Chương 5 Trong áo giáp
Tôi bàng hoàng không thốt nên lời. Tim đập dồn dập như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Miệng muốn nói mà lưỡi cứng đờ. Kể ra thật xấu hổ, đầu gối tôi run lập cập, toàn thân như bị ghim trên một tấm ván vô hình, không thể cử động được.
Các bạn đừng chê tôi nhát gan. Tự dưng gặp kẻ ăn mặc kì dị trong một sơn động âm u thì ai cũng sợ điếng người như tôi thôi. Hắn chẳng nói chẳng rằng cũng chẳng cử động, chỉ chằm chằm nhìn chúng tôi qua mũ giáp. Quả là rùng rợn!
“Ông... ông là ai?” Ngắc ngứ mãi, rốt cuộc tôi cũng thốt ra được.
Hắn không trả lời, thậm chí còn không buồn nhúc nhích. Một kẻ lặng lẽ kì lạ... Nói cách khác, dường như có một sự thanh tịnh bao bọc toàn thân hắn, ngăn cách hắn khỏi nhịp sống của thế giới này. Tôi và Noriko nhìn nhau.
“Anh ơi.” Noriko ghé sát tai tôi. “Biết đâu đấy là hình nộm? Hay tượng gỗ?”
Tôi đã nghĩ đến khả năng đó, và nhận ra một điểm không phù hợp. Đường nét cơ thể không thô cứng như gỗ mà mềm mại giống người thật. Nhưng dù làm bằng chất liệu gì thì có một điều chắc chắn: đó không phải là người sống. Tôi thở phào nhẹ nhõm.
“Noriko, em đứng đây nhé. Anh đi kiểm tra một lát.”
“Sẽ không sao chứ anh?”
“Ừ, không sao đâu.”
Để Noriko lại, tôi cầm đèn lồng leo lên bệ thờ, lưng nổi gai ốc, không biết liệu samurai kia có duỗi cánh tay dài ngoằng như khi bổ vào mình hay không. Tuy nhiên, hắn vẫn tĩnh lặng ngồi trên quan tài đá. Tôi ghé sát đèn lại. Giáp đã cũ, đường chỉ rách bươm, phần ngực và vật trước mục nát. Mùi mốc và mùi thối rữa nồng nặc tỏa ra từ bộ giáp pha lẫn mùi nến cháy xộc vào mũi tôi. Tuy mù tịt về cổ vật, tôi vẫn nhận thấy giáp này là của samurai cấp bậc cao. Tôi giơ đèn nhòm vào trong mũ sắt, và lập tức điếng người.
Samurai này không phải hình nộm, cũng chẳng phải tượng gỗ, mà là người thật, tất nhiên là người thật đã chết, tình trạng hết sức ghê rợn. Da xỉn màu, không rõ là màu bùn, màu tro hay màu rượu chát, lại còn trơn bóng như xà phòng. Tuổi tầm ba mươi đến bốn mươi, mũi tẹt và xương gò má cao (đặc trưng của cư dân nơi đây). Hai mắt gần nhau và cằm nhọn khiến diện mạo vô cùng dữ tợn, mắt trợn trừng phô ra đồng tử khô khốc mờ đục như làm bằng bùn đất.
Tôi toát mồ hôi trước hình ảnh khủng khiếp này, răng va vào nhau lập cập, cảm giác buồn nôn ập tới, cùng lúc lại có cảm giác ngờ ngợ quen thuộc. Trán thấp, cằm nhọn, hai mắt gần nhau... Tôi đã thấy gương mặt này ở đâu rồi. Là ai nhỉ, gặp ở đâu, khi nào...? Tôi chưa kịp nhớ ra, Noriko đã nhớn nhác chạy đến dưới hốc đá.
“Anh ơi, anh sao thế? Bên dưới mũ sắt có gì à?” Giọng em kéo tôi về thực tại.
“Noriko, đừng đến gần đây. Em đứng ra xa đi.”
“Nhưng mà...”
“Được rồi, anh xuống ngay đây.”
Tôi nhảy xuống khỏi bệ thờ, Noriko kinh ngạc thốt lên, “Anh có sao không? Đổ nhiều mồ hôi thế này.”
“Không sao đâu, em đừng lo.”
Tôi cơ bản không để ý Noriko nói gì. Rốt cuộc xác chết ngồi trên kia là ai? Nhìn bình hoa và nhang cắm trước quan tài đá, tôi nhận ra đây đúng là nơi hai bà đã đến viếng. Suy ra người ngồi trên kia có mối quan hệ gì đó với hai bà, nhưng là quan hệ gì?
“Anh ơi!” Noriko bám vào tôi, lộ vẻ bất an. “Dưới cái mũ có gì thế? Không phải hình nộm sao?”
“À quên, gần đây trong thôn có người đàn ông nào khoảng ba bốn chục tuổi vừa qua đời không?”
“Sao anh lại hỏi thế?” Noriko tỏ vẻ khó hiểu. “Ai qua đời gần đây anh đều biết mà. Đàn ông tầm ba bốn chục tuổi thì có thầy Kozen chùa Liên Quang và anh Hisaya.”
“Hisaya!” Tôi sốc mạnh như giật điện. Một ý nghĩ chợt lóe lên. Chẳng phải diện mạo xác chết khá giống Hisaya sao? Hai mắt gần nhau, trán thấp, cằm nhọn, phảng phất vẻ dữ tợn.
Sao lại thế được? Thi thể Hisaya đã được đặt vào quan tài và an táng tại mộ phần nhà Tajimi, sau khi bị quật lên để giải phẫu cũng đã chôn cất lại. Chính tôi là người đầu tiên thả nắm đất xuống áo quan. Chính tôi tận mắt nhìn thấy cỗ quan tài vùi trong huyệt, anh đã an nghỉ dưới lớp đất ấy rồi, dù chưa dựng bia. Tuy nhiên, xác chết kia trông rất giống anh. Tôi chưa nghe tin ai khác tầm tuổi đó trong gia tộc Tajimi mới mất gần đây cả, lẽ nào là Hisaya thật? Có người bới anh lên khỏi huyệt rồi đặt ở đây à? Kể cả thế thì cũng rất kì lạ. Anh chết đã chục hôm, sao chưa thấy dấu hiệu phân hủy?
Tôi đứng chôn chân tại chỗ, chìm trong những nghi hoặc không tài nào lý giải nổi. Đúng lúc đó...
“Ai đấy...?” Một giọng bất ngờ cất lên phía sau khiến tôi và Noriko giật thót. Chúng tôi quay lại thì thấy có người cầm đèn lồng đứng ở đằng xa.
“Ai đấy?” Người nọ tiến thêm một bước. Noriko sợ hãi níu chặt tay tôi.
“Ai đấy?” Người nọ lại hỏi và giơ cao đèn lồng. Giọng vọng lại từ vách động khiến âm sắc trở nên méo mó, nhưng tôi đã nhận ra.
“Chị Haruyo? Là em, Tatsuya đây.”
“Trời, Tatsuya? Là em thật sao? Ai đứng cạnh em thế?”
"Noriko ạ. Satomura Noriko.”
“Noriko?” Dường như bất ngờ, giọng Haruyo lạc hẳn đi. Chị rảo chân tiến lại. “A, đúng là Noriko rồi.” Haruyo ngờ vực nhìn chúng tôi, đoạn đảo mắt quan sát xung quanh. “Hai em làm gì ở đây thế?”
“Em sẽ giải thích sau, tại sao chị cũng đến đây?”
“Chị...”
“Chị biết về hang động này từ trước rồi à?”
“Làm gì có, đây là lần đầu chị đến mà...” Haruyo nhìn quanh quất rồi so vai hoảng sợ. “Hồi nhỏ chị nghe nói là có một mật đạo từ nhà ngang dẫn ra đâu đó, nhưng hai bà bảo là đã lấp kín từ lâu rồi...”
“Đêm nay chị mới phát hiện ra mật đạo?”
Chị khẽ gật đầu.
“Chị vào đây bằng cách nào?”
Giọng điệu chất vấn của tôi khiến Haruyo ngần ngại giây lát, cuối cùng chị nhìn thẳng vào mắt tôi.
