← Quay lại trang sách

Chương 3

TIẾNG CHUÔNG NHÀ THỜ RÓNG RÃ ngân dài báo hiệu giờ lễ đầu chấm dứt. Hàng lớp người từ nhà thờ tuôn ra như một dòng suối chảy mạnh. Tiếng guốc lẫn tiếng giầy trên lối sỏi rào rạo ê óc. Gió sông thổi mạnh làm rối tung những mái tóc xõa dài và nô giỡn với mấy tà áo màu sặc sỡ như những cánh bướm chập chờn trong gió sớm.

Sao hôm vừa mới lặn, nền trời đen màu chì nứt ra và những luồng ánh sáng từ dưới chân những vườn cây ăn trái phun lên. Sương mù trắng đục màu muối bọt vẫn còn phủ kín những mái nhà lưa thưa bên kia sông. Những chiếc xuồng rau cải chở khẩm thỉnh thoảng tròng trành vì những chiếc xuồng gắn máy đuôi tôm rẽ nước, xô sóng dồn vào phía sau lái.

Các bác xuồng câu tôm nhổ sào, thổi chiếc đèn « con cóc» lồng trong khung kiếng hình lục giác và lần lượt bơi về ngủ bù lại đêm thức gần trắng. Họ có vẻ uể oải, mệt nhọc co ro trong chiếc áo « bành tô» sờn vai. Tiếng búng lốc chốc của lũ tôm cựa mình trong rọ chật ních bên cạnh be xuồng

Chúng tôi đã tề tụ đủ mặt trước sân trường nhốn nháo như đàn vịt vừa thả ra khỏi chuồng. Gần ba mươi chiếc xe đạp cũ mới đủ loại. Bọn con gái mặc đồng phục áo bà ba trắng, quần đen. Những chiếc nón lá nhấp nhô như mấy tay nấm rơm trôi tới lui trên sân cỏ. Bà Hảo vừa bước vào cổng chính giữa tiếng reo hò, mừng rỡ của lũ học trò. Bà tươi cười, cầm chiếc nón lá quai nhung đen và ăn mặc đồng hóa với bọn nữ sinh. Một giọng xuýt xoa:

– Cô hôm nay coi trẻ như nữ sinh trường áo tím.

Bà Hảo dẫy nẩy:

– Các em cứ ngạo cô hoài. Cỡ cô để vào viện bảo tàng là vừa.

Giọng con Đức thì thầm bên tai tôi:

– Nữ sinh Từ Dũ đó, tụi mầy ơi. Chà hôm nay ông Biểu gặp cô phải xỉu liền.

Bà Hảo rút chiếc khăn lụa trong túi áo ra lau những giọt mồ hôi rịn trên mặt đắp phấn bột. Môi cô không khép kín răng biểu hiện sự dễ dãi cởi mở.

Nụ cười cô lúc nào hình như cũng chực sẵn ở vành môi tô son màu tím để che dấu làn da môi thâm đen.

Con Đức báo cáo với chúng tôi là bà Hảo chỉ đóng kịch vui tươi ở nhà trường, chớ về đến nhà, bao giờ bà cũng bực dọc cau có khi nhìn ông chồng trong manh áo rách toang, mốc thếch, hôi hám với cái đầu trọc nhẵn nhụi.

Ông Chánh, chồng bà, mắc chứng bệnh khật khùng, tái phát nặng từ ngày lấy bà được vài tháng gì đó. Người biết chuyện đồn rằng ông Chánh điên chữ. Ngày ông du học bên Pháp trước khi trở về, nước với mảnh bằng Cử nhân triết học, bọn Tây muốn hủy diệt người Việt nào kiến thức rộng, nên tiêm cho ông một mũi thuốc gì đó và ít lâu sau ông không còn tỉnh táo nữa.

Suốt ngày, ông chỉ biết đọc báo, rồi thảo những bài diễn văn dài hàng mấy trang và đem ra trước nhà, đứng bên hòn non bộ oang oang đọc. Nhà bà Hảo quay mặt ra đường đối diện với nghĩa địa. Con đường đá nầy dẫn đến ngôi trường Tiểu học cách nhà bà một cái cầu bắt ngang con kinh nhỏ.

