← Quay lại trang sách

Chương 6

TÔI ĐÃ ĐẾN NHÀ ĐỨC VỚI Kim, Oanh và bọn thằng Tín, Quan vào lúc chập choạng tối. Kim, Oanh và tôi sẽ ở lại với Đức sau buổi cầu cơ. Tôi hy vọng đó là một phương pháp vừa giải trí, vừa lôi dần Kim ra khỏi thế giới kỳ quái hiện tại.

Đức ngồi bên ánh lửa bập bùng, nhìn chăm chú vào nồi cháo vịt. Nàng cầm hai chiếc đũa tre trở con vịt vặt lông trắng ngần nằm đưa bụng trong chiếc nồi nhôm nghi ngút khói. Trong bóng tối chập choạng, đôi mắt Tín sáng rực, thích thú.

Quan thì thầm bên tai tôi:

– Bà nữ sĩ Hiệp-Đức nhà mình sành điệu một cây. Sau chầu cầu cơ còn bày chầu cháo vịt.

Tín chêm vào:

– Tao mê nàng Nguyệt Thanh ở chỗ chu đáo đó.

Sau hai biến cố, Đức và Kim thay đổi trái ngược nhau. Kim lấy vui tươi làm bức màn che phủ cuộc sống bên trong, còn Đức thì đem sự ủ dột, thảm thê ra trù rủa nỗi bất hạnh.

Đức đặt con vịt tươm mỡ vào cái thố sành màu bánh đúc lá dứa và xắt hành cho vào nồi cháo.

Thằng Tín ngồi trên ghế trường kỷ cắn hột dưa lốp bốp và nhìn ra mấy nọc trầu im lìm dưới ánh trăng trong. Quan đến thúc vào hông nó:

– Cho tao một điếu thuốc.

Tín lắc đầu:

– Còn điếu Ruby cuối cùng. Chút nữa, có cả gói, tao sẽ tặng mầy phân nửa.

Tôi ngồi trên võng với Kim trong khi Đức lo dọn dẹp chiếc bàn lót mặt cẩm thạch trắng hình chữ nhật đặt trước bàn thờ chính. Quan mang lại chiếc hộp giấy và mở lấy miếng cơ hình trái tim. Mảnh giấy trắng kẻ chữ xanh lớn bằng tờ báo, gồm tất cả hai mươi bốn chữ vần và dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng cùng các con số từ một tới mười,

Quan biểu Đức lấy cho nó tấm kiếng trong dằn lên miếng giấy để cho chiếc cơ chạy khỏi vấp. Tín chỉ thị cho gia chủ phải đem lư hương, trà nước và bánh trái đặt trước bàn. Đức lăng xăng làm theo lời Tín. Mọi người có vẻ thành khẩn. Tôi lôi Kim ngồi bên cạnh. Oanh, Đức ngồi ở hai đầu bàn và Quan, Tín ngồi đối diện với tôi.

Ba cây nhang cặm trong chiếc ly đựng gạo tạm dùng làm bát nhang, hai chung nước: một chung trà, còn chung kia là nước lã để cho thần thánh, ma quỷ súc miệng trước khi dùng bánh trái hoa quả. Quan dặn thêm là phải thắp hết nhang trên các bàn thờ tổ tiên và luôn cả bàn thờ Thần Tài, bàn thờ hai bà Mẹ Sanh Mẹ Độ nữa. Tụi nầy chắc sanh nhằm cung nghi lễ hay sao mà rành rõ chuyện cúng bái, cầu đảo như vầy. Đâu đó xong xuôi, chúng tôi nghiêm chỉnh, Quan nói:

– Chị Liễu cùng thằng Tín đặt tay lên cơ thử coi cơ có chạy không? Nếu chị nặng bóng vía làm cơ không chạy nổi thì mời chị khác vào thay thế.

Tôi đặt ngón tay trỏ theo lời chỉ biểu của Tín một cách nhẹ nhõm. Tín đắng hắng lấy giọng cầu nguyện khe khẽ:

– Quí vị nào vào cơ làm ơn xưng danh tánh và cho biết liên hệ với gia chủ.

