← Quay lại trang sách

Chương 5

TÔI NGỒI TRÊN BẬC CẦU NHỦI nhìn xuống sông. Dòng sông chảy lờ đờ, biếng nhác. Mùa nầy nước sông đục, màu cà phê sữa. Nước sông đầy leo lên gần bờ. Vài ba con diều thẳng cánh trên nền trời giăng mắc vài áng mây sáng.

Oanh hãy còn ngủ say. Tôi ra đây đón những xuồng bán quà sáng. Ghe thương hồ nhổ neo bì bõm trên sông và những xuồng câu tôm thu xếp rời bến, ngọn đèn lồng bằng kiếng đã tắt phụt tự bao giờ.

Một lát, Oanh lò dò bước xuống ngồi bên cạnh tôi, khuấy nước.

Tôi quay lại:

– Sao dậy sớm, không ngủ thêm một chút nữa?

Oanh dụi mắt:

– Nhà lạ, khó ngủ. Lúc về sáng, tao mới chợp mắt được một chút.

Oanh lấy hai ngón tay búng nước chóc chóc như tiếng loài tôm ăn móng.

– Dưới sông có bán thức ăn sáng hay sao mà mầy ra đón sớm vậy?

– Tao đón xuồng bán bánh ướt ăn với bì.

Oanh hớn hở:

– Tao cũng mê món đó. Nhưng sau khi ăn bánh ướt tao còn phải ăn chè thưng. Chè đó bán ở con sông nầy số dách. Ở tỉnh tao, không có cái thứ ăn trên sông.

Tôi cãi.

– Chè thưng bán vào buổi tối. Buổi sáng có món bánh lọt tàu hũ thôi.

Oanh ngắt lời:

– Ừ, món đó cũng ngon.

Bỗng một thiếu phụ mặc chiếc áo bà ba bằng the Lá Cải ngồi trên chiếc ghe hầu chạm trổ bông hoa, chim chóc sơn màu xanh nước biển thò đầu ra khỏi khoang, gọi lớn tên tôi.

Tôi giựt mình reo lên, mừng rỡ:

– Chị Bảy!

Oanh hỏi:

– Ai vậy?

– Mầy quên chị Bảy là chị con Kim sao?

Oanh gọi tiếp:

– Chị Bảy ghé cho tụi em hỏi thăm.

Thiếu phụ ra lịnh cho thằng nhỏ chèo ghe quày mũi vào nhà thủy tạ.

Thiếu phụ bới đầu, đánh phấn trắng bệt và đôi lông mày tỉa nhỏ như hai sợi chỉ chạy cong theo chiều mắt. Đôi mắt chị màu nâu, to và rèm mi rậm – đôi mắt của Kim. Chiếc ghe hầu vừa cập bến, chị Bảy bước ra mũi, kêu lên:

– Em Oanh dạo nầy mau lớn, chị nhìn không ra.

Tôi leo ngồi trên mũi ghe, hỏi:

– Kim bây giờ ở đâu?

Chị Bảy sửng sốt:

– Nó ở nhà bà ngoại chị dưới Long Thành. Chắc lâu lắm em không gặp Kim?

Oanh nóng ruột:

– Kim thế nào chị?

Thiếu phụ thoáng buồn, cử chỉ chị giống Kim từ cách nheo mắt đến cách mím miệng. Họ chỉ khác nhau ở cách trang điểm. Chị Bảy là bà chị kế Kim. Kim có tất cả bảy chị em gái không chồng và nổi danh khéo nhất tỉnh và tiết hạnh khả phong. Cả bảy người con gái có một đời sống tình ái giống nhau, yêu chỉ một lần và cuộc tình đó dang dở vì chiến cuộc. Người tình của họ phần đông đi bộ đội trong cuộc kháng chiến năm 1945, tử trận hoặc đi tập kết. Chị em họ sống với mối tình vô vọng và thờ phụng trong tâm hồn những hình ảnh người khuất mặt hay đi xa. Ngôi nhà cổ âm thầm với bảy người con gái luống tuổi – ba người trên ba mươi – chỉ còn có Kim mà họ đặt tất cả hy vọng vì nàng là đứa em gái út, có chút ít học thức. Họ chuyên về những khoa tiểu xảo: làm bánh, khâu may, thêu thùa, công việc vừa giết thời giờ vừa sanh lợi. Những buổi tiệc, những món bánh biếu xén, những cặp gối cưới thêu công phu, rối rắm trong khắp tỉnh do sáu bà chị của Kim đảm nhận. Họ nổi tiếng vừa khéo léo vừa nét na, nhưng những đức tính của họ cũng bị một vài kẻ xấu miệng tìm cách làm giảm bớt đi. Họ phải mang tiếng là vô duyên nên không có chàng trai nào thèm đến coi mắt. Nhiều người ác miệng thì thầm là nhà bà Phán thiếu âm đức. Các cô con gái yêu người nào là chết người nấy. Số họ là số sát phu. Tiếng dữ đồn xa. Vì kiêng cử nên không ai dại dột đem con trai mình nhào vô chỗ chết

Chị Bảy rủ:

– Hai em theo chị lên thăm Kim không?