Từ trường Tiểu học, có thể nhìn ra sân nhà bà. Bên kia nghĩa trang là hàng me sầm uất che rợp cả lối đi. Các bác phu xích lô thường đậu xe dưới gốc cây ngủ trưa.

Ông Chánh, trước khi diễn thuyết, phải thay chiếc áo xanh thợ thuyền rách nát phía sau lưng.

Ông phát thanh mỗi ngày hai lần, buổi sáng trước khi học trò vào lớp và buổi chiều lúc tan trường. Khán giả trung thành của ông là mấy thằng nhóc chân cẳng mốc cời.

Ông đi đi lại lại, tay chắp sau mông, ra vẻ trầm tư một lúc. Mặt trời ban mai tuôn ánh nắng xuống chiếc sân gạch vuông. Nước trong hòn non bộ chốc chốc lại xao động. Bầy cá thia thia Tàu vẫy đuôi giỡn nắng trong khóm rong mềm mịn lả lướt. Ông Chánh rách rưới, bẩn thỉu thấp thoáng giữa khoảng sân chen chúc các chậu hoa bằng sành, bóng ngời được ông chăm sóc cẩn thận. Tất cả thì giờ còn lại của ông mỗi ngày là trồng trọt, vun quén cho hoa.

Ông không còn biết sự hiện diện của bà Hảo trong ngôi nhà cổ kính nầy. Ông đã rời ngôi nhà chạm trổ từ cây cột với mái nhà ngang dành chứa lúa ruộng. Gia sản ông hiện giờ chỉ còn vài ba bộ đồ lành và một chiếc áo rách rưới dành cho lúc ông diễn thuyết. Mỗi ngày ông xuống con rạch sau nhà mò cua, bắt cá đem lên tự làm thức ăn lấy.

Trong lúc gào thét chửi bới, ông thường vỗ ngực khoe có một đời sống tự do, độc lập. Nếu những con cá nào ông cho là chưa đúng tuổi trưởng thành của nó là ông thả ngay. Mãi đến bây giờ, hai mươi năm trôi qua, bà Hảo nhìn ông chồng với nét mặt thản nhiên không cau có khi nghe ông nói nhảm. Thỉnh thoảng, bà cũng che miệng cười lúc nhìn ông chồng hùng hồ rủa xả chế độ thực dân Pháp, ông sỉ nhục chính quyền hiện tại, bêu riếu ngạo nghễ tôn giáo. Thỉnh thoảng người ta nghe tiếng thét sang sảng lan rộng cả vùng:

– Việt nam muôn năm!

– Thằng Tây cướp nước, buôn lậu văn hóa. Đả đảo!

– Bảo Đại bị vợ ghen đánh què giò!

– Đả đảo Hít Le! Hoan hô Ấn Độ. v.v…

Ông vừa nói vừa thở. Hai đường gân cổ nổi gồng lên mồ hôi rịn từ chân tóc, chân lông. Mỗi câu hoan hô hay đả đảo ông đều hướng nhìn bọn khán giả tí hon, rồi đưa tay chào chúng theo kiểu nhà binh. Lũ trẻ thích thú reo cười ầm ĩ làm ông phấn khởi hơn và ông cố gắng kéo gân cổ hò hét đến lạc giọng. Vài ba người đi bộ, chay lại nhìn và bọn học trò bị ông thu hút quên cả giờ học sắp đến. Tiếng trống vào học giục giã, réo gọi. Cả bọn ùn ùn chạy rần rộ qua cầu ván. Có đứa còn tiếc rẻ, ngoái cổ lại nhìn. Đôi khi, ông không cần khán giả, cứ đến giờ là ông ra sân nói cho hả hơi. Giọng ông oang oang và tiếng lá của hàng dương bên nghĩa địa rì rào bản nhạc đệm. Mắt ông mở trừng nhìn những ngôi mộ đất chen chúc nhau như gửi những nỗi uất ức cho những người khuất mặt.

Nói một lúc, ông nhìn bóng nắng đọng vũng trên thềm nhà và ông ngừng ngay cuộc diễn thuyết, ông lấy tay áo lau mồ hôi chảy nhễ nhại trên vầng trán cao bóng nhẵn như tô sáp, đoạn lầm lũi vào nhà trên khuôn mặt rám nắng còn vương một chút hờn dỗi lẫn khoái trá.

