← Quay lại trang sách

Chương 20 Đế lăng Hồng Hiến

Mặt trời mọc rồiCờ ngũ sắc bay phấp phới trong gió, trên đường lớn có một nhóm người ngựa, toàn là quân Bắc Dương súng đạn sẵn sàng. Binh lính kéo cò súng, quỳ xuống ngắm bắn. Hai tên thích khách thấy tình thế không ổn liền lập tức ẩn náu vào trong tuyết. Hai cha con họ Tần không rõ địch hay bạn, dù sao còn hơn bị thích khách giết. Họ xông vào phía trước quân kì đang bay phấp phới trong gió, nói rằng mình không phải kẻ xấu, cầu xin quân đội đuổi giết thích khách. Binh lính có vẻ không tin họ lắm, dùng lưỡi lê uy hiếp hai cha con họ phải nói thật. “Tần Bắc Dương!” Giữa rừng súng và lưỡi lê, một người đàn ông khoảng đầu ba mươi, để ria mép, mặc bộ cảnh phục màu đen bước ra. Thám trưởng phòng cảnh sát Bắc Kinh – Diệp Khắc Nan. Trên lớp tuyết bên ngoài thôn Lạc Đà ở Kinh Tây, Diệp Khắc Nan nhìn dãy Hương Sơn lá vàng khô xào xạc ở phía xa. Ánh mặt trời chiếu lên gò má anh, cũng chiếu cả lên người hai cha con dính toàn máu. Anh dặn dò quân y băng bó vết thương cho Tần Hải Quan, túm chặt vai cậu thiếu niên mười sáu tuổi, hỏi chuyện gì. Tần Bắc Dương nói năng không rõ, chỉ hét lên: “Thích khách! Thích khách!” “Thích khách gì cơ?” “Án diệt môn… bọn chúng lại tới rồi… hai tên thích khách… báo thù…” Diệp Khắc Nan hiểu ra, bất giác rùng mình. Anh lập tức cho binh lính tản đội hình tìm kiếm, trợ giúp bắt tội phạm qua trọng. “Thám trưởng Diệp! Xin hãy nhận của lão Tần một lạy” Tần Hải Quan quỳ trong tuyết cảm tạ ơn cứu mạng của Diệp Khắc Nan. “Khách khí cái gì, tôi không đến đây để cứu mấy người!” Diệp Khắc Nan cau mày, đấm vào ngực Tần Bắc Dương. Anh cảm thấy tên nhóc này còn cao hơn mình. Cha con họ Tần mỗi người một câu mới kể hết chuyện “xác chết sống dậy” trong đêm tuyết, hai thích khách nhảy ra khỏi quan tài, cả đường điên cuồng chạy thoát thân. Lão Tần tìm được con ngựa bị mệt mà chết, nói phải đào mộ an táng nó, đây là con ngựa đã cứu mạng hai cha con lão. Một tiếng sau, binh lính thu quân quay về báo cáo, không phát hiện ra tung tích của thích khách, chúng cứ thế biến mất như bóng ma. Vài năm trôi qua, Diệp Khắc Nan đã trở thành trinh thám nổi tiếng xa gần kinh thành. Sự tích phá án của truyền nhân Lục Phiến Môn sớm đã được các văn nhân viết thành truyện đăng báo dài kì. Trong rất nhiều dự án mà anh từng xử lí, trừ vụ án chính trị như “án Tống Giáo Nhân” (1) ra, vụ khó hiểu mà vẫn chưa phá được chính là án diệt môn ở Tô giới Đức năm Tuyên Thống. Đương nhiên, cả Thiên Tân đều truy nã hung thủ, đường to ngõ nhỏ đều dán hình của hai thích khách nhưng vẫn không có manh mối gì. Hung khí giết người tại hiện trường để lại vẫn được cất trong két sắt của sở cảnh sát, một con dao sắc bén cán ngà voi, bên trên có khảm trai hình sao chổi. Diệp Khắc Nan mời sư phụ về dao kiếm, sư phụ điêu khắc ngà voi và sư phụ khảm trai từ đường Lưu Ly Xưởng – Bắc Kinh tới xem. Họ đều nói món đồ này được làm rất hoàn hảo, nhưng khó có thể phán đoán nó từ đâu. Tại cửa