PHẦN I
Trong cuốn sách này thường nói về sự thông thái, định mệnh, về lẽ công bằng, về hạnh phúc và tình yêu. Thoạt nhìn có thể không khỏi có cảm tưởng như thật mỉa mai khi đi bàn về cái hạnh phúc vô hình nào đó giữa những đau khổ quá ư hiện thực, về lẽ công bằng, có thể toàn thiện đấy, nhưng lại bị che lấp dưới tầng tầng lớp lớp giả dối, hỡi ôi, quá thô bỉ, về tình yêu thật khó nắm bắt trong tình cảnh sự thù ghét và vô tình lộ quá rõ. Có thể có cảm giác đáng tức giận và thật rỗi hơi những cố gắng nhằm phát hiện ra trong các nếp sâu kín nhất của tâm hồn con người những tư chất của lòng tin và tính an hòa, những tâm cảm cho phép con người ta nở nụ cười, vui sướng và yêu thương, những tình cảm khơi gợi lòng tri ân và sự ngạc nhiên - trong khi phần lớn mọi người, mà vì họ ta mạnh dạn cất cao tiếng nói của mình, đã không chỉ bị mất đi cơ hội thong thả nếm trải niềm vui sướng nội tâm, những lời an ủi sâu sắc cất lên từ các nhà hiền triết, nhưng khó thấu đạt biết bao, mà thậm chí còn không đủ sức lực và thời gian để uống cạn chén tân khổ trong đời.
Đã nhiều lần người ta trách cứ các nhà đạo đức học, kể cả Épictète, rằng họ chỉ bận tâm đến tâm lý của nhà thông thái. Sự trách cứ này có phần nàọ xác đáng, tuy nhiên, nó cũng giống như mọi sự trách cứ của con người thôi. Quả thật, nếu có dũng cảm nghe cái mệnh lệnh trực tiếp nhất, khẩn thiết nhất, và bình dị của lương tâm mình, thì nghĩa vụ duy nhất hiển nhiên của chúng ta có lẽ là trong một phạm vi càng rộng càng tốt làm dịu nhẹ đi nhiều nhất có thể những nỗi khổ đau. Với mục đích này nhẽ ra phải trở thành một y tá, đi thăm nom người nghèo khó, an ủi kẻ khổ đau, dựng những công xưởng kiểu mẫu, làm thầy thuốc, người làm ruộng, hay ít ra cũng giống như nhà khoa học trong phòng thí nghiệm, dâng hiến sức lực của mình cho việc khai thác càng nhiều càng tốt trong tự nhiên các bí ẩn vật chất có ích. Tuy nhiên, bằng việc chỉ giúp đỡ lẫn nhau như thế, con người ta có lẽ không thể chung thủy dài lâu với một hoạt động luôn tràn đầy tình yêu thương đến thế, nếu như một ai đó trong số họ không giành lấy cho mình thời gian rảnh rỗi để làm các công việc khác. Song nhờ số lượng không nhiều những người làm các công việc như thế, những người tưởng như vô tích sự, mà chúng ta luôn luôn có đủ, không còn nghi ngờ gì nữa, số người hữu ích. Những việc thiện, - được thực hiện vào giờ phút hiện tại quanh chúng ta, - phần lớn xuất hiện trong tâm hồn của một trong số những người, có thể, hơn một lần bỏ qua việc thực hiện một trách nhiệm cấp thiết trực tiếp nào đó, để suy tư, để đắm chìm vào chính bản thân mình hay trò chuyện với những người khác. Có phải vì thế mà họ đã hành động một cách tốt đẹp nhất hay không? Ai là người đủ can đảm trả lời câu hỏi này? Trong con mắt của một người khiêm nhường và trung thực, - mỗi người trong chúng ta phải cố gắng là một người như thế, - thì công việc tốt đẹp nhất là thực hiện cái nghĩa vụ sát sườn nhất và bình dị nhất. Thế nhưng thật đáng buồn nếu như không có một ai đi quá cái trách nhiệm sát sườn nhất. Trong mọi thời đại đều có những con người chân thành tin rằng, trăn trở về những nghĩa vụ trong tương lai là họ đang thực hiện các nghĩa vụ thường ngày. Phần lớn các nhà tư tưởng khẳng định rằng những người này đã không lầm lạc. Phải, cứ để cho nhà tư tưởng cả quyết một điều gì đó, dẫu nhân đây chúng ta nhận thấy, sự khôn ngoan đôi khi mâu thuẫn với điều mà nhà thông thái khẳng định. Cứ cho là thế đi, thì không có những lời khẳng định ấy nó có lẽ sẽ trôi qua mà chẳng được nhận ra.
IINgày nay sự thiếu vắng hạnh phúc tạo nên một trong những căn bệnh của nhân loại, chẳng khác gì bệnh tật là một trong những bất hạnh của con người. Và giống như việc có bác sĩ để chống lại bệnh tật, thì lẽ ra cũng phải có thầy thuốc chữa chạy cho sự thiếu vắng hạnh phúc. Nhưng vì tình trạng bệnh tật, đáng tiếc, là chuyện quá thường ngày, có lẽ nào không nên bận tâm đến sức khỏe, và một giáo sư giải phẫu học, - môn khoa học tự nhiên tương hợp một cách chính xác nhất với môn khoa học về đạo đức, - phải dồn hết sức chú tâm đến hiện tượng dị tật mà cơ thể con người phải chịu đựng do hậu quả có phần nào đó là của sự suy thoái chung của mọi người? Nên để ông ta nói về cái cơ thể khỏe mạnh và phát triển cân đối, đúng như việc cần để nhà đạo đức học cố gắng dõi nhìn xa hơn cái thường nhật, lấy tâm hồn hạnh phúc, hay ít ra, cũng là tâm hồn có được tất thảy những gì cần thiết cho hạnh phúc làm xuất phát điểm, chứ chưa nói đến sự nhận thức đủ phân minh.
Chúng ta đang sống trong những hoàn cảnh rất bất công; nhưng tôi cho rằng, có lẽ sẽ chẳng hề vô tình, chẳng hề tàn nhẫn chút nào, đôi khi nói về cuộc đời như thể không có sự bất công, bởi nếu không thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể thoát ra khỏi vòng vây của nó.
Phải để cho một ai đó dám nghĩ, nói và hành động như thể mọi người xung quanh đều hạnh phúc; bằng không thì làm cách nào - vào cái ngày số phận rốt cuộc cũng mở ra trước họ những khu vườn của miền đất hứa cho tất cả mọi người - tất cả những người khác có thể hiểu được hạnh phúc, công bằng, tình yêu và cái đẹp là gì? Tất nhiên, có thể cả quyết rằng, trước tiên cần phải bắt tay vào “việc cấp thiết hơn cả”. Nhưng quan tâm đến “việc cấp thiết nhất” không phải lúc nào cũng là điều khôn ngoan nhất. Điều thường thấy là, có những tình huống cần phải lập tức bắt tay ngay vào “việc cao cả nhất”. Khi biển cả hay con sông sát gần phá vỡ con đê chắn nước bảo vệ đồng ruộng đã canh tác, và dòng nước đã tràn vào nhà của một người nông dân, việc cấp thiết hơn cả với anh ta sẽ là cứu lấy đàn gia súc, lương thực dự trữ, những thứ đồ nhỏ nhẹ. Nhưng việc khôn ngoan nhất có lẽ lại là trèo lên mặt đê để chống lại những con sóng và kêu gọi tất cả những ai sống nhờ sự che chắn của con đê đang bị vỡ này.
