← Quay lại trang sách

Chương 2

TÔI BÔI DẦU NHỊ THIÊN ĐƯỜNG lên màng tang, rồi đi nhanh ra khỏi lớp, như chạy trốn những tiếng cười nói xôn xao. Đến hàng cây điệp bên hông lớp, tôi ngồi bệt trên sân cỏ mịn như phủ nhung Vài giọt ánh sáng trải qua khe lá, rơi rớt trên nền cỏ như những vết thẹo.

Tôi gỡ chiếc kẹp đồi mồi sắp sửa tuột ra khỏi đuôi tóc đen dài, còn ngan ngát mùi bồ kếp. Tôi nhớ lờ mờ là những cây điệp nầy, hồi tôi mới vào đây, chưa cao khỏi đầu, mái tóc nầy vừa buông khỏi vành tai, và hồi ông giám thị chưa rụng mấy cái răng cửa. Trong một tháng, từng lớp kỷ niệm dưới mái trường nầy bỗng trơn tuột qua ký ức. Tôi có cảm tưởng mình là kẻ mơi tới đây vài ba hôm gì đó.

Gió vỗ về trên mái tóc, tôi cảm thấy đầu mình đỡ nặng. Tôi đưa hai bàn tay mum múp thịt lên bó tóc, vụt tôi bắt gặp đường tâm đạo đứt đoạn. Nhớ lại ông chú tôi, cách đấy mấy tháng khi nhìn bàn tay tôi, ông bảo:

– Con nhỏ nầy có đường tâm bể, số nó sau nầy có đời tình ái ba chìm bảy nổi.

Ba tôi rầy chú, không muốn cho tôi lo nghĩ viển vông về hậu vận.

Nhưng có một điều tôi biết chắc chắn là sự học vấn của tôi sẽ bị dở dang, vì đường trí đạo tôi ngắn, lại thêm một cái hố dài, rộng nằm chắn ngang qua đó. Theo tướng số học truyền khẩu, cái hố nằm trên đường trí đạo biểu hiệu sự đãng trí trầm trọng, hoặc đi đến cuồng trí cũng nên. Tôi đưa bàn tay vuốt tóc, xếp nỗi lo lắng vu vơ về tương lai dễ dàng như gom mớ tóc vào chiếc kẹp đồi mồi.

Tiếng guốc lê lộp cộp trên hành lang tráng xi măng và tiến về phía hàng điệp. Tôi vụt quay lại. Kim đến gần.

Tôi hỏi:

– Đi đâu vậy mầy?

Kim không trả lời. Chợt thấy mặt nàng buồn quá, tôi vịn vai nàng:

– Kim à, hôm nay có giờ âm nhạc…

– Giờ cuối là giờ thường thức, tao xin phép đi về.

– Mày bịnh hả Kim?

– Không, không có gì.

Tôi rủ rê:

– Tối nay đi coi hát bóng với tao đi.

Kim mở rộng cặp mắt thoáng vui:

– Phim gì?

– «Ba người ngự lâm pháo thủ» có Gene Kelly và Lana Turner đóng vai chánh.

Kim lắc đầu:

– Tao không thích phim kiếm hiệp. Tao thích phim tình cảm.

Tôi trề môi:

– Tao thích phim có kép đẹp… Mà có nhiều khi không cần coi phim, tao vẫn thích tới rạp hát, miễn là tụ họp bạn bè đông đủ để nói chuyện khào.

Kim lặng thinh. Tôi chợt hỏi:

– Kim à, mầy có kép chưa? Sao mầy chầm dầm cái mặt hoài vậy.

Kim ngó tôi sửng sốt. Tôi vụt cảm thấy bực dọc, tự nghĩ là không còn lòng dạ nào học hành ở đây nữa.

Kim dịu dàng nắm lấy tay tôi:

– Nói nhảm hoài. Liễu nè, tối nay mầy lại ngủ với tao.

– Chắc là đêm nay có chuyện gì hấp dẫn đây?

Kim có vẻ cụt hứng:

– Nhà vắng, tao rủ mầy về nói chuyện chơi có gì mà hứng thú?

– Thôi đi bà, nói chuyện với bà chán bỏ xừ. Vả lại, tối nay tao đi coi hát bóng.

Tôi đùa:

– Bồ tao mua giấy cho rồi. Mày coi tao có phước không?

