Chương 17 Trung Hoa Dân quốc
Năm 1914, năm Dân quốc thứ ba, sau Tết Nguyên Đán, vừa ra khỏi bài phường đá của Tây lăng, Tần Bắc Dương liền cắt luôn đuôi sam sau gáyĐến cửa Vĩnh Định Bắc Kinh, Tần Hải Quan bị người ta túm đuôi sam cắt. Dao này khiến lão Tần đau lòng không thôi, lão còn gói đuôi sam trong túi lụa, nói muốn chôn bên cạnh mộ tổ. Con trai lão cười giễu: “Ba trăm năm trước, triều Minh diệt vong, triều Thanh nhập quan. Nếu tổ tiên nhà ta cũng có sự trung thành này của cha, “Giữ đầu không giữ tóc, giữ tóc không giữ đầu” này thì ngày nay cũng không có hai cha con ta rồi” Cờ Hoàng long trên thành sớm đã bị đổi thành cờ ngũ sắc đỏ, vàng, lam, trắng, đen. Quốc ca cũng đổi từ “Củng kim cô” của Đại Thanh thành “Trung Hoa hùng lập trong vũ trụ”. “Trung Hoa oai hùng đứng giữa vũ trụ, Vươn ra bát phương, Dân tộc Hoa đến từ đỉnh Côn Lôn, Những ngọn núi khắp nơi nối liền, Năm dân tộc cộng hòa cùng tạo nên thời phát triển, Hàng tỷ năm.” Làng thủ công bên ngoài Hoàng thành không còn tồn tại nữa. Tần Hải Quan không còn là thợ thủ công gia truyền ăn bổng lộc của triều đình. Lão moi vò gốm chôn dưới đất, bên trong giấu sách cổ và gia phả gia tộc, chất lên xe kéo đến khu dân nghèo ở Tây Giao, Kinh thành. Đây vốn là thôn Lạc Đà, chuyên cung cấp lạc đà cho các lái buôn trong ngoài. Năm đó Liên quân tám nước tới, bách tính trong thành tháo chạy ra đây trú ngụ. Tần Bắc Dương mở cửa sổ là có thể nhìn thấy đỉnh dãy Tây Sơn phía xa, đây là bình phong che chắn cho kinh thành, đánh từ đèo Hồn của cầu Thanh Long, vòng qua tam sơn ngũ viện – Hương Sơn, Ngọc Tuyền Sơn, Vạn Thọ Sơn; Viên Minh Viên, Sướng Xuân Viên, Di Hòa Viên, Tịnh Minh Viên, Tịnh Nghi Viên. Tần Bắc Dương đã mười bốn tuổi, không còn là một cậu bé nữa. Cậu sắp cao hơn cả cha, râu cũng lún phún trên mép như mầm hẹ ngày xuân. Cậu vào thành tìm A U, bốn năm rưỡi qua cậu vẫn không hề quên người em gái đó. Đến cạnh Cung Vương phủ, phủ đệ của Giám sát lăng mộ, cậu bị người gác cửa đuổi ra. Cậu hỏi thăm được tin tức của A U, đúng là cô bé đang làm tỳ nữ. Nhưng quy định phủ đệ nghiêm ngặt, cấm qua lại với người ngoài. Giám sát lăng mộ là người Bát Kỳ, họ Qua Nhĩ Giai, một trong tám họ lớn ở Mãn Châu. Tổ tiên thoát ly khỏi mấy chức Phong cương đại lại (1) tiếng tăm lừng lẫy, nhờ chút dư âm nổi tiếng của dòng họ mới có thể lấy được chân Giám sát lăng mộ béo bở này, kiếm được nhiều tiền vô cùng. Tần Bắc Dương không hiểu, triều Thanh diệt vong rồi, sao đám vương công quý tộc này vẫn sống những ngày tháng giàu có như vậy? Đi dạo một mình dọc con sông hộ thành trong Tử Cấm Thành, cậu thiếu niên nhìn về thế giới đằng sau bức tường Hoàng cung, tiểu