← Quay lại trang sách

Chương 28 Vượt ngục tới phương Nam

Cai ngục trưởng bị cắt yết hầu đã tắt thở, phía ngực phải Tần Hải Quan trúng một nhát dao, dù không bị thương đến trái tim nhưng nửa người đều nhuốm đầy máu tươiBấy giờ, Tề Viễn Sơn lao ra, bước đi loạng choạng, tay che phần cổ bị thích khách đá trúng. Diệp Khắc Nan nhìn sân nhà tù, cau hàng mày đậm: “Thích khách có thể mang dao vào nhà tù, chứng tỏ có nội gián, nơi này tuyệt đối không thể ở lâu.” “Bọn họ không giết chúng cháu, lại muốn bắt cóc mang đi để làm gì?” Tần Bắc Dương đưa ra nghi vấn quan trọng – hai lần chạm trán trước, họ đều cho rằng thích khách đến lấy mạng mình, chẳng lẽ không phải như thế? Diệp Khắc Nan ngồi trước cửa phòng giam, lấy tấm vải băng bó vết thương cho Tần Hải Quan. Tầng giam nhà tù chính trị vẫn luôn yên tĩnh, anh thuận miệng nói: “Mấy người có biết nơi đây là nha môn bộ Hình vào thời Đại Thanh không, phòng giam 414 này đã từng giam giữ Lục quân tử Mậu Tuất.” “Đàm Tự Đồng, Khang Quảng Nhân, Lâm Húc, Dương Thâm Tú, Dương Nhuệ, Lưu Quang Đệ.” Tần Bắc Dương kể sáu cái tên đỉnh thiên lập địa: “Được nhốt chung phòng với Lục quân tử thật quá may mắn!” “Nếu Hoàng đế Quang Tự thực hiện thành công biến pháp năm Mậu Tuất, Lục quân tử không lên cổng chợ, Khang Hữu Vi sẽ thành công với chế độ Quân chủ Lập hiến, có thể lắm. Đáng tiếc, trên đời không có thuốc hối hận mà ăn, bọn người đó giết Đàm Tự Đồng là tự cắt đứt đường sống của Đại Thanh!” “Nhưng người ta chết vì biến pháp, còn chúng cháu thì sao? Chết vì tạo mộ cho Viên Thế Khải xưng đế, như lời Tư Mã Thiên, một nặng tựa Thái Sơn, một nhẹ như lông hồng!” “Nhóc con, tám năm không gặp, đọc lắm sách thế! Đại học đường kinh thành không nhận cháu vào ban thiếu niên thật đúng là tổn thất của quốc gia!” Diệp Khắc Nan cứu mạng cha con họ, nhưng Tần Bắc Dương lại không cảm kích: “Chú chớ lừa cháu! Hiện giờ nhà Thanh phục hồi, binh lính đều đeo bím tóc, sao chú lại không đeo?” “Làm thế chi bằng giết chú! Tám năm trước, chú cứu cháu từ trong tay thích khách, cũng là chú đưa cháu từ Thiên Tân tới Tây Lăng, cháu không cần thiết phải chết cùng Trương Huân và nhà Thanh. Mau đi thôi!” Thế là, Diệp Khắc Nan dẫn bọn họ chạy ra khỏi nhà tù, Tần Bắc Dương cõng cha bị thương, Tề Viễn Sơn giơ đèn chiếu sáng. Trên đường đi, năm, sáu thi thể cai ngục nằm la liệt, tất cả đều bị dao găm cứa đứt cổ họng mà chết… Trên từ cai ngục trưởng, dưới đến lính coi ngục. Từ Mãn Thanh đến Dân quốc, đây là đại án chưa từng có. Thích khách cũng nhân dịp Trương Huân trở về, nhà tù thiếu người mới thừa khe hở nhảy vào. Cửa sau nhà tù là Đông Giao Dân Hạng, phía Đông Nam là cửa Chính Dương. Tần Hải Quan trúng một dao ở ngực đấm lưng con trai: “Buông cha ra, để cha ở lại.” “Cha…” “Bắc Dương, con nghe đây, nếu hai cha con ta đều chết, gia tộc tạo mộ không còn kẻ nối nghiệp. Cha không phải chưa từng lẩn tránh khó khăn. Năm Canh Tý, cha đi theo lão Phật Gia chạy trối chết tới Tây