Nàng vẫn lặng lẽ, nụ cười nhếch trên đôi môi mỏng khắc khổ. Kim ngoắc tôi, rồi chỉ vào lớp, và bỏ đi trước. Tôi đứng dậy, phủi những hạt bụi bám trên đũng quần, bước nhanh vào lớp.

Tôi đã vào đây hơn ba năm, ngày mà ngôi trường nầy chỉ có vỏn vẹn hai lớp lợp lá, và phên vách không mấy kín đáo. Những buổi trưa, nắng luồn kẽ vách rớt trên nền đất không mấy phẳng phiu như những nhát dao chém. Ban giáo sư gồm có bốn người và một ông giám thị với mái tóc như rắc muối bọt. Các vị giáo sư vốn xuất thân từ các trường tiểu học, có khoảng mười lăm năm trong nghề thầy giáo, được đề cử lên dạy trung học. Mỗi vị phải kiêm ít nhứt là bốn môn học.

Sáu trăm lá đơn nộp vào Đệ Thất mà nhà trường chỉ chọn sáu mươi đứa. Số học sinh bà con quen biết xa gần với ông Hiệu trưởng và ban giáo sư chiếm hơn phân nửa. Đứa nào vừa hên, vừa giỏi mới có thể chen chân vào số chỗ trống còn lại. Bọn học sinh được chấm đậu vào học đó có khác nào cá vượt mấy lần vũ môn mới hóa thành rồng.

Chúng tôi là những học sinh tiên phong, để các giáo viên tập sự làm giáo sư trung học. Hình như ngôi trường nầy, ngày trước là nhà xác của một bệnh viện, và ngôi nhà vĩnh biệt nầy nhường lại cho Ty Tiểu học.

Kim là bạn ngồi cách tôi một cái bàn, ngang mặt. Nàng sống lặng lẽ như một cái bóng. Vốn ít nói và tình cảm ít khi biểu lộ trên mặt. Đôi mắt lá răm nhiều bóng tối của Kim lúc nào cũng nhìn chăm chăm như muốn khắc vật trước mắt vào tim. Nàng thích màu tím một cách say sưa – quai nón lá, chiếc kẹp lóc, giấy bao tập, cành hoa nhung trên mái tóc đều màu tím. Tôi có cảm tưởng Kim bị màu tím vây khốn suốt năm tháng. Bạn bè thì thầm cho là nàng lập dị, và xem Kim như cái bóng tím lung linh trước mắt.

Sự lãnh đạm của Kim đôi khi làm cho tôi cảm thấy khó chịu. Những giờ xả hơi, bạn bè túm tụm nhau tán gẫu, Kim yên lặng bỏ ra bờ rào bứt những chùm hoa ti-gôn, với ba cánh hình quả tim, đem ép vào quyền nhật ký. Kim lại mê thơ tiền chiến và nàng chịu khó lượm các bài thơ Nguyễn Bính, T.T.Kh. chép vào một cuốn sách bằng giấy «pơ-luya» màu đóng lại từng lớp như miếng bánh da lợn.

Nàng lựa cho mình cái biệt hiệu Thùy Liên để thay cho cái tên cúng cơm do cha mẹ đặt. Tôi thường lén đọc mấy bài thơ do nàng sáng tác chép trên mấy trang giấy màu tím lá cẩm, trang hoàng bằng những cánh hoa ép khô. Những ngày nghỉ học, Kim đi bắt bướm đem về chích «phọt-môn» để giữ cho bướm đừng rã, rồi lần lượt ép vào khung nhung tím thẩm lộng kiếng treo trong phòng ngủ.

Có một lần tôi đến thăm Kim nằm dưỡng sức tại phòng riêng sau một cơn đau trầm trọng. Bước vào phòng nàng – trên tường ngoài những khung bướm, còn xen kẽ những câu danh ngôn, tục ngữ viết nắn nót lã lướt bằng mực tím trên nền giấy trắng, tôi vụt cảm thấy mình đi lạc vào một thế giới thuần tím – riềm, màn, chăn, chiếu cũng toàn màu tím buồn rầu.

Tôi buột miệng bông đùa:

– Nè Kim, mai sau lấy chồng, nhớ lựa thằng nào tên Tím. và khi có con nhớ đặt là Tím Than,Tím Nhạt, Tím Hoa Cà, Tím Lá Cẩm nghe.