Hoàng đế Tuyên Thống (Phổ Nghi) vẫn ở trong đó. Trên trời vang lên tiếng bồ câu kêu, nước mắt bỗng nhiên rơi xuống… Tần Hải Quan giao hẹn với con trai, nhất định phải che giấu thân phận thợ thủ công Hoàng gia triều Thanh cũ của mình. Chữ “cũ”, lão Tần khó khăn lắm mới có thể nói ra, nhưng lão không muốn để người khác biết mình từng sửa Hoàng lăng, càng không nhắc nửa chữ tới thú trấn mộ. Từ nay về sau, họ chỉ có thể là thợ thủ công bình thường. Đá, gỗ và gạch ngói mà cha con lão Tần điêu khắc thường bị người ta chê cười là xấu xí nên khấu trừ tiền công. Tần Bắc Dương vì thế mà đánh nhau với người ta, bị cha khuyên bảo mấy lượt đừng gây chuyện thị phi. Phải hiểu rằng, thẩm mỹ từ triều Thanh tới Dân quốc tôn sùng sự phức tạp, chân thật. Như người Ấn Độ thích những loại hoa to màu xanh màu đỏ, hay như trong Cố Cung Đài Bắc thích thịt mỡ và bắp cải. Tay nghề của gia tộc họ Tần kế thừa thẩm mỹ cổ điển từ triều Đường, duy trì sự tối giản của triều Tống, thanh cao của triều Minh, như gốm Nhữ Diêu (2) và dụng cụ gia đình kiểu Minh, nhưng lại bị người phàm tục chê là nhạt nhẽo, vô vị. Mùa hè năm nay, Tần Bắc Dương đọc được tin trên báo rằng tại Sarajevo trên bán đảo Balkan, một thanh niên người Bosnia tên Gavrilo Princip đã ám sát Thái tử Franz Ferdinand của đế quốc Áo – Hung. Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ giữa hai phe, Liên minh Đức – Áo và Hiệp Ước Anh – Pháp – Nga. Một đầu đạn của Sarajevo giết chết ba trăm triệu người. Chính quyền Viên Thế Khải vẫn giữ thái độ trung lập, Trung Quốc trở thành chiến trường. Quân Nhật đổ bộ vào bán đảo Sơn Đông, sau trận huyết chiến đã chiếm Thanh Đảo – thuộc địa của Đức. Năm 1915, tiết Tiểu Tuyết, Tần Bắc Dương tròn mười lăm tuổi. Cậu ở trong thôn Lạc Đà nhìn ra Hương Sơn đằng xa, tháng hai sương lá đỏ hơn hoa (3) phủ đầy dãy núi. Nửa tháng sau, Tần Bắc Dương lặng lẽ vào thành, lại tới phủ của Qua Nhĩ Giai – Giám sát lăng mộ. Cậu muốn thử xem có nhìn thấy A U không nhưng đến cửa đã thấy cửa dán giấy niêm phong, cả tòa nhà vườn không nhà trống. Cậu đi hỏi thăm hàng xóm láng giềng mới biết đã xảy ra chuyện lớn – tháng trước, chủ nhân phủ đệ bị một tì nữ nhỏ tuổi dùng kéo đâm chết. Tần Bắc Dương chạy tới Pháp viện ở Bắc Kinh – vốn là nha môn triều Thanh cũ, sau khi thành lập Dân quốc, Hành chính và Tư pháp chia tách biệt nên mới có Pháp viện độc lập. Vừa đúng lúc tại đó mở án Qua Nhĩ Giai, cho phép mọi người đến nghe. Tần Bắc Dương nộp chút tiền rồi được ngồi vào ghế dự thính. Vụ án này rất ầm ĩ, người ngồi chật kín căn phòng tối om. Quan tòa mặc áo đen xử án, đầu tiên cho áp giải người bị tình nghi lên. Quả nhiên là A U, cô cao hơn nhiều