An, không biết gặp bao nhiêu khổ sở, còn làm hại mẹ con mất mạng.” Vết thương của lão Tần vẫn đang rỉ máu, ông bắt lấy tay Tần Bắc Dương và Tề Viễn Sơn: “Cha tự biết không sống nổi bao lâu, nếu chạy cùng nhau lại thành trói buộc. Hai đứa nhóc các con nhất định chạy thoát được, không cần lo cho cha! Quan trọng nhất vẫn là tính mạng của các con.” “Cha, làm sao con có thể bỏ cha mà đi?” Tần Hải Quan gắng gượng chút hơi tàn: “Đi càng xa càng tốt! Không được dễ dàng trở về. Nhớ lấy… dưới đất thôn Lạc Đà ở Kinh Tây, trong mấy cái vại là bảo bối nhà họ Tần chúng ta.” Diệp Khắc Nan cho bọn họ mấy đồng bạc làm lộ phí, nhắc bọn họ nên chạy về hướng Nam: “Bắc Dương, cha cháu nói phải đấy! Chú sẽ đưa ông ấy tới bệnh viện. Quân phiệt Bắc Dương đã bị chia cắt, cả phía Bắc đều sẽ đánh trận, tốt nhất chạy qua Trường Giang mới an toàn. Thích khách không biết khi nào sẽ lại xuất hiện! Chú sẽ tiếp tục truy tra. Nếu cháu nhìn thấy ký hiệu “sao chổi đâm vào mặt trăng” thì phải để ý kỹ, chắc chắn liên quan tới thích khách.” Tần Bắc Dương đặt cha xuống: “Cha bảo trọng! Con sẽ về cứu cha.” Sau nửa đêm, vầng trăng non treo trên không trung thành lầu như một đoá hoa ngái ngủ. Chỉ mong đây không phải lần cuối nhìn thấy trăng non Bắc Kinh. Tảng sáng, hai thiếu niên rời Bắc Kinh, trộm một chiếc thuyền gỗ ở Thông Châu, men theo kênh đào đi qua Thiên Tân. Tần Bắc Dương sực nhớ ra một việc quan trọng – viếng mộ. Hiện giờ Tô giới Đức không còn tồn tại. Chính phủ Bắc Dương dù chưa tham gia Thế chiến nhưng đã đoạn giao với Đức và đế quốc Áo – Hung, thu hồi hai khu Tô giới Đức Thiên Tân, Hán Khẩu cùng với Tô giới Áo ở Thiên Tân, tù binh bị bắt giam, coi như báo thù cho tai nạn nho nhỏ năm Canh Tý. Trở lại phố William, tượng đồng Hoàng đế Đức vẫn còn, trường tiểu học thì đã đóng cửa, Tần Bắc Dương còn nhớ tên Đức của mình là “Matias”. Cậu đến Ngân hàng Deutsche, quả nhiên ngừng kinh doanh, lặn lội tìm được đồng nghiệp năm đó của Thù Tiểu Sinh mới biết cha mẹ nuôi được chôn ở trấn Thanh, Dương Liễu, thành Tây. Tần Bắc Dương mang một chồng tiền giấy vàng mã đi thăm mộ. Tám năm trôi qua, ngôi mộ nho nhỏ um tùm cỏ dại, trên bia mộ trừ tên vợ chồng Thù Tiểu Sinh còn có dòng chữ “Con trai Thù Tiểu Canh khóc tạo”. Cậu quỳ xuống dập đầu lạy ba cái: “Cha! Mẹ! Con Thù Tiểu Canh bất hiếu, con về tế bái hai người đây! Tiểu Canh thề, chỉ cần còn sống, nhất định tự tay đâm chết hai tên thích khách đó, báo thù rửa hận cho hai người.” Tề Viễn Sơn cũng quỳ xuống, giúp cậu đốt vàng mã và tiền giấy, khói đặc như khói lửa thời loạn thế làm Tần Bắc Dương không cầm nổi nước mắt. Cậu cũng không che giấu bi thương, cứ thế gào khóc. Rời khỏi trấn Thanh, Dương Liễu, Tần Bắc Dương và Tề Viễn Sơn đi qua Thương Châu, Đức Châu, vượt qua Hoàng Hà, tới tỉnh lị Tế Nam vùng Sơn Đông. Lúc đó Sơn Đông cũng không yên ổn, trông có vẻ sẽ có một trận nội chiến nhỏ. Tần Bắc Dương mua hai tấm vé xe lửa tuyến đường sắt Tân Phổ. Tàu hơi