Nhân loại cho đến nay vẫn giống như người bệnh vật vã trên chiếc giường của mình, những mong quên đi mọi chuyện trên đời. Nhưng dù sao vẫn có những người cất lên những lời an ủi lẻ loi, như thể nó chưa từng bao giờ là một con bệnh, vấn đề là ở chỗ, nhân loại sinh ra là để được hạnh phúc, cũng như một con người được sinh ra để là một người khỏe mạnh. Bởi vậy, khi bạn nói với mọi người về những nỗi bất hạnh của họ, thậm chí trong các hoàn cảnh đau khổ triền miên chẳng trừ một ai, bạn hãy nói với họ như thể về một sự gì đó ngẫu nhiên và nhất thời thôi. Luôn luôn nên đối xử với nhân loại như thể nó đã ở trước một hạnh phúc lớn lao hay một chân lý vĩ đại rồi. Và nó là thế, sống theo bản năng của mình, dẫu rằng nó thật sự không được sống đến cái ngày mai hạnh phúc đó. Bởi thế, điều hợp lý là việc tin rằng, một sự nỗ lực nghĩ suy, lòng dũng cảm, tình yêu thương, tính ham hiểu biết và nghị lực sống nào đó là đủ để cánh cổng hạnh phúc và chân lý rốt cuộc sẽ mở ra trước chúng ta. Và cứ cho là toàn bộ điều này, có thể, không đạt tới được đi, thì vẫn có thể hy vọng sẽ đến một ngày tất cả mọi người sẽ hạnh phúc và thông thái. Thậm chí là cái ngày này chẳng bao giờ đến, thì sống trong nỗi niềm mong đợi nó cũng đâu phải là một tội lỗi.
Bất luận trong trường hợp nào, thì nói về hạnh phúc với những người bất hạnh để họ học được cách hiểu nó cũng là một việc có ích. Họ là thế, có xu hướng coi hạnh phúc của mình là một cái gì đó khác thường và hầu như không với tới được. Nhưng nếu như tất cả những ai có quyền coi mình là người hạnh phúc, một cách đơn giản phát hiện ra những nguyên do cho sự hài lòng của mình, thì hóa ra thật rõ ràng, sự khác nhau giữa nỗi buồn và niềm vui chung quy lại là sự khác biệt giữa sự nhận thức đôi chút nhân hậu và trong sáng hơn về tính quy thuận với cái cảm nhận u ám, giận dữ về thân phận nô lệ; giữa sự diễn giải cuộc đời một cách hài hòa, khoáng đạt hơn với sự diễn giải gàn bướng, hẹp hòi. Khi ấy những kẻ bất hạnh có lẽ sẽ thốt lên: “Toàn bộ chỉ là thế thôi sao? Nhưng thế thì chúng tôi cũng sẵn có trong con tim mình tư chất của niềm hạnh phúc này!” Bạn thật sự đang sở hữu chúng đấy. Trừ những đau khổ quá lớn về thể chất, tất cả mọi người đều có được chúng. Nhưng xin đừng có thái độ khinh rẻ với niềm hạnh phúc này. Chẳng có niềm hạnh phúc khác đâu. Người hạnh phúc hơn tất cả mọi người là người hiểu được niềm hạnh phúc của mình. Người hiểu rõ hơn tất cả mọi người niềm hạnh phúc của mình chính là người biết sâu sắc hơn những người khác rằng, hạnh phúc phân biệt với nỗi tuyệt vọng chỉ nhờ mỗi tư tưởng cao quý, không biết mệt mỏi, nhân ái và dũng cảm mà thôi.
Thế nên thật có ích khi càng thường xuyên hơn nói về tư tưởng này, - không phải để áp đặt quan niệm của mình về hạnh phúc cho những người khác, mà là để dần dần trong con tim của mỗi người lắng nghe chúng ta thức tỉnh cái khát vọng có được suy nghĩ riêng của mình về hạnh phúc, bởi vì nó khác biệt đối với mỗi người trong chúng ta. Bạn hiểu về hạnh phúc không giống tôi, và dù bạn có hùng hồn nhắc đi nhắc lại với tôi về nó, thì nó cũng chẳng ngấm được vào nội tạng của cuộc đời tôi. Cần để tôi tạo ra tư tưởng về hạnh phúc trong chính bản thân mình, bằng sức lực của riêng mình. Nhưng dù sao, khi nói về cách hiểu của bạn, bản thân bạn cũng không biết là bạn đã giúp tôi có được cách hiểu riêng của mình. Có thể, cái điều khiến bạn buồn, lại sẽ an ủi tôi, và cái điều đem lại cho bạn sự an ủi, lại làm tôi phiền muộn; nhưng vấn đề không phải ở đó. Tất cả những gì là tuyệt vời trong ánh mắt hân hoan của bạn sẽ thấm sâu vào nỗi phiền muộn của tôi, và tất cả những gì là cao cả trong nỗi buồn của bạn sẽ chuyển thành niềm vui của tôi, nếu niềm vui của tôi xứng đáng với nỗi buồn của bạn. Trước hết trên bề mặt của tâm hồn cần phải dựng một cao điểm để đón nhận tư tưởng này, giống như những thầy tư tế của các tôn giáo cổ xưa phát quang và làm sạch đỉnh núi khỏi đám bụi gai sắc nhọn, ở trên đó họ đón đợi ngọn lửa trời. Có thể ngày mai thôi từ lòng Sao Hỏa cùng với cái chân lý tối hậu về nguồn gốc và mục đích của thế giới, chúng ta được thông báo về một công thức hạnh phúc đáng tin. Thế nhưng nó có thể thay đổi và làm cho đời sống đạo đức của chúng ta hoàn hảo chỉ ở chừng mực mà chúng ta từ lâu rồi đã sống trong nỗi niềm chờ mong sự hoàn hảo này. Mỗi người trong chúng ta sẽ tận dụng và tận hưởng những phúc lành của công thức tự thân là bất biến này chỉ ở mức độ mà theo đó nó thấy được trong tâm hồn anh ta tính công bằng, sự thanh khiết, sự chú tâm và sự phóng khoáng rạng ngời. Toàn bộ đạo lý, tất cả tri thức về lẽ công bằng và hạnh phúc thực chất chẳng là cái gì khác ngoài sự chờ mong và chuẩn bị càng đủ đầy hơn, càng chân thành và tha thiết hơn càng tốt. Chúng ta, tất nhiên, mong mỏi hơn cả cái ngày mà rốt cuộc chúng ta được sống trong sự tin tưởng hoàn toàn, trong ánh sáng của chân lý khoa học tuyệt đối và không gì lay chuyển nổi. Nhưng trong khi chờ đợi ngày này, chúng ta được sống trong một chân lý còn quan trọng hơn, - chân lý của tâm hồn chúng ta và của tính cách chúng ta, và có một số nhà hiền triết đã chứng minh cho chúng ta thấy rằng cuộc sống như thế là có thể giữa những lầm lạc lớn nhất về vật chất.