so với sáu năm trước, da dẻ nhợt nhạt hơn, vẻ mặt còn trẻ con nhưng cơ thể đã có dấu hiệu phổng phao. Đầu tiên, quan tòa hỏi họ tên người bị tình nghi, giọng A U bé tí như muỗi kêu: Cô nói không biết mình họ gì, chỉ biết tên là A U. “U nào?” “U trong u linh” Nghe thấy câu trả lời này, Tần Bắc Dương cảm thấy ấm áp. Chữ “U” này là do cậu đặt. Quan tòa lại thẩm vấn A U đã ở phủ của Qua Nhĩ Giai bao lâu rồi? Bình thường làm gì? Cô bé rụt rè nói, sáu năm trước mình bị bắt đến phủ đệ. Danh nghĩa là làm tì nữ nhưng thực ra bị nhốt dướt mật thất tối om mà lớn lên. Trong mật thất còn những cô bé khác, đa phần đều là mua được từ bọn buôn người. Những cô bé đủ mười hai tuổi, sau khi đến nguyệt sự đều bị đưa vào phòng ngủ của chủ nhân, sau đó không gặp lại nữa. Tần Bắc Dương ngồi ở ghế dự thính bên cạnh khóe mắt đỏ hoe. Nhớ tới lời hứa của tên Giám sát lăng mộ năm đó, mình đã bị hắn lừa rồi, thật sự muốn quật mộ của hắn lên! Quan toàn cũng thấy A U đáng thương, không hỏi tiếp. Ông quay sang hỏi quan thư ký: “Thân nhân người bị hại sao giờ vẫn chưa tới?” “Người bị hại không có con cái, anh chị em cũng chết cả, vợ chết sớm, mấy thị thiếp cũng từ Bát Đại Hồ Đồng ra. Bọn họ ai nấy về nghề cũ, thậm chí còn tham gia chủ trương “Kỹ nữ thỉnh nguyện đoàn” (4) của Viên Thế Khải” “Nhưng do trước kia thông hôn Mãn Mông, người bị hại có một người bà con chính là Quận vương Ngạc Nhĩ Đa Tư Đa Lạc Mông Cổ. Quận vương phái một Vương tử từ Khẩu Bắc tới kinh, một là để tiếp quản di sản, hai là đến nghe xét xử của Pháp đình” Bên ngoài Pháp đình toàn tiếng lạc đà, mọi người cùng ngó nhìn. Tiểu Quận vương khoảng mười sáu tuổi, đi cửa chính vào pháp đình. Cậu ta mặc trường bào Mông Cổ, khoác áo da gấu trùm ngoài, đội mũ lông, trước ngực đeo chuỗi hạt châu do Hoàng thất triều Thanh cũ ngự ban. Thôn Lạc Đà Kinh Tây thường có đội lạc đà tới từ Sát Cáp Nhĩ, Nhiệt Hà. Tần Bắc Dương cũng rõ những đặc trưng của người Mông Cổ. Tiểu Quận vương này mang đúng tiêu chuẩn người Bắc tướng Nam, môi đỏ da trắng, khuôn mặt thanh tú, mắt hạnh, nhìn như một tiểu sinh người Hán. Tiểu Quận vương nhỏ tuổi nhưng tư thế đi đường rất oai hùng, tựa như vẫn đang bắn tên trên lưng ngựa. Toà án bị cậu ta đem theo bụi đất và một chút gió lạnh phương Bắc vào. Cậu ta cúi người hành lễ với quan tòa, ngồi ở vị trí thuộc gia quyến người bị hại, mang theo phong phạm vương giả. Quan tòa gọi nhân chứng lên, chính là thám trưởng xử lí vụ án này – Diệp Khắc Nan thuộc phòng cảnh sát Bắc Kinh. Nghe tới tên này, Tần Bắc Dương lập tức lấy lại tinh thần. Xa cách sáu năm, Thám trưởng đã tròn ba mươi tuổi, vẫn ăn mặc phong cách Sở Cảnh sát Nhật, chỉ thêm chòm