Ngày ông Ngô Đình Diệm vừa lên nắm chánh quyền, ông bị xe cảnh sát « xúc» chở về bót. Khi bị trói thúc ké hai tay trong chiếc xe lưới bốn bề, ông như con sư tử vừa bị nhốt, gào thét, chửi rủa, điên dại. Các cảnh sát viên phải nhét khăn vào miệng ông và, ông được thả sau vài ba tiếng đồng hồ khi bà Hảo xách dù tới lãnh, giải thích với nhà cầm quyền về chứng mất trí trầm kha của ông.

Ông đã từng nếm mùi nhà thương Chợ Quán. Vào đó, giữa thế giới dở điên dở tỉnh, ông là lãnh tụ sáng suốt của họ. Ông bày ra những yêu sách cho tất cả bệnh nhân điều trị nơi đây. Ông cầm đầu làm loạn.

– Đả đảo Giám đốc bệnh viện.

– Yêu cầu cho chúng tôi ăn uống bổ dưỡng.

– Đập phá chỗ ăn ngủ thiếu vệ sinh.

Sau mỗi câu hò hét của ông, các bệnh nhân nhao nhao lập lại như gánh hát sơn đông mãi võ làm náo động cả dưỡng đường.

Ông đứng vỗ ngực, oang oang hò hét giữa đám đông, bộ điệu oai phong lẫm liệt như một nhà lãnh tụ. Sau đó xe chữa lửa cho vòi rồng vào tắm cả bọn.

Ông Chánh là cục nợ «trí thức» của bà Hảo và bà đã phải trả cả một buổi xuân xanh.

Nắng dịu, mặt trời chiều chuộng bọn chúng tôi tôi đi du ngoạn xa thành phố hơn hai mươi cây số nên khuất vào nền mây âm u.

Bà Hảo đứng giữa bọn học trò mà mắt vẫn liếc về phía cổng trường chờ đợi, có vẻ sốt ruột. Bọn tôi ngồi bệt xuống sân cỏ tán gẫu để thu ngắn giờ khởi hành. Có đứa bày ra trò «đá gà nước».

Cả bọn con gái tán đồng, mỗi đứa đi tìm nhổ một cọng cỏ còn ngậm sương sớm. Đức réo lộng lạc:

– Tao dành « đá» với con Liễu. Ai giựt nó sẽ bước qua xác tao.

Đức tằng hắng thị oai. Từ hàng Giáo Sư, Giám Thị đến nam nữ học sinh cả trường, ai không biết cái tính đanh đá chua ngoa của nàng. Tuy nhiên, nàng thích làm nghĩa, thích binh vực kẻ yếu khi họ cần đến nàng. Đức có khoa «võ miệng» tinh thông chưa có ai là địch thủ trong lớp. Bọn tôi đặt cho nàng hỗn danh là «Đức Cống». Nàng là một mẫu người đồng bóng, vui buồn bất thường, một loại người «trợt búa sút cán». Bọn nào hiền lành thì tránh né nàng. Chúng tôi thì thầm:

– Thôi, tránh voi không hổ mặt nào.

Có đứa thêm:

– Mình chén kiểu đụng với muỗng dùa chỉ lỗ.

Bọn cố tình ăn thua đủ bảo nhau:

– Hạ con nầy một trận cho nó bỏ tánh kiêu hãnh, phải dắt nhau ra sân banh thanh toán võ mồm nếu cần đến võ tay chân cũng được.

Hè năm ngoái, Đức đưa quyển «Lưu Bút Ngày Xanh» chuyền tay tất cả bạn bè trong lớp ghi những cảm tình và những kỷ niệm sau ba năm chung học. Nội dung quyển lưu bút là than thở buổi chia tay về nghỉ hè và lòng quyến luyến chủ nhân quyển lưu bút.

Người viết vào đó trước hết phải trang trí quanh tấm ảnh mình bằng những cành hoa hồng, hoa tulipe cắt từ những tấm cạc bonne année. Đứa nào khéo tay thì vẽ thêm bướm, thêm cảnh trăng mọc, cảnh cánh buồm trên sông. v.v…

Giọng văn viết cho chủ nhân quyển lưu bút phải thật sự mít ướt, quanh quẩn những từ ngữ nào là sầu chia ly về, phượng vĩ rơi trong sân như màu máu.. mặc dầu người viết vào đấy toàn là những cảm nghĩ trái ngược với lòng mình. Tôi nghĩ rằng quyển lưu bút là một pho nói xạo, tình cảm giả, chữ nghĩa ăn rập nhau như được đúc từ một khuôn bánh in.