thôn Lạc Đà – Kinh Tây, Diệp Khắc Nan vốn không ôm ấp nhiều hy vọng. Hai tên thích khách đó không phải người thường, một khi đã trốn thì như nước suối nhập vào biển lớn, lá khô cuốn vào rừng. Nhưng lần này chúng không ám sát thành công cũng coi như vụ án có tiến triển. Chứng minh được hai tên thích khách vẫn còn sống, trên mặt tên thích khách trẻ tuổi quả nhiên có sẹo. Hơn nữa, chúng vẫn giỏi giang như thế, chúng có thể chạy theo xe ngựa, còn có thể nhẫn nại cả một đêm trong quan tài, tuyệt nhiên không phải người thường. Quan trọng nhất, mục tiêu của chúng chắc chắn là Tần Bắc Dương. “Thám trưởng Diệp, sao chú lại dẫn quân đến đây?” Tần Bắc Dương xông lên cắt đứt mạch suy nghĩ của anh. “Chú chỉ phụng mệnh hành sự, nhất định phải tìm được cha con cháu cũng như bảy năm trước chú tìm thấy cháu. Thông qua đại thần phủ Nội vụ triều Thanh cũ, chú nghe ngóng qua nhiều người mới tìm đến được đây” “Chẳng lẽ là…” Tần Hải Quan như đã đoán được già nửa, thoáng chốc lo âu. “Đúng, năm nay là năm Hồng Hiến đầu tiên. Trung Hoa Dân quốc đổi thành Đế quốc Trung Hoa, đại Tổng thống đổi thành đại Hoàng đế. Lịch sử các triều đại trước, Hoàng đế đăng cơ, có một việc nhất định phải làm” “Xây lăng mộ?” “Đúng thế, khắp thiên hạ này, người có thể xây lăng mộ Hoàng đế tiêu chuẩn như thời Thanh cũ chỉ có hai cha con họ Tần” Tần Bắc Dương cướp lời cha hỏi: “Đây là ý kiến dở hơi mà chú nghĩ ra à?” “Xin lỗi, đây chính là ý kiến của tiên sinh Dương Độ. Chú chỉ là một Thám trưởng nhỏ, không đáng kể tới trong thiên hạ Bắc Dương này” “Cháu không làm!” Tần Bắc Dương còn nhớ ngày tháng, “Hôm nay là ngày 2 tháng 1 năm 1916, không phải năm Quang Tự thứ mười sáu” “Xin lỗi, bảy năm trước chú đã từng nói với cháu, chú là người làm việc bẩn thỉu và mệt nhọc. Tạm biệt, bảo trọng” Diệp Khắc Nan cưới một con ngựa đen, chạy thẳng về phía Bắc Kinh, biến mất như một làn khói. Lúc này, cha con họ Tần bị quân đội bao vây lại. Có một vị quan quân lấy bức thư ủy thác, dùng danh nghĩa phủ Nội vụ của Đế quốc Trung Hoa, giao cho Tần Hải Quan làm Giám sát lăng mộ Hoàng đế cha truyền con nối, đồng thời thưởng năm trăm đồng bạc trắng. Lão Tần không kịp trở tay, chức quan béo bở từ các triều đại trước tự nhiên rơi xuống đầu, còn cả năm trăm đồng bạc trắng. Số tiền này không những đủ trả nợ mà còn có thể mua được một căn nhà lớn ở kinh thành. Quan trọng nhất là, quay về nghề cũ của gia tộc, trở thành thợ thủ công Hoàng gia tương truyền nhiều đời, lại có thể làm thú trấn mộ mới. “Cha, không phải cha động lòng rồi chứ?” “Chúng ta còn có lựa chọn sao?” Tần Hải Quan nói đúng, binh lính đã cầm súng ngắm vào họ. Một tiếng sau, cha con họ Tần rời Bắc Kinh. Họ bị áp giải đến phủ Bảo Định, cưỡi ngựa với quân đội vào núi Thái Hành, cách Tây lăng không đến mười mấy dặm. Viên Thế Khải lo rằng công khai xây lăng mộ sẽ làm cho dư luận cả nước phản đối nên quyết định bí mật xây ở nơi núi vắng bóng người. Nhưng phải tìm được long mạch, “điểm” đúng vị trí giếng