Kim che miệng cười, nụ cười như mếu. Từ nhỏ, nàng đã tạo cho mình một thế giới biệt lập và chui rúc vào đó, sống bó mình giữa những màu tím, bỏ phí các vui tươi hồn nhiên của tuổi trẻ. Kim ghét nói chuyện thời trang. Tôi đã dần dà chinh phục nàng bằng cách mách mấy bài thơ tiền chiến lãng mạn mít ướt cho nàng thu lượm vào quyển nhật ký ướp bông công chúa mùi thơm ngọt ngào.

Có lần tôi bắt gặp nàng đỏ mặt và đôi mắt mọng ướt khi đọc quyển Nửa Chừng Xuân. Kim khóc dễ dàng. Tình cảm nàng như sợi dây đàn căng thẳng. Trong lúc vui, nàng thường nói với tôi:

– Dường như Thượng Đế đã cho tao hai lu nước mắt trong người, chỉ cần một cơ hội nhỏ nhen nào đó là tuôn ra.

Kim vịn vai tôi, giục:

– Bà Hảo triệu mầy vào ngay.

Tôi đứng dậy bước theo Kim.

Vào đến lớp, tôi thấy các bạn đang bàn tán hò hét sôi lên. Bà giám thị đứng trên bục cười nói xôn xao. Nụ cười bà nhăn nhở vén cả cái nướu thâm đen. Thấy tôi vào, bà Hảo ngoắc lại và mở bóp trao cho tôi một mẫu giấy bằng bàn tay. Tôi chợt thấy hàng chữ.: « Cấm Túc ngày chúa nhật» viết rất sắc bằng ngòi bút lá tre.

Nét chữ tím bay bướm làm vành tai tôi nóng ran lên và hình như máu gấp rút dồn lên mặt. Tôi xếp tờ giấy bỏ vào túi áo bà ba, cúi đầu cám ơn bà Hảo rồi lặng lẽ bỏ về chỗ ngồi. Bà Hảo tiếp:

– Tôi đã xin với giáo sư Trường cho em khất vào chúa nhựt sau vì thầy Biểu có ý mời tất cả hai lớp Đệ Tứ đi xuống thăm vườn cam của thầy ấy chúa nhựt nầy.

Tôi ngồi cười lặng thinh. Tôi nhớ lại từ ngày học Việt văn với thầy Trường, chưa bao giờ tôi khỏi bị đem ra làm để tài cho thầy nhiếc. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy số điểm trên mười lấy một lần. Điểm nào cũng khởi sự bằng con số không và số đơn vị chỉ là con số chưa qua tám. Thầy Trường hà tiện hay tại tôi phải có cái tội lớn là viết chữ xấu?

Tôi đụng một bóng người mặc chiếc áo trắng dài tay bén nếp cầm một chiếc cặp to tướng dầy cộm lủi thủi bước nhanh từ phòng giáo sư sau hồi chuông reo báo hiệu giờ Việt văn đến. Tiếng sỏi lạo xạo trên lối đi gấp rút như khuấy lên nỗi chán chường trong lòng tôi từng nhịp. Vào đến lớp, ông Trường liệng chiếc cặp đánh ầm trên bàn giáo sư và đi ngay xuống chỗ tôi ngồi. Chiếc kiếng trắng máng trên vầng trán bóng nhẵn như đánh sáp. Ông xỉa xói:

– Liễu, chữ viết của con không ai đọc nổi. Con chưa làm bác sĩ, không có quyền viết tháo nghe chưa?

Ông quày trở lại mở cặp lục một tờ giấy gạch vuông. Bài Luận của tôi chằng chịt nét viết chì đỏ. Ông trao cho tôi và, gằn từng tiếng một, nước miếng bắn lên tay tôi âm ấm.

– Đáng lý bài nầy được mười bốn điểm nhưng…

Ông nhíu mày nhìn xuống tờ giấy lật lại trang sau tiếp:

– Nhưng thầy bớt phân nửa số điểm về tội khác khỏi phải giải thích.

Tôi nhìn xuống giọt nước miếng còn đọng lại trên da bàn tay, cảm thấy nỗi gớm ghiếc trôi nhanh qua đầu. Chờ cho ông Trường đi nơi khác, tôi rút nhanh chiếc khăn trong túi áo lau vết nước bọt, bôi xóa gấp rút sự sỉ nhục của ông ta.