Tôi theo lời Tín là không phải để tay sát vào cơ. Sau khi Tín hỏi, mũi cơ quay vào lò dò ráp chữ «Phạm thị Quỳ». Đức nhìn tôi sửng sốt. Tín hỏi thêm với giọng nghiêm trọng hơn:

– Vậy hồn cho tụi cháu biết bà có liên hệ gì với chị Đức?

Cơ quay đi mấy vòng và ngừng lại chỉ chữ «Cần thuốc hút». Quan nhìn Đức:

– Mua thuốc cúng đi chị.

Đức rối rít:

– Hỏi xem bà ấy cần thuốc gì?

Cơ ngập ngừng và cuối cùng rề lại chữ «Ruby ». Đức lập tức chạy sang quán bên cạnh mang về bao thuốc Ruby. Tín biểu Đức xé bao lấy ra ba điếu đặt trên dĩa sứ có hình Bát Tiên Quá Hải và trịnh trọng mời:

– Mời bà dùng thuốc và cho biết giữa bà và chị Đức có liên hệ gì?

Cơ quay về xưng là cô ruột của Đức. Nét thảng thốt hiện rõ trên mặt Đức. Oanh ngơ ngác một lúc, rồi rỉ tai Đức:

– Trúng không mầy?

Đức gật đầu lia lịa, vẻ mặt thành khẩn, sợ sệt. Tín nhìn Quan nheo mắt như trao đổi ý ngầm. Tôi chỉ đoán mò vậy thôi, thật ra tôi cũng bị cuốn hút vào giữa thế giới người sống và thế giới kẻ chết gần gũi nhau qua một tấm ván bằng gỗ quan tài cắt hình trái tim lớn không hơn một bàn tay. Kim trầm tĩnh nhìn Quan và Tín. Nàng có lẽ bị treo lơ lửng giữa sự tin tưởng, sự huyền bí và lòng ngờ vực. Đức hình như đang say sưa tìm lại người thân thuộc đã rã thây từ mười mấy năm nay, và bây giờ trở về trong ngôi nhà nầy. Nàng rối rít hỏi tương lai, tình ái, công danh, bổn mạng.

Cơ có lúc đòi ăn món nầy, có lúc xin uống nước giải khát nọ. Đức đều chạy đủ lễ lộc. Mỗi đứa chúng tôi thay nhau hỏi vong hồn người cô của Đức một vài chuyện vơ vẩn.

Bỗng nhiên con chó vện từ ngoài hàng ba nhảy vào rượt con mèo tam thể đang chạy ngang qua chỗ xây cơ. Tức thì miếng cơ dừng lại và chúng tôi cầu nguyện đủ thứ mà cơ vẫn nằm lì một chỗ.

Tín cằn nhằn:

– Mấy bà biết không? Hồn ma bóng quế kỵ chó đi ngang. Hồi nãy, tôi quên dặn chị Đức xiềng con chó nầy lại để nó chạy lạng quạng làm hồn bỏ đi mất rồi.

Oanh và Kim lộ vẻ thất vọng vì nhiều câu hỏi của họ chưa được giải đáp thỏa đáng. Quan gây:

– Mấy bà còn tiếc nỗi gì? Bọn nầy chưa kịp hỏi được câu nào đó sao?

Kim nói:

– Thôi để bận sau. Lấy kinh nghiệm lần nầy thì từ rày về sau, mình rành việc cầu cơ, chớ có khó khăn gì.

Tôi nhìn trên bàn. Thức ăn mà hồn bà Quỳ đòi gồm có: bánh in, khô mực nướng, kẹo mạch nha, thuốc hút, có cả nước đá sirop nữa.

Oanh đùa:

– Cô Quỳ của con Đức lại đòi ăn nước đá sirop nữa.

Quan nói:

– Chớ chị nghĩ coi, những người lúc sống thích ăn nước đá sirop, nhưng khi chết, người ta có cúng món đó đâu.

Đức dụ dự một lúc, rồi nói:

– Lạ Không? Hồi sống bả bị chứng nhức răng đời nào bả uống nước đá.

Oanh thêm:

– Cô mầy có vẻ mê ăn.