“Tatsuya.” Chị nhấn mạnh. “Hôm qua chị có chuyện muốn nói với em nên đã đến nhà ngang, tất nhiên chẳng thấy em đâu, mà cửa vẫn chốt trong nên chị rất kinh ngạc. Chị chờ khá lâu không thấy em về nên đành quay lại nhà chính, sáng nay lại thấy em đàng hoàng xuất hiện ở nhà ngang. Chị rất hoang mang, em không giải thích nên chị cũng kiềm chế không lục vấn. Tuy nhiên chị vẫn lo lắng nên tối nay lại qua nhà ngang xem thử thì em tiếp tục biến mất, cửa vẫn chốt trong. Chị sực nhớ lại mật đạo từng nghe hồi nhỏ. Chắc chắn trong nhà ngang có lối đi bí mật... Tìm kiếm loanh quanh thì phát hiện ở đáy rương quả thật có lối đi...”
Nói đoạn, chị rút trong ngực áo ra một chiếc khăn, “Đây là khăn tay của em, đúng không? Lúc mở nắp rương, chị thấy vài giọt sáp dính trên chăn nệm bên trong. Thử nhiều cách khác nhau thì đáy rương mở ra. Thế là chị đến được đây...”
Chị lại nhìn tôi và Noriko, ngờ vực hỏi, “Mà sao em lại biết về mật đạo? Ai nói cho em à?”
Việc đã đến nước này thì không cần giấu Haruyo nữa, hiềm nỗi có Noriko ở đây nên tôi chưa muốn kể.
“Đợi về nhà em nói rõ ràng. Em có chuyện quan trọng hơn cần hỏi đây. Chị biết cái gì kia không?”
Haruyo soi đèn về hướng hốc đá. Hình như lúc này mới nhìn thấy bộ giáp, chị giật mình kêu lên, rồi mau chóng trấn tĩnh và đến gần để xem.
“Lạ thật. Ai đặt nó ở đây nhi?” Haruyo thở dốc.
“Chị ơi, chị biết bộ giáp này ạ?”
“Ừ, cách đây rất lâu chị có nhìn thấy một lần. Còn nhớ cái am nhỏ đằng sau nhà ngang, mà em từng hỏi có phải nơi thờ Phật không ấy? Thật ra đó là miếu thờ, trông bên ngoài thì có vẻ là thờ thần Inari [*] , nhưng thực chất...” Chị ngập ngừng. “Là thờ một võ sĩ xa xưa bị dân ở đây giết chết, trong miếu đặt quan tài đựng giáp của ông ấy. Tầm mười lăm mười sáu năm trước, giáp và quan tài bỗng dưng biến mất. Mọi người đều bảo ai trộm mà lạ thế. Hóa ra là đem xuống đây à?”
[*] Thần của loài cáo, thần bảo trợ nông nghiệp, công nghiệp, sự phì nhiêu, thịnh vượng và thành công.
“Chị ơi, em hiểu về nguồn gốc bộ giáp rồi. Quan trọng hơn là... Chị nhìn kĩ dưới mũ xem. Chị thấy người ở bên trong áo giáp chứ? Rốt cuộc người đó là ai thế ạ?”
Haruyo quay phắt lại nhìn tôi, mỉm cười yếu ớt, “Em kì quá, sao lại dọa chị như thế? Chị bị bệnh tim mà...”
“Em không dọa chị. Chị nhìn kĩ đi. Có người thật đấy. Ban nãy em leo lên bệ thờ nhìn thử rồi.”
Haruyo sợ hãi ngó lên bệ đá. Xác chết mặc áo giáp nhìn xuống chúng tôi bằng đôi mắt ghê rợn. Haruyo hít mạnh, giơ đèn đi đến gần bệ thờ như bị nó cuốn lấy. Tôi siết chặt bàn tay đầy mồ hôi, lo lắng dõi theo dáng vẻ bất thường của chị.
Haruyo bám lấy bệ đá, nhìn đăm đăm vào trong mũ sắt. Đột nhiên chị run rẩy, ngoái nhìn tôi bằng ánh mắt kích động, mặt tái xanh lấm tấm mồ hôi, “Tatsuya, giúp chị leo lên bệ thờ với.” Tôi lập tức đỡ giúp chị. Mắt ánh lên sợ hãi xen lẫn tò mò, Haruyo nhìn chằm chằm vào gương mặt trong mũ sắt, hô hấp trở nên dồn dập. Quả nhiên chị biết thi thể này là ai...
Tôi đang nín thở dõi theo thì đột nhiên Noriko kéo tay áo tôi.
"Sao thế Noriko?”
“Anh ơi, chỗ này có chữ viết nè.”
Noriko trỏ vách đá phía dưới cách bệ thờ tầm hơn chục phân. Tôi ghé đèn lồng lại xem, quả là có chữ, khắc theo hàng ngang: Khỉ Ngồi.
Khỉ Ngồi... Khỉ Ngồi... Tôi đã nghe qua từ này ở đâu rồi. A, tối hôm tôi mới đến nhà Tajimi, Haruyo có kể về một kẻ đột nhập bí ẩn. Hắn làm rơi một mảnh giấy giống bản đồ, có ghi “Khỉ Ngồi”, nghe chừng là địa danh. Tôi cũng có bản đồ tương tự, phải chăng đều là bản đồ hang động này?
Tôi đang ngẩn người trước nghi vấn mới thì Haruyo bỗng hét lớn. Tôi giật mình ngẩng lên thì thấy chị lảo đảo, rồi ngã ra khỏi hốc đá. “Nguy hiểm!” Tôi dang tay đỡ lấy chị.
“Ôi, Tatsuya, rốt cuộc chuyện này là thế nào? Chị đang nằm mơ ư, hay là chị phát điên mất rồi?”
“Chị bình tĩnh lại đã. Sao thế? Chị biết người này à? Ai vậy ạ?”
“Cha đấy.”
"Hả?”
“Cha chúng ta, chạy trốn lên núi rồi mất tích vào hai mươi sáu năm trước...” Haruyo níu lấy tôi, nước mắt lã chã tuôn rơi.
Tôi choáng váng, tưởng như có ống sắt nóng quất mạnh vào đỉnh đầu. Noriko cũng mở to mắt, đứng ngẩn ra bên cạnh...
Đối với người yếu tim như Haruyo, phát hiện khủng khiếp này gây chấn động quá lớn. Đêm ấy, sau khi dặn dò Noriko đừng kể cho ai khác, chúng tôi chia tay ở ngã ba. Chui qua đáy rương về đến nhà ngang, nhìn rõ sắc mặt chị dưới ánh đèn, tôi không khỏi sửng sốt.
“Chị ơi, chị cố lên. Trông chị nhợt nhạt quá. Chị nằm nghỉ một lát nhé...”
“Ừ, cảm ơn em. Chị đúng là một đứa nhát gan yếu tim nhi. Cũng tại bất ngờ nữa!”
“Đúng là cha hả chị?”
“Chị không nhìn nhầm đâu. Ban đầu không tin vào mắt mình nên chị đã săm soi rất kĩ... Cha chạy trốn lên núi khi chị 8 tuổi, nhưng chị vẫn nhớ mặt. Nay nhìn tận mắt, bóng dáng xưa lại hiện lên vô cùng rõ ràng.”
Mắt Haruyo rớm lệ. Dù cha đã gây ra cuộc thảm sát kinh khủng như thế, nhưng đối với chị, cha vẫn là đấng sinh thành thân thương. Tự dưng tôi rùng mình.
“Mà chị không thấy lạ sao? Cha chạy lên núi lúc 36 tuổi, cái xác cũng tầm đó luôn.”
“Ừ, hẳn là lên núi chẳng mấy chốc thì cha qua đời. Lại ở trong hang nên bao năm qua không ai biết tung tích cả.”
“Hai mươi sáu năm dài, sao thi thể vẫn chưa thối rữa?”
“Chị ít học nên không rõ. Nhưng trên đời thiếu gì sự lạ? Nhỡ là xác ướp thì sao?”
“Trông không giống xác ướp đâu, mặc dù em chưa nhìn thấy xác ướp bao giờ.”
“Quan trọng hơn là, Tatsuya này.” Haruyo ngồi nhích lại gần tôi. “Làm sao em biết mật đạo? Em phát hiện ra khi nào?”
Tôi bèn tóm tắt sự việc đêm trước, Haruyo vô cùng sửng sốt, “Nghĩa là hai bà...”
“Đúng vậy. Theo như cách hai bà nói chuyện thì ngày giỗ mỗi tháng đều đi viếng.”
“Tức là hai bà đã biết di hài của cha ở đó từ lâu rồi.”