Tôi đọc nhanh hàng chữ phê bình dành cho giáo sư trong khung vuông trên đầu bài: «Cảm thấy nữ sinh thông minh nhưng vì chịu ảnh hưởng bạn bè thành ra lơ đãng». Hàng chữ đỏ màu máu viết rất sắc, bay bướm để làm gương cho tôi. Tôi tự hỏi: không biết giáo sư Trường muốn nói tôi bị ảnh hưởng ai mà cứ mỗi bài Luận tôi bị mắng, bị chế diễu như một con hề cái hạ cấp, rẻ tiền và hết thời. Tôi ngán những giờ Việt văn, hãi hùng những đòn mà thầy Trường trừng trị cái tội viết chữ xấu vốn dĩ trời đã ban cho tôi, ghét những giờ cấm túc, một cách giam lỏng, một lối phạt tù đối với học trò. Một trăm tờ giấy gạch vuông viết hai mặt những chữ lỡ bỏ dấu không ngay. Viết xong bài phạt mấy ngón tay tôi cứng đờ ra và dường như các đầu lóng tay hết cả chất nhờn để co giãn nữa. Có bữa ông đập bàn, hét muốn lạc giọng:

– Có ỉa cũng rán ỉa cho ngay lỗ xí chớ có đâu làm bừa bãi như vậy, Liễu!

Cả lớp lặng thinh, sự bất mãn le lói hiện trên một vài nét mặt. Tôi giữ thái độ im lặng trịch thượng và chống cự bằng hai con mắt mở gườm gườm nhìn vào ông. Chắc ở tiền kiếp, tôi đã hạ nhục ông trước công chúng một vài lần gì đó nên bây giờ ở kiếp đầu thai lại, ông phục hận tôi bằng hình thức thầy trò chăng? Tôi ngại những lời mắng nhiếc công khai mà tôi chỉ có quyền câm miệng không biện bạch chi cả.

Nếu trả treo, chống báng thì tôi sẽ bị hội đồng giáo sư tống cổ ra khỏi trường. Tôi đã cố gắng bằng hết mọi khả năng nhưng sao vẫn chưa đủ sức chống lại những định kiến xấu mà ông đã nghĩ về tôi? Thỉnh thoảng tôi muốn thay đổi không khí bằng cách «cúp cua» giờ Việt văn, tránh né những lời trách mắng, tránh những cái nhìn như muốn ăn tươi nuốt sống của ông Trường nhưng ông cũng chẳng tha cho và quyết tìm đến tận nhà và bằng một giọng thương hại, ông xổ vài bài luân lý đến nhức cả đầu óc, nặng cả lồng ngực. Mãi đến bây giờ, tôi dần dà quen thuộc với những miếng giấy cấm túc, quen nghe những lời nói đắng chát của ông, quen nhìn số điểm lúc nào cũng khởi đầu bằng con số không to tướng và cũng quen tay viết mỗi chữ viết sai chính tả hằng trăm tờ giấy học trò.

Một giọng từ cuối lớp oang oang lên:

– Thưa cô xin cho con Liễu khỏi bị cấm túc luôn cho rồi đi cô.

Bà Hảo lại cười, nhìn tôi thương bại:

– Thật tình cô không có quyền gì trong việc ông Trường cả. Cô chỉ có thể xin cho em khất lại kỳ sau.

Cả lớp nhao nhao lên:

– Cô rán thử một lần xem sao.

Bà Hảo xua tay, toe toét cười:

– Ù, để cô nhờ thầy Biểu xin giúp một lần coi ra sao?

Cô Hảo bước lại gần tôi ân cần:

– Liễu! lúc nầy cô coi em có vẻ…

Bà ngập ngừng.Tôi hỏi vặn:

– Thưa cô sao đó cô?

Bà Hảo có vẻ ái ngại:

– Em lộ vẻ bất mãn với nhà trường.

Tôi đáp gọn:

– Thưa cô, đâu có. Em..

Bà Hảo nghiêm trang

– Em có chuyện gì buồn?

Tôi cũng nghiêm trang:

– Thưa cô, em không muốn học nữa.

– Vỉ lý do gì?

– Em chán đời lắm.