nước chạy như bay, Tề Viễn Sơn nhìn núi Thái Sơn trôi qua đằng xa. Nửa ngày sau họ tới Từ Châu, đại bản doanh quân bím tóc của Trương Huân. Tàu dừng ở Bạng Phụ, người bán hàng rong đưa tin báo – Đoàn Kỳ Thụy (1) tuyên thệ ở trấn Mã Xưởng, tự nhậm chức Tổng tư lệnh quân thảo nghịch (2). Hàng không Nam Uyển (3) cho cất cánh ba chiếc phi cơ Deron G do nước Pháp chế tạo. Máy bay trinh sát EP-3 được hiệu trưởng đích thân cầm lái, ném lựu đạn xuống Tử Cấm Thành. Thánh địa Hoàng gia thần thánh không thể xâm phạm đã biến thành bầu trời tự do. Quân bím tóc bại như núi lở, trước cửa, phố lớn, nơi nơi là bím tóc giả bị vứt bỏ. Trương Huân trốn vào sứ quán Hà Lan tị nạn, Phổ Nghi làm Hoàng đế 12 ngày lại thoái vị. Tề Viễn Sơn hỏi: “Bắc Dương, Trương Huân (4) xong rồi, đôi ta về Bắc Kinh không?” Loa tàu thông báo đã gần đến trạm cuối Phổ Khẩu. Lúc này, Trường Giang còn chưa có cầu lớn, xe lửa chỉ có thể dừng ở bờ phía Bắc Phổ Khẩu, Nam Kinh. Tần Bắc Dương nhớ lời cha dặn trước khi đi – đi được càng xa càng tốt. “Chúng ta đã đến phương Nam rồi, sao không đến Giang Nam xem thử?” Buổi chiều, ở trạm Phổ Khẩu, hai thiếu niên cảm thấy ngỡ ngàng. Một người đàn ông trung niên mập mạp mặc áo khoác vải đen xuyên qua đường sắt, muốn trèo lên sân ga, trông có vẻ rất tốn sức. Tần Bắc Dương đỡ ông ta lên, ông mập khách sáo cảm ơn, đúng lúc có người bán quýt ngang qua, ông ta bèn mua một túi quýt đỏ thắm đưa cho hai cậu thiếu niên rồi loạng choạng vượt qua đường sắt. Sân ga đối diện có cậu thiếu niên đứng chờ, tuổi tương tự Tần Bắc Dương. Đây là cặp cha con, cha đưa con trai lên xe lửa, gần đây thịnh hành mua mấy quả quýt cho con ăn dọc đường. Nhìn cảnh này khiến Tần Bắc Dương nhớ tới cha mình, không khỏi buồn rầu. Ra ga tàu hoả Phổ Khẩu, lần đầu tiên nhìn thấy Trường Giang, mây khói lượn lờ vượt qua tưởng tượng, khác hẳn vùng Bắc khô ráo. Hai người lên tàu thủy, bên tai là tiếng máy nổ, trước mắt là sương trắng mịt mờ. Đến giữa dòng, sóng đục vỗ mạn thuyền, thi thoảng có giọt nước bắn lên trên mặt, hai chàng trai được nếm cảm giác sông Dương Tử (5) vạn dặm. Trên mặt sông, trăm tàu tranh đua, có thuyền gỗ buồm trắng, cũng có tàu thủy ngàn tấn ngược dòng Tứ Xuyên, càng có tàu chiến treo quốc kỳ Anh hoặc Nhật Bản. Tần Bắc Dương tự nhủ, Bắc Dương ơi Bắc Dương, chẳng phải đều là anh hùng hảo hán cái thế ư? Tại sao còn làm cho chúng ngang ngược trên sông Trường Giang? Qua sông Trường Giang. Đến bến tàu Hạ Quan, bước trên đất Giang Nam, từ cửa Phượng Nghi vào thành Nam Kinh. Tần Bắc Dương thán phục không thôi, tường thành cố đô sáu triều cao lớn chắc chắn, so với Bắc Kinh chỉ hơn không kém. Bấy giờ, quân phiệt chiếm cứ Nam Kinh là một trong những kẻ đầu sỏ quân Bắc Dương – Phùng Quốc Chương. Không còn nhiều tiền, bọn họ không dám ở trọ trong thành. Ra cửa Thái Bình, một bên là hồ Huyền Vũ, một bên là núi Tử Kim, bước lên đường nhỏ leo núi. Đi hồi lâu với cái bụng đói, vượt qua một bức tường cao