Cái tật nói dai, nài nỉ khỏe của Đức đủ buộc hơn ba phần tư lớp học lần lượt biên cảm nghĩ vào đó. Phần còn lại là mười đứa con trai, Đức mới nghĩ trao cho Sáo, đứa con gái cuối cùng trong lớp – Sáo Mồng – vì ả lúc nào cũng chải tóc phồng to trước trán như cái mồng của con gà trống. Đức và Sáo cạnh tranh nhau từ cái chua ngoa đanh đá đến tấm nhan sắc, kể cả tiếng ho, hơi thở.

Trong giờ nữ công, Sao đang ngồi tẩn mẩn thêu bên cạnh một mảng ánh sáng rớt từ trên cành me keo rơi xuống, đọng vũng trên bàn học, nhuộm vàng mái tóc Sao. Đức men tới chìa cuốn lưu bút bọc gấm màu vỏ lựu với nét chữ sáng lấp lánh màu ngân nhủ. Đức hạ giọng:

– Sáo viết cho mình để dành kỷ niệm nghe Sáo?

Sáo nhướng mày, ghim cây kim vào khung vải nhìn vào quyển lưu bút rồi lạnh lùng lắc đầu:

– Tao chẳng biết viết gì vô đó. Vả lại, tao không có hình đẹp và bông hoa trang trí vào đó.

Đức nài nỉ:

– Viết gì cũng được, miễn có chữ của mầy là tao vui rồi.

Sáo liếc tôi rồi nheo mắt. Điệu bộ ngạo mạn khinh miệt làm Đức có vẻ hờn dỗi nhưng nàng cố gắng xếp lại tự ái, năn nỉ thêm một lần nữa.

– Chỗ chị em, mầy rán viết cho tao mấy câu thôi.

Sáo cười nửa miệng, hỏi:

– Còn nếu tao không có hình thì gắn gì vô đó?

Đức vuốt lưng Sáo, giong vỗ về:

– Mầy nói giỡn, chẳng lẽ hồi đó đến giờ, mầy chưa chụp hình lần nào?

Sáo tiếp lời:

– Tao lấy hình ở trong bằng cấp Tiểu học dán được không?

Đức ép bụng, vờ tươi cười:

– Ừa, sao cũng được, miễn là có hình mầy thì thôi, kỷ niệm chớ đâu có phải xin hình đẹp như ảnh hoa hậu.

Nói xong, Đức dúi quyển lưu bút vào lòng Sáo, rồi bỏ đi mang theo niềm hy vọng sẽ đọc được những lời vuốt ve dù rằng sự nịnh nọt đó, có nhiều khi Đức cũng cảm thấy chói tai.

Sau một tuần thúc giục từng buổi học, Sáo trao lại cho Đức quyển lưu bút. Đức hối hả giở ra xem. Mặt nàng bỗng xám dần như màu sáp. Chiếc ảnh bán thân của Sáo không có lấy một cành hoa để trang trí và dưới tấm hình là bốn câu thơ cảm để của Sáo:

Đức Cống đâu trôi tắp lại trường.

Tao mầy hai đứa chẳng yêu thương,

Nể lời năn nỉ, tao cho ảnh.

Xin chớ vì đây hiểu lạc đường…

Đức xếp tập lưu bút ném lên bàn, cười móc. Nghĩ một lúc, nàng giở ra xé toang chỗ bài thơ rồi ngoe ngoải bỏ đi ra, trong lúc Sáo cười dòn.

Tiếng cười của Sáo như đập vào tim Đức từng nhát một. Và bắt đầu từ đó, chiến tranh ngấm ngấm giữa hai người chỉ chờ dịp châm ngòi là bùng nổ dữ dội.