Bà Hảo cầm tay tôi:

– Hồi đó có một thời, cô cũng như em. Cơn chán đời rồi sẽ trôi qua. Em phải kiếm cái bằng Thành Chung đã.

Đức ngồi gần tôi xía vào:

– Nó sắp lấy chồng, cô à.

Bà Hảo ngạc nhiên:

– Thật sao em?

Tôi cự Đức:

– Không giỡn nghen. Tao đang nói chuyện đứng đắn đây.

Rồi tôi xoay qua bà Hảo, lòng buồn rũ rượi. Tôi nói.

– Cô à, em không muốn học chữ. Em muốn học nghề.

– Bộ con gái học bao nhiêu chữ đủ xài rồi sao?

Tôi cúi đầu lặng thinh.

Bà Hảo cười buồn:

– Em sao lúc nào cũng vậy. Không ai hiểu em cả.

Bà Hảo không phải là bà giám thị dưới mắt bọn học trò chúng tôi.

Tôi che miệng ngáp:

– Em hiểu em rõ lắm. Em đang chán, hết muốn đi học.

Bà Hảo nói lớn:

– Em rán chịu cấm lúc tuần sau. Cô sẽ tìm cách giúp em.

Tôi nói cũng lớn:

– Có trời mà giúp em hết chán.

Tiếng hò hét lẫn tiếng huýt sáo sôi lên huyên náo tưởng chừng như tốc nóc tôn bay bổng. Bà Hảo quay trở lại bục gỗ, vẫn giữ nụ cười, khẽ lắc đầu. Bà tìm cây thước nhôm đập khe khẽ trấn áp những âm thanh sôi réo lên. Tiếng nhốn nháo yếu dần, rồi mất hẳn. Bà Hảo hai tay xoa vào nhau, hai bàn tay gầy guộc nổi gân xanh. Bà Hảo đối với chúng tôi, ngoài cương vị bà giám thị, còn thêm cái tình thân mật của một bà chị vui tính dễ tha thứ bao quanh một lũ em nghịch ngợm, hỗn loạn.

Vào một buổi chiều trước giờ ra sân tập thể dục do bà Hảo hướng dẫn, thăng Tín nằm ngửa trên bàn nghêu ngao hát trong khi chờ đợi bà từ phòng giáo sư xuống dắt đi. Cao hứng, thằng Tín lấy gân cổ ngâm:

Mấy đời bánh đúc có xương

Mấy đời giám thị biết thương học trò.

Giọng của Tín vừa hài hước vừa rên siết.

Bà Hảo đã hiện lù lù trước cửa lớp. Tín vẫn thản nhiên lấy giọng ca thêm vài bản Lý Con Sáo. Cả lớp cười rộ. Bà Hảo bước vào vỗ nhẹ đầu nó:

-Thôi đừng ca bậy nữa, ngâm thơ như vậy không sợ cô buồn sao?

Thằng Tín lỡ bộ ngồi dậy cười lỏn lẻn sượng sùng như vừa đi ăn cắp vặt bị người ta trông thấy. May quá nếu hai câu thơ đó lọt vào tai ông Tổng Giám Thị thì có lẽ cả bọn đều bị cấm túc ít nhất là một tháng. Từ năm bọn chúng tôi còn học Đệ Lục, thằng Quan trưa trưa vô lớp sớm. Nhiều thì giờ không biết lấy gì tiêu khiển, nó ngứa ngáy tay chưn, bèn lên bảng vẽ một cái chén và dưới cái chén con số tám màu đỏ và phía sau cùng, nó vẽ con số không to bằng cái dĩa bàn bằng phấn xanh. Ông Mậu – Tổng Giám Thị – đi ngang tình cờ nhìn vào lớp. Thằng Quan vẽ xong đã bỏ ra ngoài xe nước mía đá ngồi nhâm nhi một ly nước đá si-rô.

Ông Mậu nhìn lên bảng, đôi mày rậm dài như hai cây chổi tàu cau nhíu lại và những nếp nhăn trên trán hằn lên. Ngừng một lúc, ông quày quả bỏ lên phòng giáo sư. Đến giờ chuông reo vào học, khi chúng tôi đã ngồi yên, thằng Quan lật đật chạy xóa bảng thì ông đã lù lù tiến tới trước cửa lớp với khuôn mặt đỏ rần và cử chỉ mất bình tĩnh. Sự đe dọa của ông đè nặng chúng tôi. Thằng Tín nói khẽ:

– Chết thằng Quan rồi, nó tới số mới chọc ổng.