“Có lẽ thế. Không chừng người lo hậu sự và mặc giáp cho cha là hai bà cũng nên.”
Haruyo càng thêm nhợt nhạt, chị đỡ cằm suy nghĩ giây lát, rồi như sực nhớ điều gì bèn ngẩng phắt lên, khuôn mặt ngập tràn thống khổ, ánh mắt trở nên nghiêm nghị khác thường.
“Sao thế? Chị vừa nghĩ ra điều gì à?”
“Chị sợ quá... Nhưng chắc là đúng rồi.”
“Đúng là đúng thế nào ạ?”
“Tatsuya!” Giọng chị kích động. “Điều này đã giày xéo trái tim chị cả một thời gian dài, gần đây... nhiều người bị đầu độc mà bỏ mạng quá... Thành ra, nó gợi lại kí ức về sự kiện trước kia...” Vai chị run rẩy. “Chị chỉ chia sẻ chuyện này cho một mình em thôi. Em tuyệt đối đừng kể với ai nhé.”
Dặn dò xong, chị bắt đầu kể.
Chuyện xảy ra vào hai mươi sáu năm trước, không lâu sau vụ thảm sát nọ. Vì tận mắt nhìn thấy mẹ bị giết, cô bé Haruyo 8 tuổi thành ra ám ảnh tinh thần. Cứ tối xuống là gào khóc. Hai bà thương cháu nên vào ngủ cùng.
“Chị nằm giữa hai bà. Không hiểu sao cứ đến nửa đêm thì hai bà đều biến mất. Có lần chị khóc bù lu bù loa, chạy quanh nhà tìm kiếm. Sau lần đó hai bà không biến mất cùng lúc nữa, mà lần lượt từng người sẽ đi vắng mỗi đêm. Khi chị hỏi bà còn lại đâu rồi, thì luôn nhận được câu trả lời giống hệt nhau ‘Bà đi vệ sinh, sẽ quay lại ngay thôi. Bấy giờ chị còn trẻ con, nghe xong xuôi tai ngủ tiếp chứ không lục vấn thêm. Cho đến một hôm, chị biết được một chuyện khủng khiếp.”
Đang ngủ giữa hai bà, Haruyo bất chợt thức giấc vì tiếng thì thầm trao đổi. Tuy nhiên, theo giọng điệu bấy giờ thì hẳn hai bà không muốn ai nghe thấy, nên chị giả vờ là vẫn ngủ. Đầu tiên, chị nghe thấy từ “thuốc độc”, kế đến là “không thể tiếp tục thế này mãi được”, “nếu bị bắt sẽ lĩnh án tử hình”, “tiếc là nhìn nó khỏe mạnh quá, khó mà chết sớm”, “nó lại nổi điên lên thì sẽ ầm ĩ lắm”. Sau những cụm từ loáng thoáng ấy, đến một câu trọn vẹn “Đành bỏ độc vào hộp cơm của nó vậy” thì Haruyo phát hoảng, người đẫm mồ hôi.
“Chuyện gì khắc cốt ghi tâm từ thời thơ ấu thì cả đời khó quên. Bây giờ nhớ lại nội dung trao đổi của hai bà khi ấy, chị còn khiếp đảm.”
Vai run lên, Haruyo đưa tay áo khẽ lau khóe mắt. Câu chuyện khủng khiếp chị vừa kể đủ để tim tôi lạnh toát, người tê tái như ngâm trong hồ băng.
“Nghĩa là một thời gian ngắn sau vụ thảm sát, hai bà chứa chấp cha trong hang nhỉ?”
“Bây giờ nhìn lại thì có lẽ là đúng. Hai bà tiếp tế cơm nước cho cha.”
“Rồi ngang nhiên hạ độc...”
“Tatsuya, kể cả thế em cũng đừng nghĩ xấu cho hai bà. Vì danh dự gia tộc, vì dư luận, và vì cả cha mà hai bà mới làm thế. Cha vốn là con cưng của hai bà đấy. Nâng như nâng trứng hứng như hứng hoa, yêu thương lắm lắm. Chỉ cần nghĩ đến cảm giác của hai bà khi bỏ độc vào thức ăn của cha thôi, chị đã thấy rất đau lòng rồi...”
Còn tôi, chỉ cần nghĩ đến nhân quả oái oăm của gia đình này thôi là lạnh sống lưng rồi.
Xem chừng sự việc xảy ra đúng như Haruyo phỏng đoán. Hai bà, vì nghĩ đến danh dự gia tộc, miệng lưỡi thế gian và kết cục của cha nếu bị bắt, nên đã lén lút hạ độc. Đối với cha thì đó cũng là một hình phạt nhân từ. Dù thế, tôi vẫn không ngăn được cảm giác u ám đè nặng nơi lồng ngực.
“Chị ơi, em hiểu rồi. Em sẽ không kể chuyện này với ai khác, kể cả Noriko. Chị cũng quên đi nhé.”
“Ừ, nhất trí, dù sao chuyện cũng xa xưa quá rồi... Chỉ hiềm, liệu nó có liên quan gì đến những vụ đầu độc gần đây không...”
Tôi giật mình nhìn chị, “Chị nghi ngờ hai bà...”
“Khó mà có chuyện đó, nhưng cứ nghĩ đến cái chết của anh Hisaya thì...”
Hai bà đã hạ độc người cha, chẳng có gì ngăn họ giết thêm con trai người ấy. Vả lại hai bà đã cao tuổi, tính ra đã nằm ngoài thế tục, cách suy nghĩ có lẽ cũng khác với người thường. Đây là lý do khiến Haruyo bất an.
“Chị à, không có đâu, chị cả nghĩ rồi. Mà tại sao nhà mình lại có mật đạo thế ạ?”
“À, hình như tổ tiên nhà ta có một bà đẹp đến mức được chọn vào thành làm thiếp của lãnh chúa. Về sau khúc mắc sao đó mà phải rời thành, nhưng lãnh chúa vẫn luôn nhung nhớ bà, đôi lúc kín đáo ghé đến đây thăm. Nhà ngang là để phục vụ những chuyến thăm đó, mật đạo đào ra đề phòng trường hợp bất trắc. Mà Tatsuya này.”
“Vâng?”
“Em đừng xuống mật đạo nữa, nhỡ xảy ra chuyện gì thì không hay.”
“Vâng, em hiểu rồi.” Tôi trả lời chắc nịch để Haruyo khỏi lo lắng, chứ tôi không định từ bỏ việc thám hiểm hang động dưới ấy đâu.
Vừa làm sáng tỏ một nghi vấn lại vấp phải một nghi vấn mới. Vừa nắm rõ chuyến “lễ Phật” kì lạ của hai bà thì lại vấp phải bí ẩn thi thể không thối rữa và “Khỉ Ngồi”. Vì sao bản đồ hang động lại nằm trong túi bùa bình an của tôi? Mẹ nói có thể nó sẽ đem lại vận may, làm sao một mảnh bản đồ khó hiểu và vài dòng chữ lại có khả năng đó được?
Đêm ấy, vì quá tập trung vào những việc khác nên tôi quên hỏi Haruyo về bản đồ. Sang hôm sau chị lại sốt cao mê man nên tạm thời không có dịp nào nhắc đến. Haruyo phát sốt tất nhiên là do cú sốc dưới hang động, trong cơn mê sảng, thỉnh thoảng chị lại nhắc đến áo giáp và gọi cha. Sợ để lộ bí mật về mật đạo, và cũng vì thân thiết với chị nhất trong nhà nên tôi túc trực bên giường ngày đêm. Về phía mình, Haruyo sẽ bồn chồn nếu không thấy tôi và giục Shima đi tìm, sau đó không để tôi rời chị một bước.
Hai bà cũng rất quan tâm, thỉnh thoảng lại đến bên giường. Shintaro và Noriko biết tin đều sang thăm. Tôi giải thích rằng với tình trạng này, tạm thời chúng tôi không thể gặp gỡ được, Noriko liền ngoan ngoãn gật đầu, còn nhờ tôi nhắn với Haruyo là em sẽ không kể chuyện đêm trước cho ai cả. Miyako, rồi vợ bác Kuno cũng đến, tiều tụy hốc hác, bảo là vẫn chưa biết chồng đang ở đâu.
Trong vòng một tuần cận kề săn sóc Haruyo, tôi quên bằng chuỗi án mạng kia. Vụ án chưa có gì tiến triển, cũng không thấy Kindaichi ghé vào thêm lần nào.