Trận đá gà nước hào hứng đến độ lôi cả bà Hảo nhập bọn với chúng tôi, Anh Nam Giò tình nguyện ăn thua đủ với bà Giám Thị. Bà Hảo rút một cọng cỏ mọng nước. Bà dùng móng tay nhọn nặn chất nước nhỏ bằng đầu kim gút. Giữ cho giọt nước bên kia địch thủ tóm cả về bên mình. Đến lượt bà Hảo đấu với Nam Giò – anh nầy có tiếng cao nhất trường chiếc đầu anh trôi nổi trên sân mỗi khi có dịp tập họp cả trường nghe ông Hiệu trưởng nói chuyện. Ai muốn tìm ảnh, khỏi mất công đi mà chỉ cần nhìn cái đầu nào vượt hẳn lên trong đám. Chúng tôi làm một lũ trọng tài vây quanh.

Kẻ ủng hộ Nam Giò, người theo phe cô Hảo. Mỗi toán cổ võ «gà» của mình. Nữ sinh về phe bà Hảo. Còn bọn con trai ủng hộ Nam Giò.

Đức rộng họng hét to:

– Rán đi cô, kẻo mất mặt tụi em.

Bà Hảo cố nhịn cười và giữ cho giọt nước trên cọng cỏ không bị lay động. Lũ con trai gào thét «cho nước» Nam Giò. Bà Hảo chìa con gà cỏ của mình sẵn sàng chờ đợi. Nam Giò đưa cọng cỏ ngậm nước xáp tới. Cả bọn hồi hộp chờ đợi bà Hảo kề đầu cọng cỏ của mình dúi nhẹ vào cọng cỏ của anh Nam. Chỉ bằng một cái chớp mắt, giọt nước ở đầu cọng cỏ bà Hảo đã «tóm» giọt nước của Nam Giò về phía mình.

Bọn con gái vỗ tay cùng hét:

– Cô thắng rồi.

Bà Hảo vứt cọng cỏ xuống cười lớn. Bọn con trai chỉ còn biết nhìn nhau tức tối. Một giọng khàn, trách móc hét lên:

– Thằng Nam Giò « bết» quá, làm bể mặt anh em hết trọi.

Ông Biểu chợt xuất hiện sau lưng chúng tôi tự bao giờ, nham nhở cười.

Ông dựng chiếc Sachs trầy trụa cả nước sơn để lộ ra những đám rỉ sét. Tiếng máy xe gào thét mệt mỏi và khi xe lăn, người ta có cảm tưởng như đang đứng giữa vùng sương mù trộn bóng tối dày đặc. Làn khói xám từ đằng sau như một dòng thác đen ngòm, mùi xăng nồng mũi.

Hôm nay, ông Biểu gọn gàng trong chiếc áo thun ngắn tay bó sát thân, cái thân hình thiếu thịt nhiều xương. Ông đội mũ lưỡi trai mặc quần sọt, đôi vớ cao gần tận gối, tất cả cùng màu trắng tinh khiết, mùi Eau de Cologne toát ra hỗn xược. Thằng Tín vỗ tay nhảy cẫng lên:

– Thầy hôm nay giống thể tháo gia quá.

Đức chen vào:

– Thầy mình vừa trẻ vừa đẹp trai.

Nàng nhìn tôi, thấp giọng:

– Thật là xứng đôi vừa lứa già quá.

Ông Biểu dựng chiếc xe Sachs bên thềm cười thân mật, rồi nhìn xuống đồng hồ tay.

– Xin lỗi cô đây và các em, vì lý do kỹ thuật nên tôi tới trễ.

Bà Hảo nhìn thầy trách móc lẫn nũng nịu:

– Tại ông mà bọn tôi phải bày trò chơi để thu ngắn giây phút đợi chờ cho đỡ sốt ruột.

Đức nói lầm bầm:

– Chiếc xe của thầy nên đem vào Viện Bảo Tàng dấu là vừa.

Sáo chen vào:

– Thưa thầy, tụi con đi chừng bao lâu mới tới dưới ấy?

Ông Biểu gãi đầu

– Nếu đi lẹ thì chừng một giờ, còn đi rề rề, vừa đi vừa ngắm cảnh thì hai ba giờ cũng nên.

Bà Hảo vỗ vai Sáo:

– Em lo gì, đến nhà thầy, sẽ có cơm dọn sẵn chờ. Thầy sẽ cho người bắt gà vịt rửa chưn để thết bọn mình mà.