IIIPhải chăng nên thừa nhận rằng, mọi lời nói về đạo đức, về sự công bằng, về hạnh phúc và về tất thảy những gì liên quan đến chúng được nói ra lúc này đây, trước giờ phút quyết định trong khoa học có thể làm đảo lộn mọi điều, là những lời vô nghĩa? Có thể chúng ta đang sống giữa thời buổi tạm thời u ám, song có nhiều điều diễn ra trên đời này trong những buổi chiều tà nhập nhoạng không giống như giữa thanh thiên bạch nhật.
Nhưng chính những sự kiện hệ trọng trong đời sống thể xác và tinh thần của chúng ta diễn ra trong bóng tối cũng hoàn chỉnh và tất yếu như dưới ánh sáng. Dù sao thì trong khi chờ đợi lời giải, chúng ta cũng vẫn buộc phải sống; và chỉ khi sống một cuộc sống càng hạnh phúc và cao thượng ở mức có thể, thì chúng ta mới sống một cách khẩn trương hơn và có thể có được nhiều lòng quả cảm hơn, sự độc lập và sáng suốt cần thiết để vươn tới chân lý và kiếm tìm nó. Và rốt cuộc, dù có điều gì xảy ra đi chăng nữa, thì thời giờ chúng ta dành cho việc tìm hiểu chính bản thân mình không thể bị coi là uổng phí. Và cái thế giới mà chúng ta là một phần của nó có hiện ra dưới dạng thức nào đi nữa với chúng ta, thì trong tâm hồn con người luôn luôn có những cảm xúc, những tình yêu tinh khiết bỏng cháy và không đổi thay, cùng những câu hỏi liên quan đến thế giới này; chúng nhiều hơn cả sao trời hay những điều bí ẩn đã được khoa học giải thích. Thấu đạt được cái chân lý hiển nhiên và phổ quát nhất, con người ta tất nhiên sẽ trưởng thành, nhưng anh ta sẽ phát triển chỉ theo đường hướng không đổi của tâm hồn con người. Và có thể nói rằng, cái chân lý chung của toàn thế giới càng mạnh mẽ và hân hoan hơn bao nhiêu, thì những vấn đề về lẽ công bằng, đạo đức, hạnh phúc và tình yêu càng có quyền lực và gây xúc động bấy nhiêu trong con mắt của mọi người, đúng như chúng đã hiện hữu trước ánh mắt của nhà tư tưởng.
Cần phải sống như thể chúng ta thường xuyên ở ngay trước sự phát hiện ra chân lý vĩ đại; cần phải luôn luôn sẵn sàng đón nhận nó càng toàn tâm toàn ý, càng tha thiết, cuồng nhiệt hơn càng tốt. Và để có thể đến một lúc nào đấy đón nhận nó ở hình thức tuyệt vời nhất, cái hình thức còn chưa hiển lộ ra với chúng ta, thì cần phải ngay từ ngày hôm nay đây khát khao thấy nó cao quý biết bao, bao trùm tất thảy, hoàn hảo và nâng cao phẩm giá đến mức chúng ta chỉ có thể mơ tưởng mà thôi. Chẳng có gì phải e ngại rằng, chúng ta tưởng tượng nó quá đỗi mạnh mẽ, tuyệt vời hay hùng vĩ. Nó hiển nhiên sẽ vượt quá những hy vọng táo bạo nhất của chúng ta, bởi nếu như nó hóa ra khác biệt hẳn với chúng hay thậm chí trái ngược với chúng, thì chỉ nhờ một điều đó thôi nó sẽ cho chúng ta tri thức đáng tin cậy, nó sẽ đem lại cho chúng ta một điều gì đó hùng vĩ hơn, cao quý hơn, hòa hợp với bản chất của con người hơn tất cả những gì chúng ta có thể mong đợi. Thậm chí nếu như với nó con người có phải mất đi tất thảy những gì mà cho đến giờ anh ta vẫn sùng bái, thì đối với anh ta cái chân lý ẩn mật của thế giới tự thân nó sẽ là đối tượng chính đáng được tôn thờ. Thậm chí nếu cứ cho rằng, có một ngày chân lý hiển lộ, tro tàn của những niềm hy vọng giản dị nhất của chúng ta tiêu tan, thì trong chúng ta vẫn còn lại tinh thần sẵn sàng đón nhận điều kỳ diệu, và điều kỳ diệu sẽ thâm nhập thấm đẫm tâm hồn chúng ta ít hay nhiều là tùy theo độ sâu rộng của dòng chảy được sự mong đợi của chúng ta tạo nên.
IVChúng ta có nên coi mình hoàn hảo hơn cả vũ trụ hay không? Dẫu chúng ta có biện luận thế nào đi nữa, thì lý trí của chúng ta sẽ luôn luôn chỉ là tia sáng yếu ớt của tự nhiên, chỉ là một mảnh nhỏ nhoi vô cùng của cái toàn thể mà nó tự cho mình cái quyền phán xét. Nhưng phải chăng để tia sáng thực hiện được chức năng của mình, thì cần phải để cho nó mong muốn cải tạo ngọn đèn từ đó nó tỏa ra?
Đỉnh cao của bản thể của chúng ta mà từ đó chúng ta dự định phán xét hay biện hộ cho toàn bộ cuộc đời hoàn toàn chỉ có thể là điểm nhô lên không đáng kể mà chỉ còn mắt chúng ta nhận thấy trên miền mênh mông vô tận của đời sống. Là hợp lý khi suy nghĩ và hành động như thể mọi sự xảy ra với nhân loại là cần thiết. Mới đây thôi, - khi nêu ra một trong những việc mà bản năng của hành tinh chúng ta kêu gọi phải giải quyết, - mới đây thôi, dường như người ta có ý hỏi các nhà tư tưởng châu Âu rằng, nếu cái chủng tộc đầy nghị lực, kiên gan, hùng mạnh, tuy nhiên, những người Aryen chúng ta do những định kiến được tiếp nhận một cách quá mù quáng lại coi là một chủng tộc thấp hèn về tinh thần và tâm hồn, nói tóm lại là, nếu chủng tộc Do Thái biến mất hoặc trở nên có thế lực nhất, thì nên coi đó là điều bất hạnh hay hạnh phúc? Tôi đoán chắc rằng, nhà hiền triết có thể trả lời, không hề e ngại lời trách cứ về sự quá khuất phục số phận, cũng như về sự vô cảm, rằng: “Điều xảy đến sẽ là hạnh phúc”. Điều thường thấy là chúng ta cảm tưởng như sự việc xảy ra là sai lầm; nhưng chẳng phải cái điều hữu ích nhất được lý trí của con người thực hiện cho đến giờ là ở chỗ nó đi kiếm tìm ý nghĩa cao cả nhất trong những sai lầm của tự nhiên hay sao? Tất thảy những gì nâng đỡ và trợ giúp chúng ta trong đời sống về thể xác, cũng như về tinh thần chỉ là sự biện minh chậm rãi và tuần tự của cái sức mạnh mà ban đầu chúng ta có cảm tưởng là tàn nhẫn. Nếu một chủng tộc hoàn toàn đáp ứng được lý tưởng của chúng ta biến mất, thì điều này chỉ có nghĩa là, lý tưởng của chúng ta thực chất tuyệt nhiên không hề đáp ứng được cái lý tưởng, mà như tôi đã nói, là chân lý ẩn mật của thế giới.