Mười ngày trôi qua, Haruyo hạ sốt và bớt nói sảng. Bác sĩ Arai cho biết đã qua cơn nguy kịch, làm tôi nhẹ cả người. Haruyo cảm kích nói, “Xin lỗi Tatsuya, mấy ngày nay chị làm phiền em nhiều, hẳn là em mệt lắm. Chị thấy khỏe hơn rồi, nên tối nay em về nhà ngang ngủ đi nhé.”
Tôi mệt thật nhưng không định đi ngủ ngay. Đã lâu không về phòng, phải tận dụng cơ hội này để xuống mật đạo. Gần đây tôi cứ trăn trở suy nghĩ tại sao xác chết không thối rữa. May thay nhà Tajimi có một cuốn từ điển bách khoa, tôi đã tỉ mỉ tra cứu để tìm lời giải thích cho nghi vấn đó, cuối cùng cũng tìm thấy một đáp án. Tối hôm ấy tôi xuống mật đạo để xác minh đáp án này. May mắn là không giáp mặt ai, cũng không gặp một phen hú hồn nào, tôi đi thẳng đến chỗ hốc đá, leo lên bệ thờ kiểm tra thi thể lần nữa, rốt cuộc đã khẳng định được đáp án là đúng.
Xác chết này đã “hóa sáp”. Theo giải thích trong từ điển bách khoa, khi ở môi trường ẩm ướt, chất béo trong xác bị phân giải sinh ra axit béo. Axit béo kết hợp với ion kim loại như canxi, magie có trong hơi ẩm, biến thành muối canxi, muối magie của axit béo và không tan trong nước, hay còn gọi là “xà phòng hóa”. Nói cách khác, xác chết biến thành xà phòng và được giữ nguyên dạng trong một thời gian dài. Quá trình này gọi là “tử thi hóa sáp”. Tất nhiên không phải ai cũng thế, quá trình hóa sáp thường gặp ở những người nhiều mỡ, ngoài ra còn phụ thuộc vào việc môi trường an táng có ẩm ướt và nhiều ion kim loại như canxi, magie hay không.
Có lẽ thể chất của cha và môi trường hang động hoàn toàn thỏa mãn điều kiện trên. Vì thế sau khi chết, thi thể hóa sáp và không thối rữa trong một thời gian dài. Tình trạng này hắn đã khiến hai bà kinh hãi, cho rằng thi thể trường tồn của cha là một mối đe dọa huyền bí. Kẻ gây ra tội lỗi vô tiền khoáng hậu ở nhân gian, chết đi rồi vẫn tạo nên phép mầu nhường ấy. Hai bà khiếp đảm đến mức nào? Cứ xét việc mặc giáp cho tử thi hóa sáp và phúng viếng tại đây, đủ thấy đối với hai bà, cha tôi chính là thần.
Đúng ra xác nhận được đáp án là đủ thỏa mãn rồi, không hiểu sao tôi vẫn chưa nguôi tò mò. Tôi nhẹ nhàng đẩy xác cha sang một bên, mở nắp quan tài đá nhìn vào bên trong. Sau này nghĩ lại, hành động đó đã dẫn đến một thay đổi cực kì to lớn trong vận mệnh tôi.
Quan tài đựng một khẩu súng săn đã cũ, một thanh kiếm Nhật và ba cây đèn hỏng. Đây chẳng phải di vật từ đêm kinh hoàng ấy, là nguồn gốc cơn ác mộng tới nay chưa dứt của dân thôn Tám Mộ hay sao? Tôi phát run, định đóng nắp quan tài thì bắt gặp một vật, soi đèn lại gần thì thấy óng ánh. Tôi bèn nhặt lên. Vật đó bằng kim loại hình bầu dục, kích thước 15×9 cm, cầm khá nặng tay. Một mặt có dấu vết giống vân gỗ, mặt còn lại hơi nhám. Tôi đặt vào lòng bàn tay và mở to mắt quan sát, cơn rùng mình bất thần chạy dọc sống lưng.
Á, là miếng vàng phải không nhỉ?
Răng chợt va lập cập, người run lẩy bẩy, tôi thò tay sờ soạng đáy quan tài.
Tìm được ba miếng vàng.
Đêm ấy trở về, tôi thấy người lâng lâng như bị sốt, phấn khích đến khô cả cổ. Vừa bước vào phòng đã vớ bình nước uống ừng ực. Tôi đã hiểu tấm lòng của mẹ, hiểu rõ lý do mẹ bỏ mảnh bản đồ vào túi bùa bình an và dặn tôi giữ gìn. Và tôi cũng thấm thía một điều, rằng dứt khoát không được xem thường các truyền thuyết địa phương.
Cách đây 380 năm, trước khi bị tổ tiên của cư dân thôn Tám Mộ giết chết, chẳng phải tám võ sĩ gia tộc Amako đã chất ba ngàn lượng vàng lên lưng ba con ngựa và đi đến vùng này sao? Thôn dân giết họ một phần cũng vì thèm thuồng số vàng ấy, nhưng về sau lại không thấy vàng đâu cả.
Vàng được cất giấu trong hang động kia chăng? Và hai mươi sáu năm trước, người cha chạy trốn lên núi rồi chui xuống lòng đất của tôi loạng quạng thế nào lại sa ngay vào chỗ giấu vàng, mới lấy được ba miếng thì bị hai bà đầu độc? Tuy hai bà không biết tại sao cha lại có vàng, nhưng cũng không băn khoăn nhiều mà đem cất vào quan tài đá cùng những vật dụng khác của cha?
Đúng là thế rồi. Ngoài giả thuyết đó ra thì khó có cách giải thích nào hợp lý hơn về ba miếng vàng.
Tôi nghe nói người đầu tiên cho đúc vàng miếng có khối lượng và độ tinh khiết theo quy định là Oda Nobunaga [*] . Trước đó người ta chỉ dùng búa đập phẳng cục vàng, không khắc dấu [*] cũng chẳng có hình thù cố định, khi cần thì cân đo rồi cắt xẻo để dùng. Miếng vàng tôi nhìn thấy khi nãy có lẽ cũng giống thế. Gia tộc Amako diệt vong vào năm Vĩnh Lộc thứ 9, trước khi Oda Nobunaga thống nhất thiên hạ. Lúc đó quần hùng tranh bá, tuy có tiền trang nhưng vì là thời loạn nên mỗi vùng lại có vàng miếng riêng.
Để chuẩn bị cho ngày phục hưng gia tộc, tám võ sĩ đã chất các miếng vàng lên lưng ngựa rồi bỏ trốn, nên cách nói “ba ngàn lượng vàng” có lẽ không chính xác lắm. Hậu thế truyền miệng rồi thổi phồng lên thành ba ngàn lượng, nhưng cũng chẳng quan trọng. “Các võ sĩ gia tộc Amako đem theo một số vàng”, “cất giấu chúng”, và “bây giờ chúng vẫn nằm ở đâu đó”... chỉ cần những điều này là thật thì số lượng nhiều hay ít không thành vấn đề. Và ba miếng vàng trong quan tài đá chính là bằng chứng cho sự thật.
[*] (1534-1582), một lãnh chúa có công rất lớn trong việc thống nhất Nhật Bản, chấm dứt thời kì chiến loạn kéo dài khắp nước.
[*] Dấu khắc trên miếng vàng nhằm chứng nhận chất lượng và chống làm giả.
Từng chân tơ kẽ tóc trên người tôi đều run lên vì hưng phấn. Tôi cởi túi bùa bình an luôn mang theo bên người, run run lấy mảnh bản đồ vẽ trên giấy Nhật ra. Như đã nói, bản đồ trình bày bằng nét bút lông. Có ba địa điểm mang tên rất kì lạ: Cằm Rồng, Hang Cáo và Vực Thẳm Ma Trơi, kế bên có đề vài câu đầu của một bài thơ như sau.
Nếu muốn săn báu vật, phải khiếp sợ cằm rồng
Giữa trăm hang cáo nhỏ, lạc là chết, biết không?
Chớ uống nước của quỷ, tại vực thẳm ma trơi
Chẳng những không hết khát, mà còn cháy tơi bời.