ria mép. Diệp Khắc Nan cởi mũ đồng phục cảnh sát xuống, kể lại tường tận tình hình vụ án trên ghế nhân chứng. Người bị hại có mưu đồ cưỡng hiếp A U, không biết cô bé tính cách trời sinh mạnh mẽ, cầm kéo tự vệ, chẳng may đâm trúng động mạch ở gáy người bị hại, dẫn đến cái chết. Không cần miệng lưỡi sắc bén, Diệp Khắp Nan trình chứng cứ phía cảnh sát điều tra được, chứng minh người bị hại luôn làm chuyện xấu. Dùng cách nói của thế kỷ sau, kẻ này bắt bé gái nhỏ tuổi để ấu dâm, tàn sát không biết bao nhiêu đứa trẻ. Cũng do quan lại bao che nên không giải quyết được. Phía ghế dự thính xôn xao cả lên. Quan tòa hỏi ý kiến thân nhân người bị hại, tiểu Quận vương xua tay, dùng giọng Bắc Kinh nói rõ ràng: “Quan tòa đại nhân, ngài đừng hỏi tôi! Nên xử thế nào thì xử thế ấy!” Kinh đường mộc đập xuống, quan tòa tuyên án ở Pháp đình, A U vì bảo vệ trinh tiết mà giết chủ. Niệm tình còn nhỏ, tính tình cương liệt, người bị hại xấu xa rõ ràng, tai nạn không đáng xử tội, lập tức được thả. Tần Bắc Dương vừa định vỗ tay gọi A U, tiểu Quận vương liền đưa ra thỉnh cầu với Pháp đình: “Quan tòa đại nhân. A U dù giết chủ nhưng vẫn có khế ước với chủ nhân, cũng thuộc phạm vi quản lí gia sản tôi phải tiếp quản. Xin cho phép tôi đưa cô ta đi” “Điện hạ có thể đảm bảo sự an toàn của cô ta chứ?” Tiểu Quận vương lập tức cầm giấy bút điểm chỉ: “Tôi đảm bảo” Thời Dân quốc, chế độ người phụ thuộc bị hủy bỏ, người hầu không thể coi là tài sản thừa kế được. Nhưng Quận vương Ngạc Nhĩ Đa Tư có quyền có thế, vì phản đối ngoại Mông Cổ độc lập, là tâm phúc trong mắt của đương kim đại Tổng thống. Hơn nữa, phán quyết vừa rồi của Pháp đình đã làm cho người bị hại thân bại danh liệt, bây cũng chỉ là thuận theo tình người, chấp nhận thỉnh cầu. Cửa toàn án có một đội lạc đà rất lớn. Tiểu Quận vương dìu A U lên lạc đà cũng là lúc Tần Bắc Dương lao lên nói: “A U! Là anh này!” Cô bé quay phắt đầu lại. Đầu tiên, cô không nhận ra Tần Bắc Dương. Dù sao cậu đã trở thành thiếu niên có khí thế, không còn là cậu nhóc chín tuổi trước kia. “Em còn nhớ đêm đó trong địa cung? Anh đã cứu em thoát khỏi tay lão thái giám đó không?” “Anh!” Lúc này A U mới nhận ra cậu, mắt đỏ hoe, nước mắt lã chã rơi xuống. Hai võ sĩ Mông Cổ chặn Tần Bắc Dương lại, không cho cậu xông tới trước mặt A U. “Cậu là anh trai cô ta sao? Có chứng cứ, hộ tịch làm căn cứ không?” Tiểu Quận vương gạt vài người hầu đem dao theo ra, đơn độc đối diện với Tần Bắc Dương. Mấy trăm dân chúng vây xem kịch hay, e là có người phải đổ máu. Tuổi tác và chiều cao hai người tương đương nhau, Tần Bắc Dương rách rưới, mặc áo bông vải thô, quần vá chằng chịt. Nhìn lại tiểu Quận vương, khoác áo