là thần đạo và tượng ông trọng. Dưới ánh trăng, xuyên qua những lối vào hùng vĩ và đình dựng bia đổ nát lại có khí thế ép người. Cả một toà thành nguy nga, qua cửa, trên tường đá có khắc chữ to – “Thử sơn Minh Thái Tổ chi mộ”. Lăng Minh Hiếu! Tần Bắc Dương hít sâu một hơi, cậu từng đi qua Thập tam lăng Xương Bình, nhưng không có nơi nào so được với toà lăng mộ trước mắt này, quả nhiên Hoàng đế khai quốc Đại Minh vẫn khí phách nhất. Bên dưới chân chính là địa cung của Chu Nguyên Chương. Cậu quyết định ở lại minh lâu một đêm, dù sao vẫn dễ chịu hơn màn trời chiếu đất ở núi Tử Kim. Tề Viễn Sơn hơi sợ: “Lỡ buổi tối hồn ma Minh Thái Tổ tới tìm chúng ta thì sao?” “Sợ gì? Chúng ta có trộm mộ ông ấy đâu! Cậu tin hay không, tớ còn từng gặp hồn ma Hoàng đế Ung Chính đấy!” Hai thiếu niên ở trên thành lầu ngoài Minh Hiếu lăng một đêm. Tinh mơ hôm sau, Tần Bắc Dương không nói buổi tối mơ thấy gì, Tề Viễn Sơn cũng im thin thít, thiên cơ bất khả lộ, hai người nhìn nhau cười. Bò lên đỉnh núi Tử Kim, trông xanh biếc ngút ngàn, Tề Viễn Sơn thở hồng hộc: “Bắc Dương, kế tiếp nên đi đâu?” Tần Bắc Dương nhìn về phía Đông, mặt trời đang dần mọc lên, chiếu sáng đồng bằng mênh mông, mương máng sông ngòi xen kẽ, khói bếp lượn lờ, bóng sóng dập dờn… Giang Nam nắng gắt chói chang, hai thiếu niên chẳng còn mấy đồng trong túi, toàn dựa vào đôi chân đi về hướng Đông. Một đường này, phong cảnh sơn thủy kiều diễm, ruộng nước ảnh ngược mây trắng, lúa trổ bông ngát hương, trẻ con cưỡi trâu thổi sáo. Đi qua Trấn Giang, Đan Dương, Thường Châu, Vô Tích, mấy vùng đất lành, kênh đào rậm rạp thuyền con, cột buồm trên Thái Hồ san sát như rừng, khách thương tụ tập, nào giống sáu tỉnh Bắc Dương binh hoảng mã loạn. Năm Canh Tý, phương Bắc bị tàn phá, Giang Nam ở Đông Nam nên chưa bị xâm phạm. Hai người bọn họ ngày đi đêm nghỉ, suy tư hoài cổ, chẳng mấy chốc liền đến Hổ Khâu ngoài thành Tô Châu. Nhìn tháp Hổ Khâu thời Ngũ đại, Tần Bắc Dương hăng hái bò lên thiên nhân thạch (6), lại phát hiện kiếm trì (7) vang dội đã khô cạn. Kiếm trì là một hồ sâu nằm trong khóm đá, xung quanh khắc đầy chữ viết các thời đại. Dạo này nhiều ngày không mưa, ao kiếm sâu thấy đáy, nhiều cá giãy chết, bà con sinh sống xung quanh đều tới xem. “Truyền thuyết nói đáy ao kiếm chính là mộ của Ngô vương Hạp Lư thời Xuân Thu Chiến Quốc.” Đằng trước có người lên tiếng, giọng Quảng Đông, áng chừng 27, 28 tuổi. “Anh Trần, nghe nói trong ao có rất nhiều bảo kiếm – nhưng làm gì có đâu?” Một người đàn ông khác còn trẻ tuổi hơn, nói giọng Thiên Tân. Hai người này đều ăn mặc rất đẹp, không như Tần Bắc Dương và Tề Viễn Sơn giống hệt dân chạy nạn. “Anh Trần” lại nói: “Tần Thủy Hoàng, Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ, Đông Ngô đại đế Tôn Quyền đều từng đến đây đào, có thu hoạch được gì đâu.” “Tôi nghĩ bảo kiếm chôn ở dưới những cục đá này.” Tần Bắc Dương lớn mật xen ngang, cố ý nói giọng Thiên Tân: “Các anh nhìn kỹ mà xem, hai