Oanh mừng rỡ:

– Chị cho tụi em đi với. Lâu quá chẳng gặp nhớ nó lắm.

Chị Bảy cột ghe vào nhà thủy tạ trong khi bọn tôi chạy ù vào nhà thay quần áo. Làng Long Thành cách nhà tôi tới sáu cây số, có thể đi bằng đường bộ hoặc đường thủy.

Oanh mặc chiếc áo lụa màu trứng gà, tôi mặc một bộ cachemire tơ đen. Mỗi đứa xách theo một chiếc nón bài thơ.

Chúng tôi lần lượt xuống ghe. Oanh dành chiếc dầm bơi mũi. Tôi ngồi trong khoang. Chiếc ghe bung khỏi bến vừa lúc chiếc xuồng bánh ướt bơi tới. Oanh ngoắc lại. Chiếc xuồng ba lá cập theo ghe chờ chúng tôi ăn xong dĩa bánh ướt rồi mới tách ra. Những chiếc xuồng bán hàng rong thường tấp theo những chiếc ghe chài hoặc ghe thương hồ buôn bán. Họ có thể thả theo người mua cho tới khi nào khách ăn quà no nê rồi mới quay lại theo hướng họ định đi.

Màu trắng ngần của bánh, màu xanh của rau xắt ghém lẫn màu đỏ tươi của ớt và trên hết là lớp bì trộn thính vàng thơm phức.

Bà hàng bánh ướt sau khi nhúng những cái dĩa thực khách vừa ăn xong xuống nước rửa và úp lên rổ, rồi cất tiếng rao lanh lảnh ngân dài trên sông vừa tan lớp sa mù buổi sáng. Ánh nắng bắt đầu le lói trên mặt sông.

Oanh gia công bơi phụ thắng bé chèo lái. Nàng có vẻ thích thú nhúng mái dầm xuống dòng nước phù sa màu nâu nhạt.

Chị Bảy vuốt lưng tôi:

– Kim nhắc em luôn. Từ ngày đi dạy, sao em không đến thăm chị?

Tôi cười:

– Em bận lắm. Mới được rảnh rỗi mấy hôm nay. Vả lại em không còn cảm thấy vui thú khi bạn bè mỗi đứa một nơi. Có đứa nầy thì vắng đứa khác. Cái vui hình như gượng gạo, sứt mẻ ít nhiều.

Tôi lại tiếp:

– Sau ngày được phóng thích thì Kim làm gì?

– Nó đã vào làm thư ký hành chánh mấy tháng nay. Khỏi phải tù là phuớc lớn đó em.

Tôi ngồi sát chị Bảy hơn, hạ thấp giọng:

– Kim có bị đánh đập nhiều không chị?

Chị Bảy đáp khẽ:

– Vì bị đánh nhiều nên sau khi được thả, nó bịnh dữ quá. Vừa mời đỡ đỡ thì nó được chú chị đưa đi làm ở tòa bố.

Với nét mặt kém vui, chị Bảy kể:

– Sau khi bình phục, nó ngỏ ý đi tu trong nhà kín nhưng các chị khuyên cho nó biết rằng đi tu vì thất vọng sẽ không bền. Vả lại, một khi tu nhà kín thì phải giỏi chịu khổ hạnh. Thấy các chị buồn bực và bác gái khóc lóc, nó lại thôi. Nhưng tánh tình nó bây giờ thay đổi nhiều. Nó sống có vẻ kỳ lạ lắm. Bên ngoài nó không lộ vẻ buồn thảm. Nó lại nói nhiều nhưng không nói với người khác mà là……

Chị Bảy ngập ngừng giây lát, nước mắt chảy ròng ròng. Giọng chị hình như đổi khác:

– Kim chơi với búp bê suốt những ngày ở nhà. Nó đóng kín cửa buồng và ru con búp bê lớn bằng đứa con nít cỡ mười hai tháng mới vừa gởi mua bên Pháp. Hết ru hát nghêu ngao, nó lại đem búp bê ra tắm rửa, rồi bồng ẳm nựng nịu y như một bà mẹ có con thật. Hồi mới đầu, chị tưởng nó khật khùng nên mới nhờ bác sĩ khám thì ông cho biết là thần kinh nó vẫn bình thường. Khi chị hỏi nó có điều gì trắc ẩn hay không, nó chỉ cười lắc đầu và trả lời là nó vẫn mạnh giỏi, bình thường bằng cớ là nó vẫn đi làm việc được. Thỉnh thoảng nó nhắc em và hỏi thăm chị có gặp em ở đâu không? Hôm nay em tới thăm bất ngờ như vầy, chắc nó mừng lắm.