vàng. Ngày nay đã không có thầy phong thủy Hoàng gia, phủ Nội vụ đề cử Tần Hải Quan có thể đảm nhiệm trọng trách này. Lão Tần vẫn chưa khỏi vết thương trên vai nói: “Tôi chỉ là thợ thủ công, hiểu cái nỗi gì?” Dù nói thế nhưng lão vẫn dẫn người ngựa vào khe núi hiểm trở. Đang lúc rét đậm, vạn vật đìu hiu, trong núi có nhiều tuyết tích tụ. Nghìn non mất bóng chim bay, muôn con đường tắt dấu giày tuyệt không(2). Chỉ có sói chưa xuất hiện nhưng liên tục kêu gào trong đêm. Tần Bắc Dương quấn chăn quân dụng, cưỡi chiến mã, cẩn thận nhìn địa thế bốn phía xung quanh, cảm thấy có hơi quen mắt. Tần Hải Quan vừa đi vừa nói với con trai: “Tầm long phải leo lên đỉnh núi, quan sát địa hình từ trên cao xuống. Trèo lên núi Thái Tổ, qua núi Thiếu Tổ, núi Phụ Mẫu. Nhìn long mạch xuất hiện và biến đổi, di chuyển, lặp lại nhiều lần, xuyên qua hẻm núi, thúc khí, gặp sông, nhập thủ. Huyệt tinh có nước và cát giao nhau sẽ là nơi âm dương giao hòa. Hóa khí rồi kết huyệt…(3)” “Không đúng, cha, cha đang nói nhảm! Đây không phải là con đường mà cha con ta đi tìm linh thạch làm thú trấn mộ cho vua Quang Tự mấy năm trước sao?” Lão Tần sa sầm: “Đúng thế, lần trước cha đã phát hiện nơi đây có long mạch, huống hồ lại có có linh thạch làm tư liệu. Rừng già sâu trong núi hoàn toàn phù hợp với yêu cầu làm lăng mộ” Họ ở trên núi Thái Hành ba ngày. Dựa vào trí nhớ siêu phàm của Tần Bắc Dương, cuối cùng cũng tìm được sơn động đó, giờ đã đóng băng, còn cả viên nham thạch cực lớn bên trong chứa linh thạch. Ngoài đó một dặm, Tần Hải Quan tìm được một sườn núi làm huyệt vị tốt nhất. Lão làm thành sách kết ấn theo phương pháp cổ, tương tự sách thẻ trúc của tổ tiên họ Tần, sau đó cầm một nắm đất đốt cùng. Tro rơi lẫn vào bùn đất và đá, còn có một vòng tuổi thần bí, là Thái cực huân (4). Quân đội đào giếng ở đây làm giếng vàng cho lăng mộ Hoàng đế Hồng Hiến. Đây là hành động bí mật, không được để dân địa phương biết. Tất cả mọi công việc lao động đều do quân đội đảm nhiệm. Họ đều là quân Bắc Dương tinh nhuệ, thời Thanh cũ gọi là Tiêu, thời Dân quốc gọi là Đoàn. Họ vốn là công binh, sở trường xây dựng công trình quân sự, trang bị các thiết bị công trình, thậm chí còn có cả máy phát điện bằng diesel. Dưới sự chỉ đạo của Tần Hải Quan, công binh đào địa cung trong tuyết theo quy chuẩn xây lăng thời Thanh. Cửa mộ thất, còn cả bảo thành, Minh lâu, điện Lăng Ân, bia đình thần đạo, thần đạo và tượng đá. Chỉ trong ba tháng, trong núi sâu đã thành công trường lớn. Tần Bắc Dương vừa xem cảnh tượng náo nhiệt vừa nghĩ, quân đội châu Âu bảo vệ Tổ quốc hoặc xâm lược nước khác, quân đội Trung Quốc phục vụ cá nhân, trở thành nô bộc cho Viên Thế Khải. Mùa xuân ấm áp, muôn hoa đua nở, tuyết trên núi tan ra, hòa vào dòng sông chảy xiết. Vết thương của cha đã lành, Tần Bắc Dương lại thấy hoang mang bất an, mí mắt giật liên tục. Sáng sớm nay, quân đội tập kết hơn một nghìn người vào khe núi lấy đá, số binh sĩ này gần như là toàn bộ lực lượng. Họ thổi quân