Chúng ta đã có thể đúc kết từ kinh nghiệm của chúng ta rằng, không phải một lần chúng ta đã thấy những ước mơ và khát vọng tuyệt vời nhất, những tư tưởng và cảm xúc lớn lao về tình yêu, cái đẹp và công lý được khẳng định trong thực tế. Nếu trong trí tưởng tượng của chúng ta có những mơ ước còn lớn lao và hân hoan hơn, nhưng chúng không thể chịu đựng nổi thử thách của thực tế, tức là của cái sức mạnh không tên của đời sống, thì vì thế những mơ ước này thực sự buộc phải khác đi, song chúng vẫn không kém lớn lao, không kém tuyệt vời, không kém hân hoan hơn. Trong lúc chờ mong cái ngày mơ ước trở thành hiện thực, thì có lẽ, ấp ủ trong tâm trí của chúng ta cái lý tưởng tuyệt vời hơn cả thực tế là một việc có ích. Nhưng ngay khi hiện thực rốt cuộc lộ diện, ngọn lửa lý tưởng được nuôi dưỡng bằng những khát vọng thầm kín nhất của chúng ta chỉ có một việc là cần phải làm rạng ngời mọi mặt vẻ đẹp không quá đỗi mong manh, không quá đỗi yếu ớt của cái hình khối lừng lững đè nghiến những khát vọng của chúng ta.
Tôi tin chắc vào toàn bộ điều này, không thể coi đó thái độ khuất phục nô lệ trước số phận, lẫn định mệnh luận mê mụ, cũng như chủ nghĩa lạc quan vô vi. Có thể, trong những trường hợp nào đó của cuộc đời nhà thông thái bị mất đi phần nào lòng hăng say kiên trì, phi thường và mù quáng, mà nhờ nó một số người, chính vì rằng không có được toàn vẹn suy nghĩ hợp nhân tính, đã thực hiện được những việc khó khăn vượt quá sức người. Song, tuy thế, hiển nhiên là không một tâm hồn trung thực nào được phép đi tìm kiếm nghị lực và ý chí mạnh mẽ, ảo tưởng và sự chói lòa bằng cách buông thả mình xuống xứ sở thấp hèn nhất so với những ước mơ trong những giờ phút tốt đẹp nhất của nó. Không thể thực hiện được nghĩa vụ trong đời sống nội tâm của mình ngoài một cách là luôn luôn ở trên đỉnh cao tâm hồn của mình và lẽ phải của riêng mình. Trong cuộc sống thực tế và thường nhật đôi khi có thể lưu ý đến các hoàn cảnh mà việc đi tới giới hạn tận cùng của bản thân mình không phải lúc nào cũng là việc được phép, chẳng hạn như việc Saint- Just đã làm, - với nhiệt huyết cao cả khát khao vươn tới công lý, hòa bình và hạnh phúc chung cho mọi người, với những chủ tâm trung thực nhất ông đã đưa cả ngàn nạn nhân lên đoạn đầu đài; thế nhưng trong đời sống tinh thần nghĩa vụ của mỗi người là trong mọi việc phải đi tới các giới hạn tận cùng trong suy nghĩ của mình. Hơn nữa cái nhận thức rằng, trong khi chờ đợi chân lý chỉ có một việc là phải hành động, sẽ chỉ gây phiền nhiễu cho những kẻ chẳng thể làm nên trò trống gì và ở trong tình trạng dốt nát. Cái suy nghĩ hướng thượng càng khuyến khích hành động bao nhiêu, thì ngay từ đầu càng tránh xa [hành động] bấy nhiêu. Những người từ trên tầm cao phóng tầm mắt nhìn đời và sớm kính phục cái sức mạnh đòi tiêu diệt sự nghiệp của họ cảm thấy rằng việc hoàn thiện, trong mức độ họ có thể, cái có thể được gọi là lý trí, lẽ công bằng, cái đẹp của thế gian, thiên tính của hành tinh là một việc hoàn toàn tự nhiên. Họ biết rằng, trong cuộc đời này, hoàn thiện thực chất là khai mở, hiểu biết, đánh giá. Trước hết, họ nuôi dưỡng niềm tin vào “ý niệm của vũ trụ”. Họ tin chắc rằng, mỗi một sự nỗ lực để đạt được điều tuyệt vời nhất sẽ đưa họ đến gần hơn cái ý nguyện của cuộc đời; nhưng đồng thời họ cũng học cách lấy được dưỡng chất mới cho sự khâm phục của mình, cho nghị lực của mình, cho niềm hy vọng của mình thậm chí từ thất bại trong những nỗ lực cao thượng nhất của mình và từ sức bền bỉ dẻo dai mà sự vĩ đại của thế giới ban cho họ.
Về chiều, khi trèo lên ngọn núi cao bạn sẽ thấy những ngôi nhà, tháp chuông, đồng cỏ, vườn cây, con đường và thậm chí cả dòng sông dần dần mỗi lúc một nhỏ đi và cuối cùng hoàn toàn mất hút giữa những tán lá cây đen thẫm che phủ cả thung lũng. Nhưng những điểm sáng hiện rõ trên nền của những đêm tối trời nhất nơi có các khu dân cư chẳng hề mờ nhạt đi theo độ cao mà bạn lên tới. Trái lại, cứ mỗi bước lên đỉnh cao bạn sẽ phát hiện ra số ánh lửa ngày càng nhiều hơn ở các khu làng mạc thôn xóm đang chìm trong giấc ngủ dưới những bước chân của bạn. Ánh sáng, về bản chất của mình, có yếu ớt thế nào, cũng là cái duy nhất trên thế gian hầu như chẳng mất đi sức mạnh trước sự vô cùng tận. Đó cũng chính là điều diễn ra với ánh sáng tâm hồn của chúng ta, khi chúng ta từ trên một độ cao nhất định chiêm nghiệm về cuộc đời. Thật tuyệt vời, nếu sự chiêm nghiệm ấy dạy chúng ta có một thái độ lạnh lùng với mọi dục vọng thấp hèn; song nó không được làm yếu đi hay lấy đi mất sự tỉnh táo của một ai, - dù là người cam chịu nhất, - khỏi những khát vọng vươn tới chân lý, lẽ công bằng và tình yêu. Cái nguyên tắc mà tôi vừa tạo lập này bắt nguồn từ đâu? Chính tôi cũng không hay. Tôi cảm thấy nó đầy nhân ái và cần thiết - chỉ có vậy thôi. Tôi không thể đưa ra được những lý lẽ nào khác tốt đẹp cho nó, ngoài những lý lẽ của cảm tính; nhưng đừng nên luôn coi thường những lý lẽ dựa vào cảm tính. Và nếu như đã leo lên được tới đỉnh, cái quy luật này dường như không còn hữu ích với tôi nữa, thì tôi sẽ nghe theo cái bản năng bí ẩn ra lệnh cho tôi không được dừng lại, mà hãy càng lên cao thêm nữa cho đến chừng nào tôi lại tin vào sự hữu ích của nó.