lông chồn, xiêm y đẹp đẽ, châu báu lấp lánh, tựa như “Xem hoa cho hết trọn ngày Trường An” (5). Tần Bắc Dương không luống cuống, không kiêu ngạo, ôm quyền: “Tiểu Quận vương điện hạ, tôi là anh kết nghĩa của A U. Năm đó tôi cứu mạng cô ấy từ Tây lăng, cô ấy mới bị đưa tới phủ đệ của Qua Nhĩ Giai” “Thì ra ngươi cũng quen cậu họ của ta?” “Tên khốn kiếp tham hối lộ, làm trái pháp luật đó, chết không hết tội!” “Ha ha! Mắng hay lắm! Cậu họ này của ta… vô cùng mất mặt! Nhưng mà theo quy định của tổ tiên, cô nương này là người của nhà ta. Nếu ngươi đưa đi đồng nghĩa với việc tát ta một bạt tai, cũng tát cả Quận vương Ngạc Nhĩ Đa Tư Đa La cha ta một bạt tai” “Vậy thì mời hãy bước qua xác ta đã” Tần Bắc Dương triển khai tư thế quyền cước. Bốn năm trong lăng mộ địa cung, cha đã dạy cậu mấy thế võ phòng thân. Để chế tạo và khống chế thú trấn mộ, cậu đã học được thế nào là luyện khí. Tuổi còn nhỏ mà cậu đã luyện tập tới mức mình đồng da sắt, ngực và cánh tay toàn là cơ bắp rắn chắc, mấy năm nay đánh nhau chưa thua lần nào. “Được! Theo quy định ở Mông Cổ chúng ta, ai ngã trước coi như thua! Nếu ta thua ngươi có thể đưa nha đầu này đi” “Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy” Tần Bắc Dương tràn đầy tự tin, cậu thường đánh nhau với lũ trẻ Mông Cổ ở thôn Lạc Đà, dù ngã cũng không thất thế. Hai cậu thiếu niên cởi áo, để trần nửa thân trên. Tần Bắc Dương khí thế bừng bừng không cảm thấy lạnh chút nào, nhưng cũng để lộ ra miếng huyết học ấm trước ngực và hai vết bớt sừng hươu sau gáy. Trong nhà tiểu Quận vương có ngọc Hòa Điền và Miến Điện, cũng biết viên ngọc trước ngực Tần Bắc Dương là huyết ngọc hiếm có. Cậu ta thầm nghĩ: một đứa trẻ nghèo có thể đeo một viên huyết ngọc hiếm có thế này sao? Tháng Mười hai, gió cát thổi rát như dao cắt. Trước cửa Pháp đình Bắc Kinh, hai thiếu niên quyết chiến vì một bé gái. Khi tiểu Quận vương Đa La còn đang sửng sốt, Tần Bắc Dương chủ động giơ cánh tay trần tấn công như hổ đói vồ mồi. Tiểu Quận vương nhẹ nhàng né được, đồng thời quét chân đạp trúng mặt ngoài bắp chân Tần Bắc Dương. “Anh, cẩn thận!” A U đứng cạnh lạc đà hét lên. Thân dưới của Tần Bắc Dương rất vững chắc, chỉ quỳ một chân dưới đất. Nếu là người thường chỉ sợ đã gãy xương rồi. Hai người bắt đầu lao vào giao chiến, một người dùng kỹ thuật của Mông Cổ, một người dùng ngoại gia quyền (6), chẳng ai hơn ai. Sau lưng Tần Bắc Dương đầm đìa máu tươi, mặt của tiểu Quận vương cũng thâm tím. Cuối cùng, Tần Bắc Dương bị trật chân té ngã từ mé bên. Cú ngã này khiến mặt mũi Tần Bắc Dương sưng húp, cậu đấm tay xuống đất, chỉ có thể nhận thua. Đám người hầu bên cạnh rút dao định chém Tần Bắc Dương lại