hiệu, đánh trống, như quân đội của Napoleon thời hiện đại, chỉ có điều vai khuân các loại dụng cụ như xẻng sắt, búa, khoan đá. Đi tới một khe núi hiểm trở, sĩ quan lấy súng bắn sơn dương. Viên đạn bắn trúng đá trên đỉnh núi, thêm tiếng súng vang cùng với nhân tố tuyết tan nên xảy ra lở đá và nước lũ chảy xuống khiến cho hơn một nghìn người đàn ông bị mai táng toàn bộ. Cha con họ Tần men theo tiếng động tới nơi chỉ thấy đất đá lởm chởm, bụi mù. Hai người chỉ tìm thấy bộ quân phục nát bươm và dụng cụ như xẻng. Họ mất cả nửa ngày đào bới, phía dưới toàn là hài cốt máu thịt lẫn lộn, không thể có người sống. Để tránh cho dịch bệnh bùng phát do có quá nhiều thi thể, họ phải chôn hết lại. Tần Bắc Dương còn đốt tiền vàng, khóc lóc một phen cho những người này. Tai nạn này đã diệt toàn bộ quân chủ lực, giết hết tất cả quan quân. Mấy chục người may mắn sống sót ở doanh trại toàn là tiểu binh, ai nấy băng đèo vượt núi, đào ngũ tan tác như chim vỡ tổ, không còn một mống. Cả công trường lăng đế Hồng Hiến to lớn chỉ còn lại hai cha con họ Tần. Tần Bắc Dương cũng muốn mau chóng chạy về Bắc Kinh, nhưng lão Tần kiên quyết ở lại: “Con tưởng đi là có thể sống sao? Nói không chừng, chỉ cần con về Bắc Kinh sẽ bị bắn chết. Con phải biết rằng chúng ta còn có năm trăm đồng đại dương ở Bắc Kinh, số tiền đó không thể không nhận!” “Nhưng chúng ta không thể ở đây chờ chết!” “Không đâu, trong doanh trại quân đội còn có lương thực cho hơn một nghìn người, số lương thực và thuốc đó đủ cho chúng ta sống một thời gian dài. Con xem, còn cả vũ khí đạn dược, chúng ta có thể lên núi săn bắn mỗi ngày” “Cha, không phải cha vẫn muốn làm nghề cũ, tạo ra thú trấn mộ đấy chứ?” “Đúng thế, việc gì phải lo chuyện Hoàng đế là ai? Họ Ái Tân Giác La? Họ Chu? Hay họ Viên? Điều này có quan trọng không? Chỉ cần cho chúng ta bổng lộc và chức quan là đáng để chúng ta cố gắng làm việc, đây là tinh thần làm thợ thủ công của chúng ta! Lui một bước mà nói, tiền đã nhận rồi, chúng ta phải hoàn thành lời cam kết kể cả không có ai giám sát” “Lời hứa của quân tử đáng giá ngàn vàng?” Tần Bắc Dương ủ ê tự lẩm bẩm, “Đạo lí này không sai. Được rồi, con cũng ở lại” Tối đến, hai cha con nghe thấy tiếng sói ở các đỉnh núi xung quanh thi nhau vang lên, tiếng sói như muốn gọi mặt trăng xuống. Lão Tần bỗng cảm thấy… có phải những binh lính đào ngũ không ai chạy thoát, họ đều bị sói ăn thịt trên đường rồi không? Sáng sớm, lão và con trai cõng súng đi về phía hẻm núi xảy ra lũ quét. Đây chính là con đường mà các binh sĩ đào ngũ bắt buộc phải đi qua. Hai cha con muốn xem có ai còn sống không. “Cứu với…” Tần Bắc Dương nghe thấy từ xa, hai người đi lần theo tiếng kêu. Hai người liền bắt gặp một đàn sói hoang màu xám, cụp đuôi, chảy nước miếng, nhe răng nanh sắc bén, đang vây quanh một tiểu binh quần áo rách rưới. Xung quanh có ba cái xác, là những tiểu binh bị sói giết chết. Cổ họng bị cắn nát, ngực bị cào hở một lỗ hổng lớn, nội tạng và ruột lòi ra ngoài. Sói