vách kiếm trì đẽo gọt phẳng, đáy ao cũng cực bằng phẳng, hiển nhiên là do người tạo ra. Hổ Khâu vốn là một ngọn núi nhỏ, tôi nhìn phong thủy cũng có long mạch, mà giữa ao kiếm này lại vừa vặn là giếng vàng. Ngô vương Hạp Lư đục đá xuyên núi, xây dựng mộ thất ở dưới núi, lại đổ nước thành ao, chính để tránh đời sau trộm mộ.” “Cậu là ai?” Người Quảng Đông kinh ngạc hỏi. “Tôi là một thợ đá, chuyên môn xây mộ cho người ta, vì thế biết một ít kỹ xảo, múa rìu qua mắt thợ, xin thứ lỗi.” Cậu trai trẻ hơn hỏi: “A! Cậu cũng là người Thiên Tân? Có duyên phận, chúng ta bò xuống do thám thử xem?” Khảo sát cổ mộ là thứ làm Tần Bắc Dương hứng thú nhất. Cậu kéo theo Tề Viễn Sơn, bốn người đồng loạt nhảy xuống ao kiếm, chỉ cảm thấy lạnh buốt thấu xương, dù sao cũng là long huyệt nơi hồ sâu 2000 năm. Kiếm trì rộng Nam hẹp Bắc, chỗ hẹp nhất là một chiếc cầu đá cong trên đỉnh đầu, cũng là phong cảnh nổi danh nhất ở đây. Bọn họ mò vào chỗ hẹp nhất, nhìn thấy một hang động, bốn người khom lưng nối nhau vào. Bên trong có đường hầm, trên dưới bằng phẳng bóng loáng, rõ là do con người đục đẽo. Đến cuối đường lại mở rộng, vừa vặn chứa đủ bốn người. Trước mặt là bốn phiến đá to, do hàng năm ngâm dưới nước nên đầy khe rãnh. Người Quảng Đông vỗ vai Tần Bắc Dương: “Anh em, cậu nói đúng lắm, đây là cửa mộ thời Xuân Thu, giống hệt trong sách ghi lại.” “Hạp Lư sai Chuyên Chư giấu kiếm trong bụng cá ám sát Ngô Vương Liêu đoạt vị, bái Ngũ Tử Tư làm Tể tướng, phong Tôn Võ Tử làm tướng quân, phạt Sở năm lần thắng năm, đánh hạ Dĩnh Đô (8), thành tựu bá nghiệp Xuân Thu.” Tần Bắc Dương thuộc nằm lòng “Xuân Thu”, “Tả truyện”, “Binh pháp Tôn Tử”, những câu chuyện ngàn năm gió nổi mây vần này đã làm bạn với cậu trong lúc bị cấm đoán một năm ở địa cung lăng mộ. Tề Viễn Sơn than thở: “Bắc Dương, nếu chúng ta đào cửa này lên…” “Ha ha, cậu nghĩ nhiều! Tôi quan sát địa thế nơi này, đỉnh đầu chúng ta là tháp Hổ Khâu. Tháp này đã tồn tại cả nghìn năm, nghiêng ngửa chực đổ. Nếu đào ở đây thì sẽ ảnh hưởng tới nền móng tháp Hổ Khâu.” Người Quảng Đông khá có kiến thức: “Tôi không nghĩ kho báu trong toà lăng mộ đế vương lại quan trọng hơn tháp cổ Phật giáo nổi danh. Nếu phải chọn lựa, tôi sẽ chọn tháp cổ! Hôm nay may mắn được du ngoạn đáy ao kiếm, đến trước cửa mộ Ngô vương là đủ rồi!” Tần Bắc Dương liên tục gật đầu, ôm quyền hỏi: “Tại hạ Tần Bắc Dương, xin hỏi đại danh hai vị?” “Quảng Đông Hương Sơn, Trần Công Triết.” “Trực Lệ Tĩnh Hải, Hoắc Đông Các.” Tề Viễn Sơn cũng bắt chước nói: “Trực Lệ Chính Định, Tề Viễn Sơn.” Trần Công Triết hỏi: “Hai cậu phong trần mệt mỏi, định đi nơi nào?” “Việc này…” Tần Bắc Dương đi cả quãng đường cũng không biết muốn đi đâu, bèn lập lờ: “Xin hỏi hai vị đi đâu?” “Thượng Hải.” “Đúng, chúng tôi đến từ phương Bắc rối loạn, cũng muốn đến Thượng Hải xem thành phố, mở rộng tầm mắt.” Tần Bắc Dương dứt lời, Tề Viễn Sơn cũng liên tục phụ họa. Trần Công Triết mỉm cười: “Chi bằng cùng nhau đồng