VSau những lời phi lộ chung này chúng ta sẽ đặc biệt nói về cái ảnh hưởng mà sự thông thái có thể có với số phận của chúng ta. Và có lẽ, bây giờ là lúc thích đáng để nhận thấy rằng, thật uổng công mà đi kiếm tìm một phương pháp diễn đạt chặt chẽ trong cuốn sách này. Nó bao gồm những suy ngẫm riêng biệt ít nhiều cũng theo một trật tự nhất định xoay quanh hai hay ba vấn đề. Nó không cố thuyết phục một ai đó, nó không có ý định chứng minh một điều gì đó. Thực chất thì trong cuộc sống những cuốn sách không có được cái giá trị mà phần lớn mọi người, những người viết hay đọc, mong muốn trao cho chúng. Đến với những cuốn sách chỉ cần lắng nghe với một tâm thái mà một người bạn của tôi, một nhà thông thái lớn, có lần đã nghe câu chuyện về những giây phút cuối cùng trong cuộc đời của hoàng đế Antonin Thánh thiện. Antonin Thánh thiện, người có quyền được chúng ta coi là một trong những nhân cách tuyệt vời nhất và toàn thiện nhất đã từng sống trên đời, hơn cả Marc-Aurèle, bởi ông còn kết hợp được lòng quả cảm lớn lao, nghị lực, tính thực tế, sự độc đáo vô cùng với khả năng là một người hạnh phúc, với sự thông thái, suy nghĩ sâu sắc, tấm lòng nhân hậu và những phẩm hạnh khác của Marc-Aurèle, người con nuôi của mình, - Antonin Thánh thiện thư thái trên ngai vàng đón đợi cái chết với những giọt nước mắt bất giác trào rơi nơi khóe mắt và mồ hôi lạnh lúc lâm chung ướt đẫm thân mình. Đúng lúc đó viên chỉ huy ngự lâm quân bước vào phòng, theo thông lệ, để hỏi mật khẩu. “Aequanimitas - tĩnh tâm”, - vị hoàng đế trả lời, quay mặt về cõi u linh vĩnh hằng. Người yêu quý và trân trọng cái từ này đã hành động một cách tuyệt vời, bạn tôi nói. - Nhưng còn tuyệt vời hơn, - ông nói thêm, - dành thời gian, mà cơ may ban cho chúng ta để khâm phục ông ấy, cho những việc làm bình dị, nhỏ bé mà hữu ích trong đời thường mà cũng chính cái cơ may ấy không ngừng trao cho thiện ý của con tim chúng ta. Chỉ có điều cần thực hiện điều này một cách thầm lặng đối với những người khác và với chính bản thân mình.
VI“Số phận của họ, không còn nghi ngờ gì nữa đã đòi hỏi để khắp nơi đâu họ đặt chân đến, họ cũng bị mọi người và hoàn cảnh truy đuổi”, - một tác giả đã nói về các nhân vật trong tác phẩm của mình. Nó cũng là điều xảy ra với phần lớn mọi người, - với những ai không học được cách tách biệt cái số phận bên ngoài của mình với số phận tinh thần của mình. Họ giống như con suối nhỏ đui mù mà một sáng nọ tôi ngắm nhìn từ trên ngọn đồi. Lần mò luồn lách, kiệt lực, thường xuyên bị ngăn trở, vòng vèo vô định dưới thung sâu tăm tối, nó tìm kiếm đường đến với hồ nước lớn mơ màng bên kia cánh rừng trong ánh ban mai thanh bình. Ở đó nó phải mất bốn quãng dài lượn vòng, hết lao vào những khối đá bazan, rồi đến những chùm rễ cây cổ thụ, hoặc tiếp đến là một ký ức về cái chướng ngại vật đã bị quên lãng từ lâu lắm rồi buộc nó hoài công cuộn sôi, dâng nước trở lui về chốn đầu nguồn của mình, và cứ đẩy nó mãi xa khỏi những đích đến cùng những niềm hạnh phúc. Nhưng kia thôi, ở một hướng khác gần như vuông góc với con suối bấn loạn, bất hạnh, vô dụng, một sức mạnh tối cao, hơn cả những sức mạnh bản năng của tự nhiên đang dẫn dắt qua cánh đồng, qua những tảng còn sót lại của vách đá, qua cánh rừng tĩnh lặng, hình như là một con kênh dài, thẳng tắp, xanh tươi, thảnh thơi, hiền hòa, không ngập ngừng, dòng nước trong vắt và bình yên từ cõi thâm sâu của một ngọn nguồn khác, ẩn khuất sau đường chân trời hướng đến mặt hồ thanh bình, bừng sáng long lanh. Và trước mắt tôi đây là điển hình của hai số phận lớn hiển lộ cho con người.
VIICùng với những người bị người khác và hoàn cảnh áp chế, thì có những người hừng hực trong mình một nguồn sức mạnh nội tại nào đó chế ngự được không chỉ những người khác, mà cả các biến cố xung quanh họ. Họ nhận thức được cái sức mạnh này trong con người mình, và nó thực chất không là cái gì khác ngoài cái ý thức về nhân cách riêng có của mình có thể lan tỏa vượt ra khỏi những giới hạn nhận thức bình thường của con người.
Tồn tại với chính bản thân mình, chẳng lo ngại những sự vô thường của hoàn cảnh, chỉ có thể là một người hạnh phúc và mạnh mẽ khi ở bên trong bức tường của sự tự nhận thức. Vả lại, chân lý này được nhắc đi nhắc lại rất đỗi thường xuyên, và chúng ta dừng lại ở nó chỉ là để nhận ra xuất phát điểm của chúng ta. Con người trưởng thành về tinh thần chỉ tùy theo mức độ gia tăng sự nhận thức của anh ta, và nhận thức của anh ta tăng lên chỉ tùy theo mức độ anh ta trưởng thành đến đâu. Trong lĩnh vực này có một sự tương tác lạ thường, và tương tự như tình yêu khôn nguôi khát khao tình yêu, bất kỳ một sự tự nhận thức nào cũng khôn nguôi khao khát độ lớn và tầm cao đạo đức, và bất kỳ một tầm cao đạo đức nào cũng khao khát sự tự nhận thức.
