải trong cái mà chúng ta gọi là phong cách bi lụy của các nạn nhân vô tội. 33

Không thể biết được Jefferson đã tin vào phiên bản biếm họa về cuộc khủng hoảng đế chế này thật sự là bao nhiêu phần trăm, và bao nhiêu phần trăm là giả bộ kiểu cách. William Livingston, đại biểu đến từ New York, nhận xét rằng lối hành văn của Jefferson trong Những nguyên do và sự cần thiết nhắc ông nhớ đến lối hùng biện của những người Virginia khác: “Nhăm nhăm vạch lỗi và khoa trương, chẳng có mấy tự trọng. Họ dường như nghĩ rằng một sự tái lập chế độ độc tài, chuyên quyền, đẫm máu, v.v. là tất cả những gì cần thiết để đoàn kết chúng ta nơi quê nhà”. Có lẽ dự thảo của Jefferson đã thể hiện nỗ lực của ông nhằm đạt được trong văn xuôi những gì mà các đồng nghiệp Virginia như Henry đang tạo ra trong các bài hùng biện được chuẩn bị kỹ. Với truyền thống cố tình khoa trương ấy, người ta được phép nói về “những người dân nhẹ dạ” ở Lexington và Concord, trong khi biết rất rõ là họ đã phải xếp hàng vào quân đội khi quân Anh đến. 34

Việc phóng đại thực tế cụ thể lại không đáng chú ý bằng kế hoạch tường thuật tổng thể của Jefferson. Những người dân thuộc địa là những người ngoài cuộc vô tội bị tác động bởi một Chính phủ Anh hung hăng. Cuộc xung đột chính trị luôn dưới dạng bị phân đôi về đạo đức, không còn chỗ cho những ý nghĩa được đánh bóng hoặc lòng trung thành nước đôi. Sự cay đắng và mập mờ của hiện tại lại trái ngược với phiên bản “ngày xửa ngày xưa” của quá khứ. Và hiệu quả nhất là những nhà cách mạng thật sự không phải là người dân thuộc địa Mỹ, mà là những quan chức Anh, tham nhũng khủng khiếp trong khi người dân thuộc địa lại rất đạo đức.

Sự quá khích trong cách viết c?