Không còn nghi ngờ gì nữa. Trước đây tôi đọc bài thơ mà không suy nghĩ sâu xa gì, giờ đọc kĩ mới nhận ra nó viết hướng dẫn và những điểm cần chú ý khi đi đến ngọn núi chôn kho báu. Dọc đường có nhiều nơi hiểm trở như Cằm Rồng, Hang Cáo, Vực Thằm Ma Trơi... lạc bước vào là gặp rủi ro bỏ mạng. Tôi không biết vì sao mẹ lại có mảnh bản đồ. Tôi cũng không biết ai sáng tác ra bài thơ. Nhưng tất cả đều chẳng quan trọng. Chỉ cần biết rằng bản đồ này dẫn đến kho báu ba ngàn lượng vàng giấu trên núi là đủ.
Tim đập dồn dập, tôi nhìn sang phần bản đồ. Càng xem càng tuyệt vọng, vì bản đồ không hoàn chỉnh. Đôi chỗ nét vẽ phai mờ hoặc đứt đoạn, có lẽ vì người vẽ chưa khám phá hết đường lối ngóc ngách. Chỉ thế thôi thì còn tạm chấp nhận. Đằng này, bối rối nhất là tôi không biết khu vực trên bản đồ là ở đâu, cũng không tìm ra địa điểm nào tương ứng với hang động mà tôi quen thuộc. Đây là lần đầu tôi nhận ra tầm quan trọng của mảnh bản đồ Haruyo đang giữ. Chị từng nói trên mảnh của chị có ghi địa danh “Khỉ Ngồi”. Nếu là Khỉ Ngồi thì tôi biết. À, đúng rồi. Có lẽ bản đồ của chị và của tôi là hai mảnh liền nhau, của chị vẽ lối vào, của tôi vẽ đường đi sâu bên trong. Nhưng tại sao bản đồ tôi cầm cũng không ghi chỗ chôn kho báu? Lẽ nào còn một phần tiếp theo...
Đêm ấy tôi không ngủ được. Tôi không hẳn là nột kẻ tham lam, giờ có tìm ra số vàng đi nữa thì chưa chắc nó đã hoàn toàn thuộc về tôi một cách hợp pháp. Nhưng tôi vẫn rất phấn khích và lâng lâng vì yếu tố lãng mạn ẩn chứa trong đó. Một kho báu bị chôn giấu luôn gợi lên cảm giác hoài niệm của con người, bằng chứng là ngày nay người ta vẫn rất yêu chuộng những tác phẩm như Đảo châu báu [*] hay Kho báu của vua Solomon [*] đấy thôi. Phần phiêu lưu trong các tiểu thuyết ấy cố nhiên là ly kì, nhưng hấp dẫn nhất phải là phần tìm được kho báu.
Hôm sau, tôi rất muốn đề cập với Haruyo về bản đồ, lại không biết nên mở lời thế nào, có lẽ là vì tham vọng ấp ủ trong lòng đã nảy mầm. Nếu nó không phải bản đồ kho báu mà chỉ đơn thuần là sơ đồ đi lại trong hang động thì tôi đã dễ trao đổi. Lợi dụng sự thiếu hiểu biết của chị để lấy được thứ mình cần là hành vi vô lương tâm, tôi đâm ra lưỡng lự, nhưng cũng không muốn hé lộ bí mật với chị. Việc tìm vàng tôi sẽ giữ cho riêng mình thôi, cứ để nó là bí mật thì kích thích hơn. Rốt cuộc hôm ấy tôi đánh mất cơ hội đề cập đến bản đồ.
[*] Treasure Island.
[*] King Solomon's Mines.
Mà cũng hôm ấy, Kindaichi ghé nhà tôi sau một thời gian dài không gặp. Anh ta bảo là đến thăm bệnh, tiện thể kể một chuyện lạ lùng.
“Hôm nay tôi xin đính chính một việc. Lần trước đến đây tôi có nói ni Chè Đặc bị giết vào khoảng 12 giờ, còn bác sĩ Kuno đã lên tàu ở ga N vào lúc 10 giờ 50 phút nên có chứng cứ ngoại phạm hoàn hảo, ít nhất là trong án mạng của ni Chè Đặc. Thật ra đó là một sự nhầm lẫn.”
“Nhầm lẫn ư?”
“Người lên chuyến tàu xuất phát lúc 10 giờ 50 phút không phải bác sĩ Kuno mà là một người khác. Nhân viên nhà ga nhận nhầm người. Thỉnh thoảng cũng xảy ra sai sót như thế nên công tác điều tra phiền phức lắm.” Kindaichi gãi gãi cái đầu tổ quạ. “Mà đêm đó, nếu bác sĩ Kuno không lên chuyến 10 giờ 50 phút thì tình hình thay đổi ra sao? Dù tàu ngược hay tàu xuôi, 10 giờ 50 phút vẫn là chuyến cuối ngày, và trước chuyến đầu tiên của ngày hôm sau, cảnh sát đã kịp triển khai hành động ở ga rồi. Suy ra bác sĩ Kuno không hề bắt tàu hỏa, dù điểm đến là nơi nào đi nữa.”
Tôi bất giác nhíu mày, “Không bắt tàu thì có thể chạy đi đâu? Từ đó đến nay đã mười ngày trôi qua...”
“Đúng, nên tôi nghĩ bác ta chạy lên núi. Hung thủ vụ thảm sát hai mươi sáu năm trước cũng chạy lên núi rồi mất tích đấy thôi. Chưa biết chừng vụ lần này cũng…” Đến đây, dường như anh ta nhận ra mặt tôi biến sắc. “Ô, cậu sao thế? Mặt tái cả đi này! A, xin lỗi, tôi vô ý quá. Ai lại đi bình luận với cậu chuyện hai mươi sáu năm trước chứ. Xin lỗi cậu nhé.”
Sau đó anh ta liêu xiêu ra về. Không hiểu nổi đến đây làm gì nữa.
Tối hôm ấy, hai bà lại mời tôi đến phòng uống trà.
“Tatsuya, dạo này cháu vất vả quá. Nhờ cháu chăm sóc mà Haruyo khỏe lại. Mọi người cảm kích cháu lắm đấy.”
“Chị Koume nói phải. Không có cháu chắc mọi người không xoay xở được. Người làm trong nhà cũng đâu thể giúp mình xử lý tất cả mọi việc.”
Hai bà vẫn ngồi thu lu như hai con khỉ, môi mím chặt như túi rút dây. Tôi cứng đờ người, chỉ biết cúi đầu vâng dạ.
Bà Koume cười, “Sao cứng đờ người thế kia, thả lỏng đi nào. Cháu gò bó quá thì hai bà cũng không tự nhiên. Tối nay bà Kotake pha trà để thưởng cho cháu đấy.”
Nghe đến từ “trà”, tôi giật thót nhìn lên, hai bà đều ra vẻ vô tư, “Trà do hai bà già nhăn nheo mời, chắc cháu cũng chẳng thích thú gì, nhưng tấm lòng là chính. Nào, uống cho hai bà vui.”
Bà Kotake khẽ phẩy khăn tay, dường như sực nhớ nên hỏi, “À, Tatsuya, bệnh tình của Haruyo là thế nào nhỉ?”
“Ý bà là sao ạ...?”
“À!” Bà Koume nhích gối lên một chút. “Đứa bé đó vốn dĩ yếu ớt, chẳng làm ăn gì được, tuy nhiên tinh thần khá vững vàng, lâu rồi không ốm liệt giường như thế. Sao bỗng nhiên lại sốt cao?”
“Đúng thế. Thầy Arai hỏi là gần đây Haruyo lo lắng, gặp trục trặc hay trăn trở điều gì. Bà tuyệt nhiên không đoán ra, cháu có biết không?”
“Cháu không rõ, chắc là mệt mỏi tích tụ sau đám tang anh Hisaya, đến giờ mới bùng phát ra?”
“Cũng hợp lý, nhưng liệu có còn nguyên nhân nào khác không, Kotake nhỉ?”
“Vâng, cháu nó buông ra vài lời lạ lùng giữa lúc hôn mê nữa. Cái gì mà ‘mật đạo’, ‘áo giáp’, rồi còn gọi cha ời ời... Tatsuya, nghĩa là sao đây?”
Bà Kotake ngừng tay khuấy trà, chăm chú nhìn tôi. Bà Koume cũng nhíu mày dò xét.
Mồ hôi đổ ướt nách áo tôi. Hai bà mời tôi sang đây là để thăm dò về những lời nói sảng của Haruyo. Ý nghĩa thế nào hai bà đã hiểu, nên mới vội vàng thăm dò xem chúng tôi đã biết được bao nhiêu.