thích ăn tim người nhất. Tiểu binh duy nhất còn sống không có vũ khí, tuyệt vọng khua cành cây. Đám sói đó dường như no rồi, không muốn giết chết anh ta ngay nên vây anh ta lại vờn mồi. “Súc sinh đáng chết!” Lão Tần giương súng bắn trúng con sói đầu đàn khỏe nhất. Tần Bắc Dương bắn chết những con sói đực khác. Đám sói còn lại bỏ chạy. Tiết đông xuân, khe núi se lạnh, người chết và sói chết bốc lên hơi nóng. Tiểu binh họ cứu được có tuổi sàn sàn với Tần Bắc Dương, cậu ta đã rất sợ hãi. “Này, tôi tên Tần Bắc Dương, cậu tên gì?” “Tề Viễn Sơn” Nước mắt lấp lánh trong khóe mắt tiểu binh, cậu ta túm chặt lấy Tần Bắc Dương, tay nóng đến mức có thể làm cháy một mảng da. Nhiều năm về sau, đứng trước mặt đội hành hình, Tề Viễn Sơn không thể quên mùa xuân năm 1917. Lúc đó, cậu mười sáu tuổi, cuộn người nơi thung lũng toàn sói hoang sâu trong núi Thái Hành, gặp được Tần Bắc Dương mười sáu tuổi… Trong màn nước mắt mờ nhòa, thiếu niên đó đá vào con sói đã chết, giơ tay về phía cậu ta. Cậu ta cứ tưởng rằng mình sẽ phải chết, chỉ chờ bị sói cào rách ngực, để mình nhìn thấy trái tim của mình như thế nào. Đây là mơ đúng không? Cậu ta túm thật chặt tay Tần Bắc Dương, hai người như đang đấu tay, khó có thể thả tay nhau ra. Tần Bắc Dương mỉm cười, kéo cậu ta từ từ đứng dậy. Cậu ta ngửi thấy hương thơm của hoa rừng nở rộ… Còn sống thật tuyệt! Cha con lão Tần chôn cất ba cái xác còn lại, kéo hai con sói đã chết, bảo vệ Tề Viễn Sơn về doanh trại. Bề ngoài lăng mộ Hoàng đế Hồng Hiến đã dần hình thành, đường vào lăng cũng đã hoàn công. Đêm xuống, ba người cùng nhóm lửa, nướng thịt sói và ăn ngấu nghiến. Trên đỉnh núi, từng cặp mắt xanh lè nhìn chằm chằm những người đàn ông đang ăn thịt sói, thi thoảng tru lên. Tần Bắc Dương xách khẩu súng Hán Dương 88 bắn hai phát đuổi lũ súc sinh ăn thịt người đi. “Sẽ có một ngày, con bắn rơi sao Thiên Lang muốn thôn tính Trung Quốc” Tần Bắc Dương ngắm nhìn bầu trời xa xa, hướng chính Nam có một ngôi sao sáng lấp lánh, “Trong hai mươi tám ngôi sao, đó là sao Tỉnh (5) trong bảy ngôi sao Chu Tước phương Nam” Hai mươi tám ngôi sao, ba mươi sáu thiên cương, bảy mươi hai địa sát, cũng là Tần Hải Quan truyền lại cho con trai. “Trong doanh trại còn mấy chục thùng đạn dược, đủ để chúng ta bắn chết hết lũ sói này!” Tề Viễn Sơn thay một bộ quân trang sạch sẽ, ánh lửa chiếu sáng gương mặt cậu ta. Cậu ta có đôi mắt sáng như sao, đôi lông mày rậm, mũi cao, ra dáng thiếu niên tràn đầy sinh khí, buột miệng ngâm một câu thơ, “Giương cung căng tựa vầng nguyệt mãn, vọng Tây Bắc, bắn sao Lang” (6) Lão Tần đã từng gặp qua vô số người, lão sớm nhìn ra đứa trẻ này không phải đứa bình thường: “Cháu không phải con nhà nông bình thường?” “Vâng, cháu là người của phủ Chính Định – Trực Lệ, sinh năm Canh Tý” Tần Bắc Dương vỗ vai của cậu ta: “Tôi cũng sinh năm Canh Tý, hai chúng ta bằng tuổi, cùng mười sáu tuổi!” “Tên húy của tiên phụ là Tề Trọng Binh, từ sớm đã theo Viên Thế Khải đi sứ Triều Tiên. Sau chiến