Cả bọn con gái nhốn nháo lên.

Để chứng tỏ nỗi vui mừng đó, chúng tôi thường cho hai tay vào túi áo bà ba và vẫy vẫy hai vạt trước. Mặc dầu chúng tôi đã học gần cuối năm Đệ ngũ, chúng tôi vẫn chưa hề mặc áo dài lần nào. Đa số không mang guốc và cả trường chỉ có vài mái tóc «phi dê», những mái tóc uốn lăn quăn như mớ xà- lách xoong. Thường nhật, chúng tôi mặc áo bà ba trắng quần đen, loại quần ống rộng xùng xình may hết khổ vải. Mải đến ngày ông Hiệu trưởng người Bắc di cư vào chỉ thị phải đi guốc, chúng tôi mời tập mang guốc và cảm thấy như chân cẳng bị xiềng. Đôi khi, bọn tôi ngồi đâu bỏ guốc lại đó.

Lúc trả bài hoặc lên bảng, vài ba đứa vô ý đi chân trần là giáo sư biên phạt cấm túc. Gần cả tháng, chúng tôi mới quen dần. Còn bọn con trai bị cấm mặc quần «xà-lỏn» trong lớp, nếu không sẽ bị phạt ra sân lượm rác, kể luôn cả anh chàng nào mang guốc hoặc bỏ áo ra ngoài quần.

Ông Biểu rút chiếc còi trong túi quần, kề lên môi. Tiếng ré ngân dài, cả bọn yên lặng chờ lệnh. Ông Biểu dõng dạc:

– Các em nữ sinh nào không có xe hoặc không biết đi xe đạp, hãy cho thầy biết.

Gần nửa số con gái đưa tay lên. Ông tiếp:

– Thầy đề nghị mỗi anh con trai nào chưa đèo ai, hãy chở dùm một chị và thay phiên nhau khi nào người làm tài xế đuối sức.

Sau một lát, chúng tôi đã phân công nhau xong xuôi.

Bà Hảo hỏi bâng quơ:

– Em nào tình nguyện chở cô?

Chúng tôi chẳng hẹn cùng la lớn:

– Thưa cô, để thầy chở cô.

Cô Hảo vụt đỏ mặt, e thẹn như con gái mới lớn. Chúng tôi được dịp cười vang. Niềm phấn khởi dâng tràn trong nắng sớm.

Trên con đường trải đá, đỗ nát nối liền tỉnh ly ra quận Chợ Lách, chúng tôi gồm năm mươi đứa, hớn hở trèo lên những chiếc xe đạp đã được sửa sang cẩn thận chiều hôm qua và bắt đầu cuộc hành trình như một đoàn tay đua.

Trong đoàn có một ban cấp cứu gồm vài ba đứa được bầu làm y tá chở một mớ thuốc cầm máu, thuốc trợ tim và thuốc cảm nắng. Bà Hảo cẩn thận đem theo mấy chai thuốc trúng thực nữa.

Bà Hảo ngồi trên yên sau của chiếc xe Sachs sau vài ba giây do dự. Chiếc xe rồ lên, ngần ngừ một lúc, rồi nhả khói như sa mù buổi sớm.

Con đường nằm giữa cánh đồng rộng hút mắt, bên cạnh con sông chạy dài song song. Vì con đường vắng xe cộ, chúng tôi đi nghênh ngang không trật tự. Mạnh đứa nào cố gắng vượt lên. Bọn con trai làm tài xế khom lưng đạp rút theo các nàng. Gió ngược dựng tóc chúng tôi ra phía sau.

Trên đường nhiều ổ gà, những chiếc xe bốc lên, hạ xuống như những con thuyền trên sóng nhỏ. Gió từ ruộng thổi tới, từ sông thổi qua, cuốn những tà áo, làm tròng trành mấy chiếc nón bài thơ. Ông Biểu vượt chúng tôi một đoạn đường và cả bọn tha hồ thở khói. Chúng tôi có cảm tưởng sa mù buổi sáng chưa tan.