bị tiểu Quận vương ngăn cản: “Muốn làm gì? Có thấy mất mặt không hả?” Tiểu Quận vương đau nhức khắp mình mẩy, mặc quần áo, đỡ A U lên lưng lạc đà. Cậu ta chưa bao giờ gặp một đối thủ quật cường như thế. Cậu lau vết máu trên mặt: “Này, tên cậu là gì?” “Tần Bắc Dương” “Tên hay đấy, ta nhớ cậu rồi, Tần Bắc Dương” Tiểu Quận vương nói vọng xuống từ trên lưng lạc đà: “Ta tên là Bội Nhi Chỉ Cân – Thiếp Mộc Nhi!” Cậu thiếu niên lảo đảo bò dậy, đứng thẳng người: “Đối xử tốt với A U đó!” “Cậu yên tâm đi, sau này chắc chắn còn gặp lại!” A U quay đầu nhìn Tần Bắc Dương, nước mắt lã chã, vẫy tay từ biệt. Không biết đến năm nào tháng nào hai người mới có thể gặp lại. Cô bé ngân nga một khúc hát, khúc hát thê lương vang vọng trong Kinh thành mùa đông. “Đầu thanh long, đuôi bạch long, Em nhỏ cầu mưa trời hoan hỉ. Lúa mì, lúa mì đã khô vàng, Gọi Long vương dậy nào dậy nào. Mưa lớn mưa nhỏ, Mưa từ mùng một đến mười tám. Ma-ha-tát.” Đoàn lạc đà của tiểu Quận vương Ngạc Nhĩ Đa Tư Đa La Bội Nhi Chỉ Cân Thiếp Mộc Nhi đi ra khỏi Pháp đình Bắc Kinh, nhưng không vội vàng về thảo nguyên mà đi thẳng tới Tham chính viện Chính phủ Bắc Dương để tham gia một hội nghị quan trọng trong lịch sử Trung Quốc. Ngày 11 tháng 12 năm 1915 Dương lịch, tiểu Quận vương đại diện cho quý tộc Mông Cổ tham gia bỏ phiếu giải quyết quốc thể. Cái gọi là “Giải quyết quốc thể” chính là đổi nước Cộng hòa Trung Hoa Dân chế độ Tổng thống thành Đế quốc Trung Hoa theo chế độ Quân chủ Lập hiến. Tiểu Quận vương sớm đã biết “bỏ phiếu” chẳng qua chỉ là diễn trò, lại hát bài ngủ gật trong lúc bỏ phiếu. Toàn bộ 1993 đại diện của các tỉnh trong nước đều bỏ phiếu thông qua chế độ Quân chủLập hiến: “Chúc mừng đương kim Tổng thống Viên Thế Khải trở thành Hoàng đế của Đế quốc Trung Hoa, toàn bộ quyền lực tối cao của quốc gia trong tay Hoàng đế, nhận mệnh trời xây dựng đỉnh cao, truyền đến muôn đời” Viên Thế Khải tỏ ý từ chối. Tham chính viện tiếp tục họp, ca tụng ông ta lập sáu “công lao” lớn, kinh võ, khuông quốc, khai hóa, tĩnh nan, định loạn, giao lân (7). Đại Tổng thống trả lời: “Hưng vong của thiên hạ, ai ai cũng có trách nhiệm, với lòng yêu nước của tôi, nào biết thế hệ sau thế nào?” Vì thế, “Washington thứ hai thế giới, Washing đầu tiên của Trung Quốc”, vì cứu dân cứu nước nên đành nhậm chức Hoàng đế. Ngày 1 tháng 1 năm 1916, năm Hồng Hiến thứ nhất, thôn Lạc Đà ở Kinh Tây, lúc này mọi người còn chưa quen ăn tết Tây, bên ngoài lại là một đoàn lạc đà toàn là vương công Mông Cổ Khẩu Bắc tiến cống làm quà chúc mừng cho Hoàng đế Đế quốc Trung Hoa. Sẩm tối, Tần Bắc Dương và cha quay về sau khi làm việc ở chùa Vân Cư tại Phòng Sơn. Có một chiếc xe