VIIITuy nhiên việc ý thức về nhân cách của mình này, như cách hiểu thông thường, luôn thường bị giới hạn bằng việc hiểu biết về những khuyết điểm và ưu điểm của bản thân. Nhưng nó có thể mở rộng đến những bí ẩn hệ trọng hơn rất nhiều. Nhận thức về mình không có nghĩa là nhận thức bản thân mình trong trạng thái tĩnh hay ít nhiều nhận thức bản thân mình trong hiện tại và quá khứ. Những người tôi nói đến có được nguồn sức mạnh này chỉ vì họ nhận thức bản thân mình cả trong tương lai. Nhận thức chính mình đối với những người vĩ đại nhất có nghĩa là, ở một mức độ nhất định, nhận thức được cả ngôi sao bản mệnh của mình và số phận của mình. Họ phần nào biết về tương lai của mình, bởi chính họ đang tạo nên một phần của cái tương lai này. Họ nuôi dưỡng niềm tin vào chính mình, vì hiện giờ họ đã biết các biến cố trong tâm hồn họ sẽ biến thành cái gì. Một sự kiện tự thân chỉ là thứ nước tinh khiết mà số phận rót cho chúng ta và nó không màu, không mùi, không vị. Nó trở nên tuyệt vời hay u buồn, ngọt ngào hay đắng cay, tang thương hay đầy sức sống là tùy theo phẩm chất của cái tâm hồn đón nhận nó. Với những người quanh ta không ngừng có đến cả ngàn cuộc phiêu lưu, rõ ràng là mang đầy những hạt giống của chủ nghĩa anh hùng, thế nhưng chẳng có cái gì thuộc về chủ nghĩa anh hùng bừng hiện lên, chỉ thấy có mỗi một thứ phiêu lưu giải sầu. Còn Chúa Ki tô trong hành trình của mình gặp một đám trẻ con, một người vợ không chung thủy hay người đàn bà Sa-ma-ri, và nhân loại có ba lần được nâng lên tầm cao Thánh Thần.
IXLẽ ra nên nói với mọi người rằng, chỉ những gì họ muốn xảy ra với họ thì chúng mới xảy ra. Thật thế, chúng ta chỉ có ảnh hưởng không đáng kể đến một số các sự kiện bên ngoài nào đó; nhưng chúng ta có thể tác động một cách mạnh mẽ đến các sự kiện diễn ra trong chính chúng ta, tức là đến khía cạnh tinh thần của mỗi sự kiện, đồng thời cũng là khía cạnh tươi sáng và bất tử của nó. Cái điều thuộc về tinh thần sinh ra từ mỗi một tình yêu, mỗi một nỗi bất hạnh, mỗi một cuộc hội ngộ, trong hàng ngàn con người nó không thể sống nổi dù chỉ là trong chốc lát, và những con người này đi qua thế giới như những mảnh vụn cuốn trôi theo dòng nước. Thế nhưng có một số không nhiều những người mà trong họ cái bất tử hấp thu tất cả những cái khác, và họ sống như những hòn đảo giữa biển khơi, bởi họ có được một điểm neo không thể lay chuyển và từ đó họ chi phối số phận bên trong; một số phận đích thực luôn luôn là số phận nội tâm. Đối với phần lớn mọi người, điều xảy ra với họ làm cho cuộc đời họ ảm đạm hoặc tươi sáng; nhưng đời sống nội tâm một số không nhiều những người mà tôi kể đến chỉ làm tươi sáng tất thảy những gì xảy ra với họ. Nếu bạn yêu, thì không phải cái tình yêu này tạo nên một phần số phận của bạn, mà việc hiểu rõ chính bản thân mình được bạn tìm thấy nơi sâu tận của tình yêu này nó làm biến đổi cuộc đời của bạn. Nếu bạn bị phản bội, thì đâu có quan trọng gì cái sự phản bội ấy, mà điều quan trọng là sự tha thứ được sự phản bội sinh ra trong tâm hồn bạn. Sự sâu sắc của hành động tha thứ bao dung, cao thượng, được cân nhắc cẩn trọng này sẽ ít nhiều xoay chuyển cuộc sống của bạn theo hướng bằng an và tươi sáng hơn của số phận, nơi bạn sẽ cảm thấy mình tốt đẹp hơn nếu như sự thủy chung dành cho bạn được gìn giữ. Nhưng nếu sự phản bội chẳng làm tăng thêm sự thành thật và dung lượng tình yêu của bạn, chẳng làm cho lòng tin của bạn cao cả hơn, thì việc bạn bị phản bội là vô ích, và bạn có thể tự nhủ lòng mình rằng, chẳng có chuyện gì xảy ra hết.
XChúng ta đừng quên rằng, tất thảy những gì xảy ra với chúng ta về bản chất cũng như chính con người chúng ta. Mọi cuộc phiêu lưu sẽ hiện ra trước tâm hồn chúng ta đúng như những suy nghĩ thường lệ của chúng ta, và chẳng bao giờ cơ hội anh hùng xảy đến với cái người mà suốt nhiều năm dài chưa từng là một anh hùng vô danh thầm lặng. Dù có lên non cao hay xuống đồng bằng, dù có viễn du khắp bốn phương trời hay quẩn quanh ngôi nhà của mình, thì trên mọi nẻo đường bạn chỉ gặp chính bản thân mình mà thôi. Nếu chiều nay Judas có lên đường, thì gã sẽ chạm trán Judas và sẽ tìm ra thời cơ để phản bội; nhưng nếu Socrate mở cửa, ông sẽ gặp một Socrate đang ngủ ngon ngoài bậu cửa, cũng như cơ hội trở thành nhà hiền triết. Những cuộc phiêu lưu của chúng ta dò dẫm tìm đường quanh chúng ta, như bầy ong sẵn sàng bay lượn quanh tổ. Chúng chờ đợi tư tưởng chủ đạo rốt cuộc bước ra khỏi tâm hồn chúng ta. Và khi nó vừa xuất hiện là chúng liền bu lại bám dính lấy nó. Nếu bạn lừa dối, sự lừa dối sẽ bủa vây bạn. Nếu bạn yêu, cả chùm những chuyện kỳ thú sẽ rung động bởi tình yêu. Rõ ràng là tất cả chúng đều chờ đợi cái dấu hiệu nội tâm, và nếu tâm hồn chúng ta về chiều trở nên thông tuệ hơn, thì nỗi bất hạnh mà tự nó gây ra vào buổi sáng cũng sẽ trở nên thông tuệ hơn khi chiều về.
XINhững biến cố nội tâm lớn lao không xảy ra với những ai chẳng làm gì để mời gọi chúng, dẫu rằng một biến cố nhỏ nhất của cuộc sống cũng tiềm tàng trong mình hạt giống của một biến cố nội tâm trọng đại. Song những biến cố này tuân phục lẽ công bằng, và mỗi người chỉ nhận được phần lợi phẩm mà anh ta xứng đáng được hưởng. Chúng chính xác là sẽ trở thành cái mà chúng ta phát hiện ra trong hạnh phúc và khổ đau mà hoàn cảnh đem lại, và những sự đỏng đảnh bất ngờ nhất của số phận sẽ dạy chúng ta tiếp nhận chính lỗi cách suy nghĩ của chúng ta. Trang phục, vũ khí và các đồ trang sức của số phận nằm trong đời sống nội tâm của chúng ta. Nếu như Socrate và Thersite vào một ngày mất đi đứa con trai duy nhất của mình, thì sự đau khổ của Socrate không hề giống nỗi đau khổ của Thersite. Bản thân cái chết, thường được coi là như nhau với tất cả mọi người, sẽ hoạt động và rơi lệ trong nhà của những người thiện tâm theo một cách khác với trong nhà của những kẻ độc ác. Có thể nghĩ rằng, đau khổ và hạnh phúc được thanh lọc trước khi gõ cửa nhà hiền triết, và chúng u sầu lầm lũi khi bước vào tâm hồn của kẻ dung tục.