Bỗng nhiên, nét mặt đau buồn của Kim lúc xảy ra tai nạn ở nhà anh em Hải và đôi mắt thất thần của nàng lúc leo lên xe công an chiếu qua ký ức tôi lẹ đến nỗi tôi choáng váng. Tôi có đến thăm Kim một lần trước khi nàng được thả vài ba hôm. Tôi cũng đã theo bà chị cả nàng đến nuôi những bạn bè tình nghi bị giam trong một gian nhà hôi hám, thiếu ánh sáng.

Từ ngày Kim được thả, tôi không tới thăm mãi đến hôm nay. Không biết có phải công việc hàng ngày làm tôi quên nàng hay tôi chỉ sợ vớ vẩn theo lời dặn của Kim? Lúc sau nầy tôi sống mù mờ, lười biếng. Tháng ngày uể oải trôi qua. Tôi sống theo thói quen rỗng tuếch.

Chị Bảy nhìn tôi ngọt ngào, thành khẩn:

– Em rán khuyên lơn Kim giùm chị, đừng để nó làm những chuyện kỳ cục khó hiểu như vậy nữa. Cả nhà sợ lắm. Chị chắc bạn bè khuyên lơn có mòi hiệu lực hơn.

Tôi gật đầu. Chiếc ghe lủi vào con lạch nhỏ, hai bên trồng dừa nước. Lá dừa quét lên mui ghe sồn sột. Oanh vẹt lá, tránh né. Tôi vụt nhớ lại những ngày chạy loạn vào năm 45. Chúng tôi chun trốn và những xẻo lá dừa nước dầy đặc khi trống mõ làng bên báo tin Tây đến ruồng bố. Hàng hàng lớp lớp xuống ghe chèo bơi hết tốc lực trên những con lạch hẹp, dừa nước mọc lan y như con lạch nầy. Tiếng mái dầm lẫn tiếng sột sột của những con thuyền vẹt lá hòa lẫn tiếng trống thúc giục làm bao nhiêu con tim phập phồng lo sợ. Nỗi chết chóc đe dọa từ trên lộ, dưới sông lẫn trên trời. Cái loạn khủng bố «gọng kềm» đó xảy ra như cơm bữa. Người lớn bơi xuồng trối chết, bầy trẻ con vui thú khi chiếc xuồng hay ghe của mình vượt qua khỏi ghe của mấy đứa bạn. Chúng tôi reo hò, thêm sức cho những người chèo. Để đáp lại sự vô tư nghịch ngợm đó, mỗi đứa được người lớn mắng vài ba câu bay bị tát vào mông ít cái.

Chiếc ghe bỏ lòi tói quanh gốc bưởi cuối con xẽo. Con rạch cụt nầy có che lá phía trên giống như cái ga-ra cho chiếc ghe hầm. Ở tỉnh lẻ, những nhà khá giả mới sắm loại ghe nầy dùng để đi dạo mát trên sông.

Oanh nhảy lên bờ chờ tôi, còn chị Bảy đi thẳng vào nhà. Oanh và tôi đi song song nhau, yên lặng. Chúng tôi khi vừa vào phòng khách thì tiếng ru em văng vẳng đâu đây. Chị Bảy mời hai đứa tôi ngồi trên ghế trường kỷ. Sau đó, lời hát ru em được thay bằng mấy bài thơ tiền chiến lãng mạn, buồn mênh mông. Rõ là tiếng Kim trong căn buồng gói. Chị Bảy lắc đầu phân trần:

– Đó, hai em thấy rầu chưa? Ai qua đây cũng tưởng nhà nầy có con nít chưa đầy tuổi tôi.

Tôi khoát tay ra hiệu cho chị Bảy đừng lên tiếng có bọn tôi tới đây. Tôi ngả lưng trên thành ghế, lắng nghe những câu thơ đại khái gởi tâm sự cho người đi xa, và kêu cầu người đừng quên lời hẹn cũ. Tôi nhìn qua cườm tay Oanh, gai ốc nàng vụt hiện lên, và đôi mày nàng nhíu lại.