Quan cười xòa:

– Bả văn minh đòi hút thuốc Ruby như đàn ông.

Đức rầu rĩ:

– Hồi bả còn sống, hễ chồng bả ngồi gần bả hút thuốc, bả ho sù sụ, có vẻ khó chịu lắm.

Quan lại giải thích:

– Biết đâu khi bả khuất núi rồi, các vong hồn khác tập bả hút thuốc.

Chuyện nào dẫu có khó khăn gai góc cũng trở thành suông sẻ rành mạch một khi lọt qua miệng Quan. Tôi háy một cái:

– Tao nghi hai thằng nầy toa rập nhau để giở thói ba xạo đây.

Bỗng Tín cười ngặt ngoẹo, nước mắt chảy ở khóe. Oanh cáu tiết:

– Mày phải giải thích… thằng quỷ nhỏ nầy.

Tin hí hửng:

– Bà nội nào vào đây? Thằng nầy đang ghiền và muốn trả đũa cái vụ Nguyệt Thanh, bắt người ta ra sân banh chờ muốn rục xương. Hôm nay ơn đền, oán trả, vậy chị Đức bắt tay thắng nầy một cái rồi huề cả làng.

Đức hờn mát:

– Thiệt hết chỗ nói rồi. Nếu thích món gì thì tụi bây cứ nói chớ giở cải mửng nầy làm tao cụt hứng.

Oanh vỗ đầu Tín:

– Sao mầy biết tên bà cô con Đức?

Tín cười dòn:

– Vậy mới tài chớ, mới có thể sai bà Đức đi mua Ruby về hút chớ.

Đức đứng dậy bưng dĩa chuối đặt trên bàn thờ và khi đi ngang bọn thằng Quan và Tín, nàng cú lên đầu mỗi đứa một cái thật đau để trị cái thói nghịch ngợm của chúng, Kim hỏi Quan:

– Thằng Tìn ma-le dữ. Tên tuổi cô của con Đức mà sao nó cũng mò ra vậy kìa?

Tín nhả khói thuốc thành những vòng chữ không bay là là qua khuôn mặt dài, cười với Đức:

– Tuần trước, tôi lại đây thăm chị. Hôm đó có chị Liễu và chị Oanh nữa, chị nhớ hôn? Lúc tụi nầy vô, gặp chị đang coi cuốn Tam Tạng Thỉnh Kinh. Tôi chợt thấy có tấm thiệp báo hỉ: Ông Phạm văn Ẩn làm lễ vu qui cho bào muội Phạm thị Quỳ. Ai ai trong tỉnh nây mà không biết ba chị Đức là ông giáo Ẩn. Lại nữa, tôi cũng bắt gặp mục chia buồn tin bà Phạm thị Quỳ mệnh chung cắt trong một tờ nhật báo nhét phía sau bìa cuốn Tam Tạng Thỉnh Kinh. Chuyện có gì rắc rối đâu.

Kim nhìn sang tôi lắc đầu:

– Không biết mấy mươi năm sau, bọn nầy có thay đổi không? Chắc rồi chứng nào tật nấy.

Quan lên tiếng:

– Có duyên hay không là ở chỗ đó.

Oanh tàn nhẫn:

– Con gái mê kép hùng chớ it ai mê hề. Hề chỉ có thể chọc cười thôi.

Đức nạt:

– Thôi dẹp đi, cháo vịt đã dọn xong. Mời quí ngài phủi cẳng nhảy lên mâm.

Sau tuần cháo vịt, tôi đề nghị cầu cơ lại một lần nữa. Bây giờ trăng đã lòn qua tàng cây khế ngọt và mặt cáo, rơi lốm đốm nơi chỗ chúng tôi ngồi. Lần nầy Đức nhất định không cho Quan và Tín nhúng tay vào. Kim và tôi ngồi hầu cơ, còn tụi nó giữ việc biên chép, để xem cuộc cầu cơ có thiêng hay không. Chúng tôi đặt hai ngón tay trỏ lên thân cơ. Ngồi mãi một lúc mà chúng tôi vẫn không thấy cơ nhúc nhích. Oanh đốt một tuần nhang thứ hai và tình nguyện thay Kim. Chốc chốc Đức lại thay nước cúng. Kim khấn vái

– Nếu anh Ân có linh thiêng, hãy nhập vào cơ cho Kim hỏi vài điều.