Thoáng một cái, thằng Quan đã tái mặt và ngồi bất động như tượng gỗ, chờ đợi… Môi ông Mậu mím chặt lại khắc nghiệt và mắt ông mở trừng trừng như giam cả bọn chúng tôi vào trong con ngươi. Không khí lớp học bỗng ngộp thở. Ông bước tới bàn viết hét gần lạc giọng:

– Đứa nào vẽ trên bảng như vậy, nói thiệt, tao tha. Bằng không tao truy được thủ phạm là đưa ra Hội Đồng Kỷ Luật và tống cổ luôn.

Chúng tôi ngầm bảo nhau bằng ánh mắt: thà cùng bị cấm túc cả lớp, chớ nhất định không chỉ thủ phạm. Ông ngoắc một nữ sinh có tiếng hiền lành khờ khạo nhất lớp, hỏi:

– Nè em gì đó?

Oanh khúm núm thưa:

– Con tên Oanh.

Ông Mậu gật gù chỉ lên bảng:

– Đâu em Oanh đọc dùm qua coi nó viết gì đó?

Oanh mỉm cười đưa tay vuốt chót mũi ngập ngừng, yên lặng một lúc rồi lắp bắp thưa:

– Con không biết ý nghĩa hình vẽ đó.

Ông càng bực dọc, sẵn đứng gần thằng Tín, ông lôi nó dậy:

– Chắc thằng nầy biết.

Tín nhìn Quan như hỏi ý kiến rồi dõng dạc nói:

– Theo con nghĩ, hình đó nghĩa là bác Tám Mậu.

Cả lớp không nhịn được cười. Không khí treo chỉ ban nãy vụt được bóc trần. Chỉ có thằng Quan có vẻ nghĩ ngợi. Ông Mậu cười một nụ cười pha một chút cay nghiệt.

– Coi nó vẽ cái chén nói theo tiếng Nam là bát, đến số 8 và số không kêu bằng tiếng Tàu là Mậu.

Đôi môi bắt đầu run lên, ông tiếp:

– Tao đâu có chọc ghẹo, mắng ông chửi cha nó, mà nó hài tên, hài thứ tao như vậy.

Ông vừa dứt lời thì thằng Quan từ từ đứng dậy, mặc dầu thằng Tín ghì lấy nó ngồi xuống. Thằng Quan ngập ngừng thưa:

– Thưa thầy, chính con vẽ.

Tức thì ông Mậu tiến về phía nó và tặng trên má nó một tát tai nháng lửa. Năm ngón tay in rõ trên đôi má màu xám của Quan. Nó lảo đảo ngã chúi nhủi tới trước, chiếc kính cận của nó văng xuống nền gạch. Đôi mắt nó ẩm ướt nheo lại vươn một chút căm hờn. Quan khom xuống lặng lẽ lượm chiếc kiếng lên mang vào.

Không khí nặng nề ngột ngạt trùm xuống lớp học. Cơn giận của ông Mậu chưa rút xuống, tay ông vẫn run run. Để giữ bình tĩnh, ông lấy điếu thuốc gắn trên môi, rồi bật lửa. Ông chậm rãi bước lên bục gỗ nhìn tổng quát lớp học và gằn từng tiếng một:

– Tất cả các học sinh lớp Đệ Tứ A phải cấm túc chiều thứ bảy luôn cả sáng chúa nhật, nghe rõ chưa?

Ông trỏ vào mặt Quan tiếp:

– Còn thằng kia, mầy phải cấm túc trọn tháng nầy.

Ông hất hàm cười khẩy:

– Mầy cần kêu ca gì không? Tao nhân đạo lắm, không thôi tao đưa mầy ra Hội Đồng Kỷ Luật và tống cổ ra khỏi trường.

Ông rít thêm một hơi thuốc nữa, sửa lại chiếc cà-vạt trên cổ, rồi bước ra cửa. Chúng tôi thở phào như vừa trút một tai ách bất thần. Ông Tổng Giám Thị đã thết chúng tôi một chầu ăn sáng bĩ bàng. Tai họa bất thần làm cả lớp bàng hoàng. Vài nét mặt bực dọc vì bị họa lây nhìn Quan một cách ghét bỏ lẫn hờn dỗi.