ngựa đỗ ở cửa thôn Lạc Đà, bên trên có một chiếc quan tài cực lớn màu đỏ, tỏa ra mùi sơn và máu lợn nồng nặc. Có một người đàn ông trung niên mặc đồ tang, đang chờ cha con nhà họ Tần. Người này tự xưng là nhà ở đại trạch bên ngoài Địa An Môn (8). Cha từng làm Thượng thư nhất phẩm triều Thanh cũ, bảy ngày trước bị bệnh qua đời, khi còn sống ông chưa kịp làm huyệt mộ, trăn trối muốn chọn được mảnh đất may mắn nghìn năm gần chùa Bích Vân Hương Sơn. Tần Hải Quan nói mai trời vừa sáng ông sẽ lên Hương Sơn tìm long huyệt nhưng nhà có tang lộ vẻ khó xử, hỏi có thể điểm huyệt khai công ngay đêm nay, trước khi gà gáy ngày mai phải hạ táng người chết. Lão Tần ngạc nhiên hỏi vì sao? Đối phương ngần ngừ hồi lâu mới nói thật: “Tiên phụ đã từng xử án Đàm Tự Đồng năm Mậu Tuất, cũng từng đích thân đến giám sát ở pháp trường cổng chợ. Từ đó về sau, ông trúng gió độc, hoặc là ngã không dậy được, hoặc là nói linh tinh, nói toàn những lời nhảm nhí về biến pháp Duy Tân. Chúng tôi mời đạo sư Mao Sơn xem, kết luận là bị oan hồn kẻ thù đeo đuổi. Nghĩ cho kỹ thì kẻ gọi là kẻ thù chắc hẳn là Lục quân tử bị cha tôi xử trảm năm Mậu Tuất. Căn bệnh này dày vò tiên phụ hơn mười năm, bảy ngày trước, ông hộc máu chết. Cứ tưởng rằng ông đã được giải thoát rồi nhưng không ngờ sau khi xác được liệm vào quan tài lại đột nhiên sống dậy!” _________ Chú thích: (1) Phong cương đại lại: chỉ chức trưởng quan cấp một của tỉnh lị. Ví dụ như tổng đốc, chịu trách nhiệm quân chính của cả một vùng. (2) Gốm Nhữ Diêu hay còn gọi là gốm “Ru”: là dòng gốm xuất phát từ cuối thời Tống, vùng Nhữ Châu (nay thuộc tỉnh Hà Nam). Gốm Nhữ Diêu là một trong ngũ đại danh diêu thời Tống. (3) Trích câu thơ trong bài Sơn Hành của tác giả Đỗ Mục. Dịch thơ Nguyễn Phước Hậu, nguồn thiviennet. (4 Kỹ nữ thỉnh nguyện đoàn: năm 1915, Viên Thế Khải khao khát ngôi vị đế vương nên thành lập một loạt thỉnh nguyện đoàn các tầng lớp thấp trong xã hội như “Ăn mày thỉnh nguyện đoàn”, “Phụ nữ thỉnh nguyện đoàn”, “Kỹ nữ thỉnh nguyện đoàn”. (5) Trích câu thơ trong bài “Đăng khoa hậu” của “Mạnh Giao”. Bản dịch của Nguyen Gia Dinh trên thiviennet. (6) Ngoại gia quyền là một phái trong võ thuật của Trung Hoa, phân biệt với “nội gia quyền”. Sau đời Thanh, người ta coi Thái Cực quyền, Hình Ý, Bát Quái, Thông Bối là các hình thức võ thuật thuộc “nội gia quyền”, còn lại là “ngoại gia quyền”. (7) Kinh võ: chỉnh đốn chính trị, chuẩn bị võ trang/ Khuông quốc: chỉnh sửa uốn nắn quốc gia/ Khai hóa: phổ cập văn hóa/ Tĩnh nan: bình định biến loạn/ Định loạn: bình định họa loạn/ Giao lân: ngoại giao với các nước lân cận. (8) Thiên An Môn ở phía nam, Địa An Môn ở phía bắc Kinh thành.