tranh Giáp Ngọ, Viên Thế Khải lập đội luyện binh nhỏ, cha là một trong những thành viên của nhóm quân mới Bắc Dương đầu tiên, lập nhiều chiến công, chức quan đến Hiệp Thống bộ binh trấn thứ sáu của quân mới cuối thời Thanh. Năm Tân Hợi, cha không muốn làm loạn thần tặc tử của Đại Thanh, phản đối Viên Thế Khải ép cung mà bị ám sát. Đoàn trưởng công binh là bộ hạ cũ của cha nhận cháu làm tiểu binh. Trong nhà cháu không còn người thân nào, chỉ có em trai sớm đã bỏ đi, sống chết không rõ” “Nói như thế, cháu hận Viên Thế Khải tận xương tủy?” “Đúng thế” Tề Viễn Sơn lau nước mắt, “Dù nói thế, nhưng người ta cũng làm Hoàng đế rồi, cháu chỉ là một tiểu binh nhỏ thì làm được gì? Hai người muốn ở lại tiếp tục xây lăng mộ sao? Vậy thì cháu cũng ở lại, ngoài kia loạn lạc, ở đây lại là thế ngoại đào viên” Ngày tiếp theo, cha con họ Tần bắt đầu làm thú trấn mộ. Tề Viễn Sơn không được vào địa cung, chỉ có thể canh giữ ở trạm gác trên đường vào lăng mộ, tránh cho sói hoang hoặc thổ phỉ xâm nhập. Trong địa cung của Viên Thế Khải, Tần Hải Quan lại vẽ “Chế thú cửu cung”. Cung thứ nhất: Văn tế. Lão Tần vẫn đọc văn tế mà tổ tiên truyền lại, dâng hương khấn cầu trong địa cung. Nghe tới câu “Quỳ lạy đức độ của bậc đế vương phủ khắp đất trời, trong ngoài đều nhìn thấy sự hưng thịnh, Hoàng ân khắp vũ trụ”, Tần Bắc Dương cảm thấy buồn nôn, muốn lao ra ngoài để nôn. Cung thứ hai: thiết kế, liên quan tới Viên Thế Khải. Năm đầu Dân quốc, nghề báo phát triển, các loại tin tức bên lề nổi lên không ngừng. Gồm cả đại Tổng thống cưới bao nhiêu vợ, sở thích của Đại công tử, Nhị công tử, vv. Hịch văn thảo Viên của đảng Cách mạng phương Nam cũng đăng đường hoàng trên báo. Nếu không chỉ cần móc đồng “Viên đại đầu” từ trong ví tiền ra cũng có thể biết được mặt mũi. Nhiệm vụ bản vẽ này lại giao cho Tần Bắc Dương. Viên Thế Khải giống gì nhất? Cậu nghĩ ba ngày ba đêm dưới ánh đèn dầu trong địa cung, đột nhiên nảy ra một thứ… ___________ Chú thích: (1) Tống Giáo Nhân (1882-1913): là một nhà cách mạng và chính trị gia Trung Hoa. Ông là nhà lãnh đạo tổ chức Quốc dân Đảng ở Trung Quốc. Ngày 20 tháng 3 năm 1913, ông đã bị ám sát ở nhà ga Thượng Hải khi ông đang chuẩn bị bài diễn văn vận động ủng hộ chính phủ. Người ta nghi ngờ Viên Thế Khải là người xúi giục tổ chức cuộc ám sát này. (2) Trích hai câu đầu bài thơ Giang Tuyết của Liễu Tống Nguyên. Bản dịch thơ của Tản Đà trên thiviennet (3) Đây là phương pháp tìm long huyệt (Tầm long) trong phong thủy để chôn cất người đã khuất. Đoạn trên hàm ý miêu tả quan sát long mạch từ nơi nó xuất hiện, biến đổi, hướng di chuyển và tìm được đúng long huyệt. (4) Thái cực huân: Thái cực huân còn gọi là Viên huân, Thái cực quyền, là chỉ vòng tròn (ẩn hiện ở phía xa bao quanh huyệt trường). Các nhà kham dư cho rằng đó là phạm vi của sinh khí của huyệt trường ngưng tụ. (5) Sao Tỉnh: tên đầy đủ là Tỉnh Mộc Hãn (6) Trích bài thơ Giang thành tử – Mật Châu Xuất Liệp. Bản dịch thơ của hieusol trên thiviennet.