Ân là người tình của người chị thứ hai của Kim. Anh ấy chết trong thời kỳ chiến tranh Pháp-Việt Minh. Anh đã theo kháng chiến vào năm 1948, xung phong vào tiểu đoàn 307 và bị tụi lính còm-măng-đô hạ sát trong trận Tầm Vu. Lúc đó anh mới hai mươi lăm tuổi. Chị Hai của Kim ôm ấp, thờ phụng hình ảnh người tình quá cố mãi đến ngày hôm nay.

Đức vặn chùng ngọn đèn Hoa Kỳ xuống. Ba cây nhang cháy cong queo thành ba vòng bán nguyệt màu xám. Tất cả im lặng. Tôi nghe tiếng tim mình đập, tiếng côn trùng ngoài hè và tiếng vạc sành ngoài bụi mía. Không khí trang nghiêm vây chặt chúng tôi. Bọn thằng Quan ngồi bất động.

Bỗng chiếc cơ trở mình lắc lắc phía trước mũi và chậm chạp bò đi. Tôi dở tay nhè nhẹ. Đức trườn người tới, vái van:

– Hồn ai nhập vào đó? Làm ơn xưng danh tánh.

Cơ bò mấy vòng ngoài rồi quay vào:

– Ân, tiểu đoàn 307.

Một con chim heo bay qua mái nhà kêu eng éc, như dội vào lòng tôi một gáo nước lạnh.

Oanh vọt miệng:

– Anh là gì của Kim.

– Người tình của chị Kim

– Anh chết ở đâu, năm nào?

– Tầm Vu, năm 1950.

Mặt Kim tái mét. Nàng hạ giọng:

– Người tình của anh tên gì?

– Trần Lệ Ngọc.

Không hẹn, chúng tôi cùng nhìn vào ngọn đèn leo lét bỗng trở thành hoa đèn và những tia sáng mảnh mai túa ra, lách tách. Đồng thời ba vòng cung nhang gãy rớt xuống mặt bàn. Oanh vẫn để ngón tay nhẹ gần hỗng trên mặt cơ. Tôi say sưa ngây ngất như vừa uống rượu, và bị cuốn hút vào một cảm giác kỳ ảo, lâng lâng, chạy từ đầu lan tràn xuống tứ chi. Rồi dần dà, tôi có cảm tưởng hồn ma đang ẩn trong thân thể tôi sắp tan thành khói hoặc thành bóng tối. Hồn ma đang điều khiển ngón tay tôi để trả lời những câu hỏi của Kim. Tôi chưa hề nghe Kim nói về anh Ân, tử trận năm nào và chị Hai của nàng tên gì? Tôi chỉ quen gọi chị ấy là chị Hai, theo Kim, và chỉ biết anh ấy biết làm thơ chút ít.

Tôi hỏi nếu tôi đi xa thì tốt hay xấu?

Cơ chạy lẹ và ráp trúng chữ thành bài thơ lục bát. Tôi không thể ngờ được đây là chuyện thực hay hư vì Oanh và tôi đều không biết làm thơ.

Phồn hoa găp hội chen đua

Trâm cài lược giắt se sua với đời

Lần lần hậu vận thảnh thơi

Rỡ ràng huê kiểng, tốt tươi cửa nhà.

Mắt Kim vụt sáng long lanh. Quan lấy bút chép bài thơ vào một miếng giấy. Đức chen vào.

– Anh cho Đức biết ý định làm ăn của Đức có thành hay bại?

Tôi bỏ ra ngoài hàng ba. Đầu óc lởn vởn bốn câu thơ. Đột nhiên, tôi vụt kinh sợ ngày tháng tẻ nhạt của cuộc đời gõ đầu đè nặng tôi. Tôi phải đi tìm một không khí khác. Có một tiếng gọi hấp dẫn từ một chân trời nào đó quấy nhiễu tôi từng ngày, từng đêm.