XIIChúng ta thoát khỏi quyền lực của một vài số phận thuộc về bản năng của chúng ta tùy theo việc chúng ta trở nên thông tuệ đến mức độ nào. Trong mỗi một con người đều có một khát vọng nhất định vươn tới sự thông tuệ có khả năng chuyển hóa phần lớn những sự việc trong đời sống thành nhận thức. Tất cả những gì được chuyển hóa thành nhận thức sẽ không còn thuộc về những sức mạnh thù nghịch. Nỗi đau khổ được tâm hồn bạn biến thành sự trìu mến, lòng khoan dung, thành nụ cười khiêm nhường sẽ không quay trở lại với bạn mà thiếu đi nét đẹp tinh thần. Nhìn thẳng vào lỗi lầm hay khuyết điểm thì chúng sẽ không thể làm hại bạn, cũng như gây hại cho người khác.
Giữa bản năng và số phận có những mối liên hệ bền chặt; chúng hậu thuẫn cho nhau và cặp kè lảng vảng quanh những ai khinh suất. Nhưng người nào biết chế ngự cái sức mạnh mù quáng của bản năng thì nhờ đó mà làm yếu đi sức mạnh của số phận bao quanh mình. Anh ta dường như tạo được nơi trú ngụ vốn không thuộc vào năng lực thông tuệ của anh ta, và những ai tình cờ đi qua vùng sáng của cái nhận thức mà anh ta thu nhận được có thể không phải sợ có chuyện xảy ra chừng nào họ còn ở trong vùng sáng này. Cứ thử đặt Socrate hay Chúa Ki tô giữa các hậu duệ của nhà Atrée xem, thì bi kịch của Oreste sẽ chẳng xảy ra chừng nào họ còn ở trong cung điện của Agamemnon; còn nếu như họ ngồi ở bậu cửa nhà Jocaste, thì Oedipe sẽ chẳng nghĩ đến việc chọc mù đôi mắt của mình. Có những nỗi bất hạnh mà định mệnh không dám cả gan thực hiện khi có mặt cái tâm hồn đã không ít lần chiến thắng nó, và một nhà hiền triết đi ngang qua mọi người sẽ chấm dứt cả ngàn tấn bi kịch.
XIIISự hiện diện của nhà hiền triết nhất định sẽ làm số phận tê liệt, thậm chí, có lẽ, chẳng có một bi kịch nào mà lại có sự tham dự của một nhà hiền triết chân chính; nếu một nhà hiền triết như thế xuất hiện, biến cô tự thân nó sẽ dừng lại, chẳng dẫn đến cảnh lệ tuôn, máu đổ. Không chỉ không có một bi kịch nào xảy ra giữa các nhà hiền triết, mà còn vô cùng hiếm thấy một bi kịch xảy ra gần nhà hiền triết. Khó mà tưởng tượng được bi kịch có thể xảy ra giữa những người tìm hiểu một cách nghiêm túc và toàn diện sự nhận thức của mình, và những nhân vật của các bi kịch lớn sở hữu cái tâm hồn mà họ chưa bao giờ thử thách nó một cách sâu sắc. Đó là lý do một nhà thơ bi kịch có thể phát hiện ra chỉ duy có cái đẹp phần nào còn bị xiềng xích mà thôi; giá như các nhân vật của nhà thơ nâng mình lên tầm cao mà những anh hùng đích thực cần đạt tới, thì họ sẽ buông ngay vũ khí, và tấn bi kịch sẽ biến thành sự nghỉ ngơi trong ánh sáng rạng ngời. Tấn bi kịch có một không hai của nhà thông thái mà chúng ta thấy là trong “Phédon”, trong “Prométhée”, trong sự bi thiết của Chúa Ki tô, trong việc giết hại Orphée hay trong sự hi sinh của Antigone. Nhưng ngoại trừ những màn kịch tạo nên các bi kịch có một không hai của sự thông thái ấy, chúng ta thấy các nhà thơ bi kịch rất hiếm khi cho phép nhà thông thái xuất hiện trên sàn diễn dù chỉ trong thoáng chốc. Họ sợ sự hiện diện của một tâm hồn cao cả, vì các biến cố sợ nó, và sự sát hại được thực hiện khi có mặt nhà hiền triết sẽ khác với sự sát hại được thực hiện khi có mặt những người mà tâm hồn họ còn chưa nhận thức được bản thân mình. Nếu như Oedipe có được một số chân lý trong những chân lý mà nhà tư tưởng nào cũng có thể sở hữu, nếu như anh ta có được trong chính bản thân mình một nơi chốn trú ngụ luôn rộng mở, như Marc-Aurèle đã biết dựng lên trong bản thân mình, - liệu định mệnh có thể làm nổi điều gì, liệu nó có thể thu nhận được gì vào tấm lưới của mình, ngoài ánh sáng tinh khiết phát ra từ một tâm hồn cao thượng, khi [tâm hồn ấy] còn trở nên tuyệt vời hơn nữa trong khổ đau?
Nhà hiền triết ở đâu trong bi kịch của Oedipe? Tirésias có cho là như thế hay không? Anh ta biết được tương lai, nhưng anh ta không biết rằng lòng nhân ái và sự tha thứ làm chủ tương lai. Anh ta biết cái chân lý của thần thánh, nhưng không biết chân lý của con người. Anh ta không biết cái đạo lý ôm lấy nỗi bất hạnh trong vòng tay mình để nói cho nó về sức mạnh của mình. Những người hiểu biết, thực chất là chẳng hiểu biết gì nếu họ không có được sức mạnh của tình yêu, bởi một nhà hiền triết đích thực không phải là người thấy, mà là người càng viễn kiến, càng yêu mọi người sâu sắc hơn. Thấy mà không yêu tức là nhìn vào tăm tối.
XIVNgười ta cả quyết như thể tất cả các bi kịch lớn diễn ra trước mắt chúng ta chỉ là cảnh tượng tranh đấu của con người với định mệnh. Tôi lại nghĩ ngược lại, chẳng có cái bi kịch chung nhất mà trong đó định mệnh có thể thống trị. Tôi chiêm nghiệm tất cả chúng và không tìm thấy một bi kịch nào mà trong đó nhân vật đấu tranh với cái định mệnh thuần túy và thông thường. Thực ra thì anh ta không bao giờ đấu tranh với định mệnh, mà luôn luôn đấu tranh với sự thông tuệ. Cái định mệnh hiển nhiên lộ rõ chỉ trong những đau khổ nào đó ở bên ngoài, chẳng hạn như bệnh tật, tai nạn, cái chết bất ngờ của người yêu v.v. Nhưng tuyệt nhiên không có cái định mệnh nội tâm. Ý chí của sự thông thái được quyền uốn nắn tất thảy những gì không gây tổn thương quá nguy cấp cho thân thể chúng ta. Thậm chí điều thường thấy là cái ý chí này còn thâm nhập được vào lãnh địa nhỏ hẹp của cái định mệnh bên ngoài. Quả thật là cần phải tích lũy trước trong bản thân mình một kho báu đầy gian khó và nhẫn nhịn để ý chí này vào giờ phút trọng đại sẽ có được trong mình sức mạnh cần thiết để hành động.