Thấy tôi vẫn giữ im lặng, bà Koume bật cười, “Tatsuya đâu phải là Haruyo, làm sao cháu nó hiểu được mấy lời nói mớ ấy chứ. Kotake, em cho cháu cốc trà đi.”
“Vâng, em cả nghĩ quá... Đây, uống đi cháu.”
Tôi im lặng nhìn hai bà đang vờ tươi cười, rồi nhìn cốc trà, nỗi sợ hãi len lỏi vào tận những góc nhỏ nhất trong tim. Tôi nhớ lại câu chuyện của Haruyo. Chính hai bà, cũng với gương mặt tươi cười như thế, đã đưa thuốc độc cho cha vào hai mươi sáu năm trước dưới hang nhỉ? Cứ nghĩ lại thấy hai bà lão nhăn nheo này chẳng khác gì yêu quái, dị thường và độc ác.
“Sao, Tatsuya? Đây là tấm lòng của bà Kotake đấy. Nên uống ngay khi còn nóng.”
Lần này chết chắc rồi. Tay tôi run rẩy nâng cốc, răng va miệng cốc lạch cạch. Tôi nhắm tịt mắt, vừa thầm khẩn cầu thần linh vừa uống một hơi cạn sạch. Giống như lần trước, trà đẳng nghét làm lưỡi tôi như bị kim châm.
“Ồ, uống cạn rồi này. Tatsuya, chắc là cháu mệt lắm. Thôi, về phòng nghỉ ngơi đi.”
Tôi lảo đảo đứng lên, mơ hồ cảm thấy hai bà nhìn nhau ngoạc miệng cười.
Dù đây là lần thứ hai uống trà, tôi vẫn sợ hãi y hệt lần đầu, nhưng lần này là do đã hiểu được toan tính của hai bà. Nghe Haruyo nói mớ, hai bà đâm lo chị đã biết chuyện mật đạo. Tuy cao tuổi và hơi lẩm cẩm, hai bà vẫn rất giảo hoạt và tỉ mi, hẳn là định đêm nay xuống xem rốt cuộc Haruyo đã phát hiện được đến đâu. Và để tránh bị tôi phát hiện, họ bèn cho tôi uống thuốc ngủ.
Tốt thôi, tôi sẽ ngủ theo ý hai bà. Dù sao thì gần đây tôi cũng lao tâm khổ tứ và kích động nhiều nên mệt lả, đánh một giấc ngon lành là tử tế với cơ thể. Thưa hai bà, mời hai bà cứ thoải mái đi xuống mà kiểm tra.
Tôi về phòng, tắt đèn rồi chui vào nệm Shima trải sẵn, lòng hồi hộp nên thuốc ngủ cũng vô hiệu thì phải, dù chẳng có gì để hồi hộp. Tôi dỏng tai đợi xem khi nào hai bà xuất hiện, mắt mở thao láo.
Trằn trọc hơn một tiếng đồng hồ, cuối cùng cũng nghe tiếng bước chân êm ru từ phía hành lang dài vọng đến, hai bà cầm nến bước vào phòng tôi như lần trước, tôi lập tức nhắm mắt giả vờ ngủ.
Hai bà soi nến nhìn xuống gương mặt tôi.
“Nhìn này, Tatsuya đang ngủ say cơ mà. Không phải lo đâu Kotake.”
“Đúng là đang ngủ thật. Ban nãy uống trà, cháu nó căng thẳng quá nên em tưởng nó phát hiện trong trà có thuốc chứ... Thế này thì yên tâm rồi.”
“Ừ. Khi chúng ta quay về Tatsuya vẫn chưa thức dậy đâu.”
“Mình đi thôi chị.”
“Ừ ừ.”
Hai bà lặng lẽ sang nhà kho, bóng hắt lên cửa như hôm nọ, tiếng nắp rương mở ra đóng lại vọng sang, tiếp theo là sự tĩnh mịch của đêm.
Tôi hít thở thật sâu, không biết nên nằm đây chờ hai bà quay lại hay bám theo. Lưỡng lự một hồi, cuối cùng cho rằng theo dõi cũng chẳng được lợi lộc gì, tôi biết thừa họ đi đâu rồi. Hai bà định đến chỗ Khỉ Ngồi để xác nhận sự nguy của “đức Phật” hóa sáp chứ gì. Có bám theo cũng như không.
Thế là tôi quyết định nằm trong chăn chờ đợi. Bây giờ nghĩ lại, sự lười nhác này đã mang lại tai họa khủng khiếp cho hai bà và cả bản thân tôi. Giá như lúc đó tôi chịu khó bám theo thì êm xuôi mọi bề. Tiếc rằng, chuyện đã xảy ra thì không thể thay đổi. Chẳng ai biết nơi hai bà sắp đến lại có một con quỷ rình sẵn. Mặc dù kết quả thật bi kịch, nhưng tôi tin rằng thần linh sẽ tha thứ cho sự lười nhác của tôi thôi.
Quay lại câu chuyện. Hai bà đi rồi, tôi thôi căng thẳng. Mà hết căng thẳng thì thuốc ngủ cũng phát huy tác dụng, chẳng mấy chốc tôi đã mơ màng, vì thế không ước lượng được hai bà xuống mật đạo bao lâu thì sự cố phát sinh.
Một trong hai chị em sinh đôi hoảng loạn lay tôi dậy. Tôi không nhận ra là bà nào, nhưng dáng vẻ kinh sợ của bà khiến tôi tỉnh hẳn.
“Bà ơi, sao thế ạ?” Tôi ngồi bật dậy trên nệm, nhìn gương mặt nhăn nhúm vì hoảng sợ của bà. Quên chưa nói là bà đã bật đèn trước khi đánh thức tôi nên phòng giờ sáng trưng.
Bà nhăn mặt, xem chừng muốn nói nhưng líu lưỡi nên không ra lời. Kimono dính đầy bùn đất, đôi chỗ còn rách. Chắc chắn có chuyện không hay rồi. Lòng nặng như chì, tôi hỏi, “Bà ơi, sao thế ạ? Sao bà chỉ có một mình?”
“Ôi, chị Koume... chị Koume...”
“Vâng, bà Koume đâu ạ?”
“Bị bắt mất rồi. Tatsuya, Phật sống lại rồi. A a, thật khủng khiếp. Phật hồi sinh, còn cử động nữa. Tatsuya, mau đi cứu chị Koume, không thì chị ấy bị kéo vào trong động và bị giết mất. Nhanh lên Tatsuya, mau đi cứu chị Koume.”
Tôi giật mình nhìn bà Kotake đang gào khóc như trẻ nhỏ, đưa tay lắc mạnh vai bà, “Bà ơi, bà Kotake, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Bà nói làm cháu không hiểu gì cả. Bà bình tĩnh nói lại một lần nữa đi ạ.”
Bà Kotake chẳng những không bình tĩnh mà còn như mất trí, không thể cứu vãn được. Người già hễ kích động là giống hệt trẻ năm sáu tuổi bướng bỉnh. Bà Kotake buông thống tay khóc nức nở, rồi lại nói liến thoắng. Lời lẽ vô cùng khó hiểu, mãi tôi mới nắm bắt được ý chính.
Hai bà đi qua mật đạo đến chỗ Khỉ Ngồi, định kiểm tra tình trạng của tử thi hóa sáp thì bắt gặp một việc kì quái. Bộ giáp trên bệ thờ bất ngờ chuyển động rồi nhảy xổ vào họ.
Tất nhiên tử thi hóa sáp không thể nào sống lại được, đó chẳng qua chỉ là ảo giác của bà Kotake mà thôi, thực tế là có kẻ lén lút nấp ở đấy. Chắc hẳn hắn đang lảng vảng gần bệ thờ thì hai bà đi đến, tình thế cấp bách, hắn đành leo lên cao, ẩn mình sau bộ giáp. Vì ánh nến lờ mờ nên chuyển động của hắn nhìn như bộ giáp tự cử động vậy.
Tính ra câu chuyện không hề ly kì, vì tôi biết có người thường ra vào mật đạo. Nhưng nếu hắn nhảy xổ vào hai bà thì lại là chuyện khác, huống chi hắn còn bắt một bà theo thì không thể khoanh tay đứng nhìn.
Tôi nhanh chóng mặc thêm áo và hỏi, “Bà ơi, có người kéo bà Koume vào sâu trong hang thật ạ?”