hành? Tại hạ liệu có vinh hạnh này?” Nhiều thêm hai người bầu bạn, đương nhiên vui vẻ. Bốn người bò lên kiếm trì, rời khỏi Hổ Khâu, đi qua Xương Môn vào thành, đến phố Quan Tiền ăn mì Thương Lãng Đình. Hoàng hôn, ra khỏi cửa, ngồi chiếc thuyền gỗ, mỗi người trả một xu. Trần Công Triết hào phóng trả bốn xu, lại mời mọi người ăn bữa tối cơm nắm. Nam nữ già trẻ khoảng mười hành khách, chen nhau trong khoang thuyền hẹp, đa phần là nông dân đến Thượng Hải làm thuê. Thuyền gỗ dần dần chạy vào sông Ngô Tùng. Tần Bắc Dương thuận miệng đọc bài thơ “Thủy Long Ngâm” của Tân Khí Tật: “Chớ nói gỏi ngon cá vược/Mặc gió tây/Ai về thây kệ.” (9) Trần Công Triết kinh ngạc hỏi: “Chú Tần, chú còn biết điển cố này ư? Trương Hàn người Tấn, tự Quý Ưng, nhân sĩ đất Ngô, thấy gió thu liền nhớ về món nấm sốt, lát cá ngư. Hai thứ này đều là đặc sản sông Ngô Tùng thời cổ.” “Ôi, tôi buột miệng thôi, anh đừng bận tâm.” “Các chú mới ra ngoài phải không? Thượng Hải rồng rắn hỗn tạp, nếu cần hỗ trợ, cứ tới tìm chúng tôi.” Dứt lời, Trần Công Triết đưa ra một tấm danh thiếp, trên viết “Hội thể dục Tinh Võ”. “Vừa có võ vừa có thể thao, hai vị biết võ không?” Trần Công Triết và Hoắc Đông Các chỉ cười không trả lời. Đêm đã khuya, trăng sáng rọi lên mặt nước, gợi nhớ về điển cố cá lư. Trong khoang thuyền, người phụ nữ cho trẻ mới sinh bú sữa. Tần Bắc Dương bò lên đầu thuyền, cuộn mình lại, đầu gối sóng nước Ngô Tùng, coi như hóng mát cả đêm. Thuyền đêm lắc lư, tiến vào mộng đẹp. Bình minh, trước mặt là cây cầu gỗ, đường cầu ba cửa Tào Gia Độ, sau lưng dâng lên khói đen nhà máy. Nhà đò thu buồm, rung chèo la bằng tiếng Tô Châu. “Đến Thượng Hải rồi.” _______________ Chú thích: (1) Đoàn Kỳ Thụy (1865 – 1936) là một quân phiệt và chính khách quan trọng của Trung Quốc thời Thanh mạt và đầu Trung Hoa Dân quốc. Ông từng đảm nhiệm vị trí chỉ huy trưởng quân đội Bắc Dương và là Đại Tổng thống tạm quyền của Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ở Bắc Kinh trong giai đoạn từ năm 1924 – 1926. (2) Ý nói về cuộc khởi nghĩa Vũ Xương năm 1912. (3) Trường bồi dưỡng nhân tài quân sự hàng không đầu tiên của TQ. (4) Trương Huân (16 tháng 9 năm 1854 – 11 tháng 9 năm 1923) là một viên tướng trung thành với nhà Thanh và nỗ lực khôi phục vị hoàng đế thoái vị Phổ Nghi năm 1917. Ông đã ủng hộ Viên Thế Khải trong thời gian Viên làm tổng thống. (5) Là cách gọi sông Trường Giang từ đoạn Nam Kinh tới hạ du của người phương Tây. (6) Thiên nhân thạch: đá nghìn người. Ý trên mặt chữ, hòn đá đủ cho nghìn người ngồi. Có nhiều dị bản về cái tên đá nghìn người này. (7) Kiếm trì: ao kiếm. Nước kiếm trì xanh trong, ngọt ngào, uống được. Thường thì kiếm trì quanh năm không bao giờ cạn nước. (8) Dĩnh Đô: kinh đô nước Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc. Nơi này nay là Kinh Châu, Hồ Bắc. (9) Bài thơ Thủy long ngâm – Đăng kiến khang thưởng tâm đình cả Tân Khí Tật. Bản dịch Nguyễn Xuân Tảo. Nguồn: thiviennet.