Oanh nói khẽ:

– Không bao lâu xa nhau mà Kim có cuộc sống kỳ hoặc quá.

Tôi bước đến cửa buồng lên tiếng:

– Kim ơi! Có Liễu đến thăm nè.

Tiếng hát vụt im bặt một lúc. Oanh nép người ngoài cửa buồng chờ đợi. Tiếng nựng nịu, đả đớt lại vang lên:

– Con ngủ đi nghen, má đi ra xem có khách nào tới kiếm đây. Chút nữa má vô. Ngoan má cưng, lát nữa má tắm rửa thay quần áo đẹp cho.

Oanh và tôi nhìn nhau, kinh ngạc. Cánh cửa buồng hé mở. Kim thò đầu ra, nhìn chúng tôi một lúc ngỡ ngàng như gặp người lạ. Vụt nàng ôm chầm lấy chúng tôi, kêu lên mừng rỡ. Tôi theo nàng vào căn phòng. Vẫn màu tím chiếm hết các vật dụng. Trong chiếc nôi xinh xắn, con búp-bê mặc áo tím than viền ren trắng nằm nhắm mắt.

Kim kéo tôi lại và bồng nó lên:

– Có hai dì đến thăm bé Hiền đây.

Nàng ôm nó vào lòng, áp má mình vào má nó. Hai tròng mắt búp-bê xanh như mắt mèo hoang, mở rộng nhìn tôi. Oanh níu tay tôi làm tôi suýt la.

Tôi đưa tay đỡ con búp-bê, khen:

– Bé Hiền của mầy xinh lắm, nó giống…

Kim tiếp lời:

–..ba Huấn nó ghê lắm hén?

Giọng nàng tự nhiên, không đùa cợt làm Oanh sợ hãi. Kim níu vai Oanh ngồi xuống chiếc giường, vuốt lưng nàng hỏi:

– Mầy có vẻ sợ tao hả?

Oanh hơi hoàn hồn, chống chế:

– Lâu mới gặp mầy, thấy mầy có vài điều đổi khác nên tao ngạc nhiên.

Câu chuyện dần dần đưa chúng tôi ra khỏi kinh ngạc, sửng sốt. Oanh đi ra nhà sau xem các chị của Kim làm bếp. Nàng bị cuốn hút vào những món tiểu xảo tinh vi qua các món xưa. Các bà chị Kim có vẻ hài lòng khi thấy bạn đến chơi và họ ước mong bọn tôi kéo được Kim ra khỏi cơn đồng thiếp kỳ hoặc.

Kim đưa tôi đi khắp gian nhà, giải thích sự liên hệ các tấm chân dung phóng đại trên các bàn thờ ở trung đường. Nàng dắt tôi ra chiếc đu bên hè. Hai đứa tôi ngồi dưới một gốc cây nhãn dầy lá. Kim vừa xích đu, vừa cười vui vẻ. Ít khi tôi bắt gặp nàng vui tươi như vậy kể từ ngày còn học Đệ Thất với nàng. Từ một cô con gái trầm lặng, nàng trở thành náo nhiệt, nói nhiều, thích pha trò.

Tôi vịn vai nàng:

– Tao cứ ngỡ một cô bạn nào khác, chớ không phải là mầy.

Bất chợt mặt Kim bùi ngùi, nhưng đôi môi nàng vẫn cười toe toét. Tôi dịu giọng:

– Mầy mất bình thường như vầy ắt làm cho người thân thích ruột rà khổ tâm.

Kim ngồi yên lặng. Tôi nói cho nàng biết ý muốn của chị Bảy. Kim ôm vai tôi:

– Tao hiểu lắm, nhưng tao đã mất một điều quý nhất và tao thay nó bằng hình ảnh con búp-bê chỉ có biết nhắm mắt khi nằm và mở mắt trừng trừng lúc bồng đứng,

Nàng cầm bàn tay tôi trở qua trở lại nhiều lần. Tôi hỏi nàng:

– Mầy còn muốn cậy tao giúp việc gì không?

– Hết cả rồi, Liễu!

Tôi hỏi gặn:

– Có tin gì về Huấn không?

Kim bỗng khóc ngất, Tôi hốt hoảng:

– Gì vậy Kim?

Kim mím môi. Hai giọt nước mắt của nàng rớt xuống cườm tay tôi nóng hâm hấp.

– Tao bị bắt và bị đánh đến sẩy thai, mầy à.