“Tất nhiên là thật. Ai lại đi nói dối cơ chứ! Tiếng kêu cứu thảm thiết của chị còn văng vẳng bên tai bà đây. Thanh niên trai tráng, cháu mau nhanh chân cứu chị Koume di.”
“Bà ơi, bà có thấy người kia bộ dạng thế nào không?”
“Làm sao bà biết được. Thấy Phật nhảy xổ đến, bà giật mình đánh rơi nến nên xung quanh tối như hũ nút.”
Nói xong, bà lại khóc ré lên như trẻ con. Nghe ồn ào, Haruyo từ phía nhà chính chạy sang, thấy cảnh ấy thì nhăn mặt, “Bà, Tatsuya, hai bà con sao thế? Đã xảy ra chuyện gì?”
“Ôi, Haruyo, Haruyo ơi!” Thấy cháu gái, bà Kotake lại khóc toáng lên.
Tôi thuật lại ngắn gọn cho chị nghe.
“Thế nên em phải xuống chỗ Khỉ Ngồi một lát. Chị cho em mượn đèn lồng.”
“Tatsuya, chị đi cùng em...”
“Không, chị ở lại nhà đi. Chị chưa khỏe hẳn nên đừng cố quá.”
“Nhưng…”
“Không được. Chị cũng đi mất thì bà Kotake biết làm sao? Phải chăm sóc bà chứ! Mau đưa đèn lồng đây...”
Haruyo miễn cưỡng quay lại nhà chính đem đèn lồng sang, “Em sẽ ổn chứ?”
“Vâng, em sẽ ổn, và cố gắng về sớm.”
“Em nhớ cẩn thận đấy.”
Để Haruyo vẫn bứt rứt và bà Kotake ở lại phòng, tôi cầm đèn lồng chui vào mật đạo bên dưới rương. Do đã quen, tôi không bị lạc như trước nữa, đi qua cửa vòm là chọn ngay ngả rẽ bên trái, tiến về chỗ Khỉ Ngồi. Gần đến đích, tôi giật mình đứng lại, nhanh tay giấu đèn ra sau lưng, vì tôi nhận ra phía Khỉ Ngồi lờ mờ ánh lửa.
Có người! Trán tôi toát mồ hôi, tim đập mạnh như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, khoang miệng khô khốc, lưỡi không nhấc lên nổi. Vì có mang theo diêm để dễ dàng thắp nến khi cần, tôi bèn thổi tắt đèn lồng.
May là kẻ nọ dường như không nhận ra ánh sáng phía này. Ánh lửa của hắn vẫn chập chờn nhảy múa trên vách động ở chỗ rẽ. Tôi cố bước thật khẽ, lần mò đi tới. Rẽ qua đây là tầm nhìn sẽ bao quát được hang động có hốc đá Khỉ Ngồi ở bên kia, quả thật có người cầm đèn lồng đứng ở đấy.
Tôi dán lưng vào vách đá, nhích thêm bốn, năm bước, khi chỉ còn cách hắn một đoạn, tôi không khỏi kinh ngạc bật thốt, “Noriko.”
“Á.” Quả thật là Noriko. Em quay phắt lại, giơ cao đèn lồng nhìn quanh quất vào bóng tối. “Anh ơi? Là anh đúng không? Anh ở đâu thế?”
Tôi nhảy ra ôm chặt lấy vai Noriko, nỗi xúc động mạnh mẽ trào dâng trong lồng ngực, tỏa hơi ấm khắp cơ thể tôi. “Sao em lại đến đây?”
Noriko nũng nịu dựa vào ngực tôi, “Em đến tìm anh. Nghĩ rằng sẽ gặp được anh nên đêm qua và cả đêm hôm trước nữa em đều đợi ở đây, tại đã xa anh lâu lắm rồi.”
Ôi, sao tình yêu của Noriko lại mãnh liệt đến thế? Chỉ với một tia hi vọng mong manh là gặp được tôi mà em chẳng buồn bận tâm đến bóng đêm đặc quánh hay hang động sâu thẳm. Sự ngây thơ đáng yêu của em khiến lòng tôi dâng lên cảm xúc khó tả.
“Thế à, xin lỗi em nhé. Gần đây anh bận quá, không dứt ra được.”
“Không sao đâu. Chị bị ốm mà. Tối nay được gặp anh, em vui lắm.”
Tôi xúc động, bất giác siết chặt vòng tay. Noriko vui sướng thuận theo. Nhịp đập rộn rã của trái tim chúng tôi hòa làm một, truyền sang cơ thể nhau. Tôi vuốt tóc em chốc lát, rồi nhận ra bây giờ không phải lúc thích hợp, bèn buông tay khỏi vai em, “Noriko!”
“Vâng?”
“Em đến đây khi nào? Lúc đó có gì bất thường không?”
Noriko hồi tưởng, mắt hằn nỗi lo sợ, “À phải, có một việc khá kì lạ. Lúc đến ngã ba, em khựng lại vì nghe tiếng hét vô cùng thê thảm, đồng thời có người sượt qua chỗ em như vấp té. Một người nhỏ như khỉ... lảo đảo chạy về hướng nhà anh.”
Có lẽ đó là bà Kotake. Tôi thở dốc, “Sau đó em làm gì?”
“Có làm được gì đâu. Em sửng sốt quá nên đứng chôn chân tại chỗ luôn. Sau đó tiếng hét bi thảm lại vang lên hai, ba lần từ khu vực này. Dường như có người kêu cứu nữa, nên em dù sợ cũng rén đến xem thử.”
Tôi không khỏi thán phục sự gan dạ của Noriko, “Sau đó thì sao?”
“Em càng đến gần khu vực này thì tiếng hét càng xa, cuối cùng em chẳng nghe thấy gì nữa. Hẳn người đó đã đi sâu vào hang rồi.”
Kẻ kia đã kéo bà Koume đang khóc thét vào sâu trong hang động tối tăm hun hút. Tôi tưởng tượng mà chân bủn rủn, cả người tê dại.
Tôi thắp lại nến trong đèn lồng rồi cùng Noriko xem xét quanh chỗ Khỉ Ngồi. Trên nền đất ẩm ướt chi chít vết chân lộn xộn và vết kéo lê chạy dài vào phía trong. Dù thủ phạm là ai đi nữa, chắc lúc đó bà Koume cũng như chim sẻ gặp đại bàng, như con mồi trước miệng thú dữ. Hình dung cảnh bà vừa bị con quái vật tàn nhẫn xốc nách kéo vào bóng tối âm u vừa tuyệt vọng kêu cứu, tôi thấy người như đông cứng lại.
“Noriko, tiếng hét mất hút vào hang động kia đúng không?”
“Vâng, tiếng hét rất thảm thiết, cứ văng vẳng bên tai em một lúc lâu.”
Vai Noriko run lên. Tôi giơ cao đèn lồng, xem xét phía cuối hang động. Chỗ chúng tôi đang đứng khá rộng rãi, chạy vào bên trong là một lối đi dài ngoằn ngoèo.
“Anh ơi, mình đi đến cuối hang thử xem nhỉ?”
“Em dám đi không?”
“Đi cùng anh thì em không sợ.” Noriko cười, để lộ ra hàm răng trắng.
Em là một cô gái yếu ớt do sinh thiếu tháng, nhưng bên trong cơ thể mong manh ấy ẩn chứa lòng can đảm và sự lạc quan. Dường như chính niềm tin đối với tôi đã sinh ra lòng can đảm và sự lạc quan ấy. Không hẳn là cảm giác chỉ cần người mình yêu ở cạnh bên thì dẫu cho hiểm nguy thế nào cũng không sợ hãi, mà dường như em tin chắc rằng chẳng có gì nguy hiểm ở đây cả. Noriko giống như đứa bé mới sinh, mộc mạc và đơn thuần.
“Ừ, đi thử cũng được, nhưng trước đó mình xem qua chỗ Khỉ Ngồi nhé.”
Tôi khá chú ý đến lời bà Kotake. Bà nói là Phật sống lại và cử động, nên tôi phải kiểm tra thực hư thế nào đã. Tôi quay lại phía Khỉ Ngồi, giơ cao đèn và ngước nhìn bệ thờ. Quả đúng như tôi nghĩ. Võ sĩ mặc giáp ghê rợn vẫn ngồi trên quan tài đá, nhìn chằm chằm xuống chúng tôi bằng đôi mắt hóa sáp dưới mũ sắt. Vị trí ngồi có chút thay đổi so với lần trước. Phải chăng kẻ nào đó đã di chuyển cái xác và mở nắp quan tài đá?