Chiếc khăn san bằng the đỏ quàng quanh cổ bà Hảo bay phất phới. Mùi khói quyện hơi xăng cay mắt. Bà Hảo sợ ngã ra sau, vòng tay ôm choàng qua hông ông Biểu, âu yếm như một cặp nhân tình trẻ. Oanh cong xương sống đạp đèo Đức đàng sau, cố vượt lên cho bằng chiếc xe Sachs. Bà Hảo vẫy tay trêu chúng Lôi. Đức hai lay làm loa thét:

– Thưa cô, thưa thầy, làm ơn đi sau tụi em. Nếu không, chắc tụi em chết ngộp dọc đường.

Bà Hảo vỗ nhẹ vào lưng ông Biểu:

– Thôi mình đi sau, bọn nó kêu quá kìa ông.

Ông Biểu hãm bớt «ga» nhường chúng tôi vượt qua mặt. Thằng Tín trườn tới gọi tôi:

– Chị Liễu nhìn lại sau mà coi ổng bả đang mùi kia kia.

Tôi ngồi sau lưng Kim quay lại, thấy ông Biểu nói gì với bà Hảo nhiều lắm. Đôi môi bà mấp máy không ngừng và bàn tay bà Hảo tuột xuống nằm trên đùi ông. Rồi đó bà Hảo ngồi sát lại ông Biểu, chốc chốc ông lại buông một tay khỏi «ghi đông» quàng ra sau lưng bà Hảo. Chiếc xe Sachs đã lùi lại sau đoàn xe đạp hàng trăm thước và hình như không muốn bò nữa.

Chúng tôi vượt qua từng cánh đồng thoai thoải. Bên kia bờ sông, rải rác mấy lò gạch êm đềm nhả ra những luồng khói lên cao và tản mác trên khung trời xanh nhạt. Con đường thỉnh thoảng có vài đoạn thu hẹp dài bằng ba gang bàn tay, cỏ lấn lối. Loài hoa trinh nữ lốm đốm hoa tím nhạt như nụ bông phấn mịn bên cạnh những dẫy bìm bìm hình cái chuông lắc lư trước gió.

Chúng tôi đồng xuống xe và ngồi nghỉ bên hàng cây còng rợp bóng. Nắng đuổi trên hàng cây đến tận chân vườn. Mồ hôi rịn từ những vầng trán, những lưng áo ẩm ướt. Cơn mệt ngấm vào làm đôi chân tôi đã bắt đầu mỏi rục.

Tôi quăng xe ngã bừa bãi, rồi ngoái lại gọi Kim:

– Mình ngừng ở đây nghỉ chân chờ ông Biểu.

Kim bước xuống kêu mỏi. Chúng tôi tìm một gốc cây còng ngồi xuống, chiếc rễ to tướng nổi gồng trên đám cỏ, tựa lưng vào đó mà thở.

Tôi gọi đùa:

– Kim ơi, lát nữa, mầy tiếp tục chở tao nghe, tao hết gân cốt rồi.

Kim quay lại, cười nhẹ nhàng. Trên tay nàng đã cầm sẵn mấy đóa bìm bìm phơn phớt tím. Nàng men đến trao tôi mấy đóa và phần còn lại, nàng lôi chiếc xe đạp dậy và gắn lên tay lái. Cả bọn chúng tôi kẻ ngồi, người đứng. Thằng Tín và mấy đứa nghịch ngợm leo tuốt lên những cành cây còng sà xuống chỗ chúng tôi.

Hàng muôn ngàn lá đỏ buông tay rơi xuống như đàn bướm dật dờ, lảo đảo và cuối cùng nằm tung toé trên ngọn cỏ rải rác trên mặt sông như những vết phỏng lửa.

Nhìn những chiếc lá tách bến xuôi theo dòng, tôi liên tưởng cuối năm học nầy, chúng tôi mỗi đứa một nơi và tôi sẽ về nơi nào? Tôi chỉ biết chắc có một điều là tôi sẽ không còn tiếp tục học nữa.

Tôi sẽ từ giã nhà trường vĩnh viễn, nhào ra đời tìm sống. Số bạn bè đã lần lượt bỏ học từ mấy năm trước, mấy đứa có nhan sắc được mấy thanh niên có địa vị đem xe hoa chực chờ rước về nhà. Chúng nó lần lượt bỏ học và bây giờ có hai ba đứa dắt con đi phố.