XVBức tượng số phận đổ cái bóng khổng lồ xuống thung lũng như thể bao phủ tấm màn tăm tối của mình lên nó. Nhưng cái bóng này lại làm hiện rõ những đường nét nổi bật cho cái nhìn của những người nhìn nó từ sườn núi. Nói đúng ra là chúng ta sinh ra trong bóng tối này, nhưng nhiều người trong chúng ta không vượt thoát khỏi nó; và nếu sự yếu đuối của chúng ta hay những sự bất lực của chúng ta trói buộc chúng ta đến tận lúc chết vào những miền bị bóng tối bao phủ, thì chỉ có khả năng rời bỏ chúng trong ước vọng hay tâm tưởng thôi cũng đã rất có ý nghĩa rồi. Có thể là số phận làm chủ một số người nào đó trong chúng ta với sức mạnh đặc biệt do di truyền hay do bản năng, hay do những quy luật khác còn nghiệt ngã hơn, sâu kín và chưa được khảo sát rõ; nhưng thậm chí khi nó gây tổn thương cho chúng ta bằng những tai họa oan uổng và quá mức độ, thậm chí khi nó buộc chúng ta phải thực hiện cái việc mà chúng ta chẳng hề muốn nếu như nó không ép buộc chúng ta ra tay, thì cần phái có hành động để từ nay số phận không còn ảnh hưởng hơn nữa đến tất cả những gì diễn ra trong tâm hồn chúng ta. Bằng việc gây tổn thương cho con tim có thiện chí, định mệnh chẳng thể ngăn cản nỗi bất hạnh từng trải nghiệm hay sự lầm lạc đã được nhận thức khai mở nguồn sáng trong con tim này. Nó không thể ngăn cản nổi một tâm hồn biến mỗi thử thách của mình thành cái lợi ích không thể tách rời của suy nghĩ và tình yêu. Dẫu sức mạnh của cái định mệnh ở thế giới bên ngoài có thế nào, thì nó cũng dừng bước khi vừa nhìn thấy trên ngưỡng cửa tâm hồn một trong số những người lính canh thầm lặng của đời sống nội tâm. Và nếu khi ấy chúng ta cho phép nó bước vào chốn ẩn cư, nó có thể vào đó chỉ như một người khách thiện tâm để làm hồi sinh bầu không khí nặng nề, khôi phục sự bình yên, tăng độ sáng, thêm mức tỏ tường, soi sáng tầm nhìn.
XVIMột lần nữa chúng ta thử đặt câu hỏi xem, liệu định mệnh có thể làm nổi điều gì, nếu như nó [chọn] nhầm tâm hồn, và thay vì Oedipe, nó lại giăng tấm lưới của mmh trước Epicure, Marc-Aurèle hay Antonin Thánh Thiện. Tôi thậm chí nhất trí cho rằng, nó cũng có thể đặt, chẳng hạn như, Antonin vào đúng hoàn cảnh bí ẩn như Oedipe đã làm ô uế chiếc giường của mẹ mình. Liệu nó có thể lay chuyển nổi một điều gì đó trong tâm hồn của vị vua cao thượng hay không? Kết cục của sự kiện này có giống như hồi kết của mọi tấn kịch khác diễn ra trong cuộc đời của nhà thông thái hay không? Nó cũng có kết thúc đau khổ, thật sự là một đau khổ quá lớn, nhưng đồng thời cũng thành nguồn sáng tuyệt vời sinh ra từ nỗi đau khổ này, và giành lấy một nửa thắng lợi trước bóng tối của số phận hay không? Antonin có lẽ cũng sẽ khóc như mọi người; song những dòng nước mắt tuôn trào ra chẳng thể dập tắt được ánh sáng duy nhất trong một tâm hồn rạng ngời nguồn sáng của chính mình. Đối với nhà thông thái con đường từ đau khổ đến tuyệt vọng dài vô cùng, và sự thông thái còn chưa từng bao giờ đi đến tận cùng con đường này. Trên đỉnh cao đạo đức mà Antonin đã đạt được, như cuộc đời của ông đã cho chúng ta thấy, tư tưởng càng trở nên khoáng đạt hơn, tình cảm càng trở nên cao thượng hơn, chúng soi sáng cho mọi dòng nước mắt. Ông có lẽ sẽ đặt nỗi bất hạnh vào phần thoáng đãng và trong sáng hơn cả của tâm hồn mình, và nỗi bất hạnh, giống như nước, tiếp nhận mọi hình dạng của những chiếc bình chứa. Chúng ta sẽ nói, Antonin đã chịu thua số phận. Đúng, nhưng cũng cần nhận thấy rằng, từ này rất thường xuyên không cho chúng ta thấy được điều gì đang diễn ra trong một trái tim vĩ đại. Một tâm hồn lần đầu ta gặp gỡ có thể dễ cho cảm giác rằng, nó đã chịu khất phục số phận. Than ôi, chẳng phải chính sự khuất phục an ủi, thanh lọc và nâng tầm cho chúng ta đâu, mà là những suy tư và đức hạnh mà vì chúng chúng ta mới chịu khuất phục; chính ở đây sự thông thái sẽ ban thưởng cho những người phụng sự của mình tùy theo công trạng của họ.
Có những nhà tư tưởng mà không một thảm họa nào có thể động chạm đến họ. Thông thường chỉ cần tư tưởng vượt lên khỏi mức bấn loạn thường nhật, sự vô cảm và thói ích kỷ là đủ để ai nâng niu nó trở thành người ít bị tổn thương hơn vì số phận. Và đó cũng chính là nguyên nhân giữa những sự bình yên và tai ương thì người hạnh phúc nhất trong tất cả mọi người luôn sẽ là người mà trong tâm hồn anh ta tư tưởng cao đẹp nhất hợp nhất với tình cảm nồng nhiệt nhất. Nếu như định mệnh muốn, Antonin Thánh thiện có thể sẽ trở thành kẻ loạn luân và giết cha. Nhưng đời sống nội tâm của ông chẳng những không chết, như cuộc đời của Oedipe, mà còn trở nên mạnh mẽ hơn vì những tai họa giáng xuống, và định mệnh có lẽ chỉ còn nước bỏ chạy, quẳng tấm lưới cùng vũ khí vô dụng của mình ngay sát cung điện của vị hoàng đế, bởi tương tự như địa điểm diễn ra lễ khải hoàn của các quan chấp chính và các tổng tài chỉ có thể ở thành Rome, thì thắng lợi của định mệnh có thể diễn ra chỉ trong tâm hồn con người.