Tôi chợt nhớ ra rằng bên trong quan tài có ba miếng vàng. Lần trước phát hiện xong tôi đã cất vào chỗ cũ, bây giờ liệu có còn ở đó không?
“Noriko, em đợi tí nhé. Anh leo lên xem một chút.”
Tôi leo lên bệ thờ, cẩn thận dời cái xác qua một bên, mở nắp quan tài, và toát mồ hôi. Ba miếng vàng bên trong đã không cánh mà bay. Ai đó đã lấy đi rồi... Lòng tôi dâng lên nỗi tự trách và thất vọng khó tả. Sao hôm trước tôi không đem vàng theo? Sao lại để ở đây?
Một miếng vàng này cỡ 43 hoặc 44 chỉ. Vàng nguyên chất chiếm khoảng 80%, tương đương 32 chỉ. Theo giá vàng hiện nay, 1 chỉ khoảng 2000 yên, vậy một miếng vàng có giá khoảng 64.000 yên. Mất ba miếng vàng cũng như mất khoảng 200.000 yên. Nhưng tôi tức giận không phải vì để mất 200.000 yên [*] một cách quá dễ dàng.
Ba miếng vàng ấy là minh chứng cho việc đâu đó trong đây có chôn giấu một kho báu khổng lồ. Kẻ lấy vàng có nhận ra điều này không? Nếu có thì hắn sẽ tìm kiếm thôi, và tôi sẽ có một đối thủ đáng gờm trong cuộc săn lùng kho báu. Sao tôi lại không cất ba miếng vàng vào nơi an toàn hơn chứ...
“Anh ơi, anh sao thế? Trong quan tài có gì à?” Giọng Noriko kéo tôi về thực tại.
“À, không có gì đâu.” Tôi lau mồ hôi trán, đậy nắp quan tài, dời thi thể mặc giáp về vị trí cũ rồi nhảy xuống khỏi bệ thờ.
“Anh có sao không? Mặt anh tái mét rồi.”
Có lẽ thế thật. Tôi quá hẫng hụt, cảm giác như viên ngọc trong tay mình bị kẻ khác đoạt mất.
“Anh không sao đâu.” Tôi cố gắng khôi phục tinh thần. “Noriko, có một kẻ khả nghi đã nấp sau lưng thi thể mặc giáp. Hai bà đi đến đây mà không hề hay biết, đang cầu cúng thì hắn bất ngờ nhảy xổ ra, bắt bà Koume rồi chạy trốn vào sâu trong hang.”
“Trời!” Noriko mở to mắt. “Tiếng hét khi nãy là của bà Koume?”
[*] Tương đương 230 triệu đồng Việt Nam ngày nay.
“Đúng thế. Và người chạy sượt qua em là bà Kotake.”
Tôi đã luôn sợ sự việc sẽ thành thế này mà. Bây giờ ở thôn Tám Mộ, có kẻ đang tiến hành một kế hoạch điên cuồng. Hắn dự định giết một người trong một cặp tương đương, chẳng phải hai bà là cặp tương đồng điển hình nhất trong thôn sao? Nguyên cớ khiến hung thủ nghĩ ra kế hoạch điên rồ này hẳn là việc một trong hai cây liễu sam sinh đôi bị sét đánh, dễ dàng suy ra một trong hai bà (vốn được đặt tên theo cặp cây) sớm muộn gì cũng bị chọn làm vật hiến tế.
Tôi sởn gai ốc khi tưởng tượng cảnh bà lão nhỏ nhắn không có sức kháng cự bị giết hại như trong một bức tranh đẫm máu [*] . Dù đối phương là ai đi nữa thì việc giết một bà lão yếu ớt như thế còn dễ hơn xé một miếng giẻ.
“Anh ơi, mau đi thôi. Không thể để mặc bà bị bắt như thế được. Mình vào tìm thử đi.”
Gặp lúc nguy khốn thì cô gái nào cũng trở nên can đảm sao? Noriko dũng cảm hơn tôi nhiều. Nghe em thúc giục, cuối cùng tôi bình tĩnh lại, “Ừ, đi thôi.”
Tuy nhiên, một khó khăn bất ngờ xuất hiện. Ngoài con đường đưa chúng tôi đến đây, sâu trong hang còn có ba đường khác, không biết nên chọn ngả nào. Chúng tôi cẩn thận xem xét mặt đất, nhưng vết kéo lê đến khu vực này thì biến mất. Có thể thủ phạm đã cõng hoặc ẵm bà lên, bà nhỏ và nhẹ như thế, chẳng tốn sức lắm.
[*] Muzan-e. Một thể loại tranh in hoặc khắc gỗ vào cuối thời Edo và kéo dài đến thời Minh Trị, chuyên lấy cảnh giết chóc hoặc tra tấn ghê rợn trong kịch hoặc lịch sử làm đề tài.
“Khó rồi!”
"Ừ.”
“Hay mình chọn bừa đi?”
Noriko quả thật rất gan dạ, nhưng tôi không muốn mạo hiểm, “Không được, mình đâu biết cuối đường có cái gì.”
“Cũng đúng.”
Chúng tôi do dự nhìn nhau. Đúng lúc này, tiếng bước chân vang lên dồn dập đằng sau cho thấy có người đến gần. Tôi và Noriko quay phắt lại. Ở khúc ngoặt hiện ra một cái đèn lồng lơ lửng.
“A, Tatsuya phải không?” Giọng Haruyo.
Tôi nhẹ nhõm đặt một tay lên ngực. “A, sao chị lại xuống đây thế? Chị có mệt lắm không?”
“Chị không sao. Tại chị lo quá... Vả lại chị muốn đưa cho em cái này..”
“Cái gì thế ạ?”
“Đây.” Chị nhanh chân tiến lại, bấy giờ mới nhận ra sự có mặt của Noriko. “Trời!” Chị ngạc nhiên mở to mắt. “Em cũng đến đây à?”
“Vâng, hai anh em tình cờ gặp nhau. Chị định đưa gì cho em thế?” Giải thích về Noriko thì quá mất thời gian, tôi bèn giục Haruyo để đánh trống lảng.
“À, đây là bản đồ chị nhặt được ở nhà ngang mà có lần chị kể ấy... Ban nãy chị nhận ra là trên bản đồ có ghi địa danh Khỉ Ngồi, tự nhủ biết đâu lại là bản đồ hang động nên đem xuống…”
Tim tôi nảy lên. Như từng kể, tôi đã luôn muốn lấy được bản đồ này, nhưng vì không nhẫn tâm lừa Haruyo nên đành im lặng, cuối cùng chị lại tự đem đến, khiến lòng tôi lâng lâng. Tuy nhiên tôi cố gắng không để lộ niềm vui ra mặt.
“À, vâng, em cảm ơn chị. Hình như bà Koume bị kéo vào sâu trong hang động này, nhưng chúng em đang phân vẫn không biết nên chọn ngả nào.”
“Thế à? Vậy thì là đường ở giữa rồi. Em nhìn xem, hai ngả còn lại là ngõ cụt.”
Tôi soi đèn xem bản đồ, quả thật trong ba ngả từ hang Khỉ Ngồi, hai ngả hai bên đi một đoạn là hết, riêng đường ở giữa là ngoằn ngoèo như rắn, kéo ra rất dài. Tôi muốn xem bản đồ kĩ hơn nữa, nhưng hiện giờ còn có việc cấp bách phải làm. “Em sẽ đi đường này thử xem. Cảm ơn chị. Chị về cẩn thận nhé.”
“Ơ... Noriko thì sao?”
“Noriko sẽ đi cùng em.”
“Noriko đi thì chị cũng đi.” Giọng Haruyo nóng nảy khác thường, khiến tôi bất giác phải nhìn chị. Mặt chị đanh lại lạ lùng.
“Chị ơi, bà Kotake thì sao...?”
“Chị cho bà uống thuốc ngủ rồi, giờ bà đang ngủ say lắm. Dù sao thì chị cũng sẽ đi cùng với hai em.” Haruyo cau có nói rồi tự đi vào mật đạo trước, thái độ bướng bỉnh khác hẳn thường ngày khiến tôi và Noriko bỡ ngỡ nhìn nhau.
Ôi, sao tự nhiên chị lại hậm hực như thế chứ? Và liệu chúng tôi sẽ tìm được gì ở cuối đường đây?