Thỉnh thoảng bọn nó tới thăm thầy và bạn cũ. Chúng kể chuyện chồng con. Đứa thì tiếc rẻ đời làm học trò, đưa xúi chúng tôi đừng lấy chồng sớm. Tôi tự hỏi cuối năm nay, nhà trường hết lớp, mỗi đứa chúng tôi phải đi Saigon học hay là ở tỉnh sẽ có trường dạy đến bậc đệ nhị cấp hay không?

Với cái vốn học ít oi nửa thầy nửa thợ nửa cu li như tôi, tôi sẽ làm gì nếu tôi không đậu được bằng Thành Chung? Tự nhiên tôi cảm thấy một nỗi xót xa cựa quậy trong lòng. Tương lai mù mịt dàn trải ra trước mắt tôi.

Sáo ngồi xắn quần khỏi gối chừa ra đôi chân trắng lạnh trên cành cây me keo, cách tôi một khoảng chừng năm thước.

Nàng thòng hai chân xuống khuấy nước. Mặt nước nhăn nheo xáo động. Hai chân nàng đập mạnh nước bắn tung tóe và xô những chiếc lá trôi ngược.

Sáo ngoắc tôi:

– Liễu, qua đây vọc nước, mát lắm.

Tôi lắc đầu.

Sáo tiếp:

– Làm gì mà nghĩ ngợi dữ vậy? Bộ mới đi chơi một chút mà đã nhớ bồ rồi hả?

Tôi không muốn đính chánh và tiếp tục lắc đầu.

Sáo vẫn soi bói:

– Nè Liễu, mầy định xin đi làm phải không?

Tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi đáp:

– Đó là cái chắc rồi.

Đức chêm vào:

– Sao bỏ học ngang vậy? Nhà mầy nền cao tới ngực mà.

Oanh lại góp chuyện:

– Liễu nó định lấy chồng, tụi bây à, mặc dầu tiền nhà nó đủ sức thiêu tụi mình cháy như heo quay.

Tôi chợt buồn. Chúng nó có lẽ ngờ tôi giàu có nhưng không muốn đi học nữa để chờ người đến xỏ mũi dẫn về làm vợ. Chúng nó đâu có ngờ được, tôi sống trong một ngôi nhà có tiếng là to, là đẹp nhất làng với thềm nhà cao tới ngực, mái ngói uốn cong, cột kèo chạm trổ tỉ mỉ. Trên những bàn thờ tổ tiên, những bộ lư đồng phải hai ba người bê mới nổi, bên cạnh những chiếc bình da rạn và đồ sứ quý giá có từ hàng mấy trăm năm về trước và với một lô họ hàng giàu có danh tiếng nhất tỉnh và cũng ích kỷ chưa ai bì kịp. Chúng nó chưa hề biết mỗi ngày, sau những giờ ở trường, tôi trở về nhà chui vào mấy trại chầm lá lợp nhà với bộ đồ đen mốc thếch và mặt mũi như lọ lem vì phấn lá đắp đầy mặt, chỉ còn hai trong con mắt và hàm răng chưa bị nhuộm đen thôi.

Lúc đó nhìn vào gương, tôi vụt không nhịn được cười, tôi cảm thấy mình xa lạ: một người con gái da đen nào đó. Khi gần đến giờ đi học, tôi lại hối hả tắm rửa, tẩy hết vết tích lam lũ, bươn bả đọc ngấu nghiến bài buổi học hôm qua.

Sau giờ tan học, tôi không có quyền nán lại đi chơi rong hoặc đi xem hát như lũ bạn, mà phải gấp rút trở về nhà và tiếp tục công việc kiếm tiền nuôi thân.

Có nhiều lúc tôi muốn lấy chồng, lấy ai cũng được, miễn là họ cao ráo sạch sẽ, học tới trung học. Tôi muốn thay đổi hoàn cảnh. Đời con gái lu câm và buồn nản quá, nên tôi ưa mơ mộng vẩn vơ lúc nào hay lúc đó.

Nhưng khi ngồi trong vườn bóng lộn ánh trăng, nằm trên chiếc chiếu in bóng cây lựu già, tôi chợt thấy rằng đời sống tình cảm không thể dễ dàng như vậy được. Tôi thèm yêu bằng một mối tình gay cấn và lãng mạn, rồi mới chịu lấy người mình yêu làm chồng.