Tôi nhìn nàng sửng sốt. Kim hạ thấp giọng:

– Mầy ngạc nhiên hả? Mầy còn nhớ cái đêm tao và anh Huấn chia tay nhau không?

Tôi gật đầu. Kim tiếp:

– Tao có linh cảm Huấn sẽ không bao giờ trở lại nữa. Lúc đó tao tha thiết muốn giữ lại hình ảnh Huấn bằng cách có một đứa con với ảnh. Ý định nầy không phải chỉ đêm đó mới có, mà tao đã nghĩ nhiều lúc Huấn bị tình nghi và trốn tránh lưới công an, mật vụ. Tao dư biết hậu quả của việc mình làm. Tao có ý định rõ ràng và đã trả giá rất mắc. Tao chẳng cần gì cả. Tử tế, nết hạnh cho lắm cũng còn bị người ta dèm siểm. Tao đã mất trinh rồi, Huấn đã cho tao thấy thế nào là tình yêu và sự bất hạnh cũ của tao được san bằng. Tao đã có mang sau đêm ở tại nhà mầy. Tao mừng đến chảy nước mắt. Tao đã nguyền sống nhẫn nhục nuôi con. Nhưng sau nửa tháng bị tù tội, tra khảo, tao mất luôn đứa con của Huấn.

Kim rống lên khóc. Tôi nắm chặt tay nàng siết mạnh, lòng chùng xuống. Tự nhiên tôi ứa nước mắt.

Kim thổn thức:

– Rồi đó, thú thật tao không thể kiềm soát được mình nữa. Tao thèm có một đứa con để cho ngày tháng bớt dài. Mầy cũng dư biết ai ai đều nói tao khùng, nhưng làm sao họ hiểu được tao? Tao muốn đẻ, nhưng không thích lấy người đàn ông nào ngoài Huấn cả.

Kim chỉ vào con búp bê:

– Tao tưng tiu vật nầy và đặt vào nó một linh hồn, một tình cảm để quấn quít, để quên, để sống hạnh phúc trong ảo tưởng… Như vậy đó.

Kim nói không vấp váp và chấm dứt câu chuyện bằng cách xớt con búp-bê trên tay tôi, ôm vào lòng, ru khe khẽ những bài hát, những bài thơ tiền chiến.

Tôi nghẹn ngào khó chịu. Mãi một lúc, tôi rủ Kim:

– Hai bữa nữa, tao rước mầy xuống nhà Đức cầu cơ. Mầy hứa đi chơi với tao một lần. Tao sẽ bỏ tỉnh nầy và lâu lắm tao mới trở lại.

Thấy Kim do dự, tôi tấn công

– Hứa đi, mầy vị tình tao một lần, đi chơi rong để tìm lại không khí vui tươi của tuổi học trò. Bao giờ tao buồn bực, chán nản thất vọng, tao thường tìm bọn con Đức, thằng Quan, thằng Tín. Tuy cuộc vui có gượng gạo, tẻ ngắt nhưng có còn hơn không, phải không Kim?

Kim cười buồn:

– Ừ thì đi. Thử thay đổi không khí từ tòa hành chánh về đây coi ra thể nào?

Tôi nhìn ra sân, bóng nắng đọng trên những chậu hoa hường lẫn hoa thược dược.

Kim đưa ngón tay xoắn một nhánh tóc buông dài, nàng tiễn chân Oanh và tôi ra tận đường cái để đón xe. Tôi đi song song với nàng trên bờ đê, dưới cơn nắng trắng xóa. Gió lộng làm ruộng lúa gợn sóng. Oanh lục đục theo sau, gọi ơi ới. Kim ngoảnh lại đưa tay vẫy. Kim và tôi dừng lại ở cuối bờ đê nối liền đường lộ chính dưới bóng mát một cây gừa.

Oanh đến sau lưng chúng tôi cự nự:

– Hai đứa bây đi mau làm tao theo muốn hụt hơi.

Tôi nhiếc:

– Sao không rán ở lại tom góp bánh trái của chị Bảy?

Chiếc xe đò ọp ẹp dừng lại. Tôi bước lên phía sau. Oanh khệ nệ xách một giỏ trái cây lẫn bánh mứt leo lên phía trước. Chiếc xe hì hục, gào thét một lúc mới chịu chạy.

Tôi thò đầu cười và đưa tay vẫy. Chiếc xe khuất vào khúc quanh thành phố. Tôi chỉ còn thấy Kim dần dần nhỏ bằng một đốm tím giữa ruộng lúa xanh mênh mông.