Chương 41 Đoàn đào mộ Bắc Dương
Năm Dân quốc thứ sáu, 1917, một buổi sáng mùa thu.”Tôi tin tưởng trong địa cung tồn tại một nguồn năng lượng nào đó, tôi cũng tin tưởng người Trung Hoa các vị từ thời kì cổ xưa đã nắm giữ quy luật này.” Tiến sĩ Karl Hoferteintein giải thích: “Tôi không giống đồng nghiệp tại châu Âu, tôi chưa từng coi thường quan niệm triết học Trung Hoa. Mặc dù thú trấn mộ mất đi năng lượng trong địa cung, nhưng chúng ta có thể rót nguồn năng lượng mới vào trong nó, chẳng hạn như động năng của động cơ hơi nước. Nhưng nồi máy hơi nước lại quá cồng kềnh, hay là lắp đặt động cơ đốt trong vào thú trấn mộ, rồi sử dụng khẩu lệnh của ông để làm nó sống lại.” Tiến sĩ và Tần Hải Quan hợp tác, mất một tháng thời gian cải tạo thú trấn mộ. Ngoài lắp đặt động cơ diesel cỡ nhỏ còn cải tạo hệ thống truyền lực, sử dụng linh kiện hiện đại hóa. Quan trọng nhất là lắp đặt hệ thống vũ khí cho Cóc Vàng, không chỉ lưỡi kéo bay mà còn có thêm súng máy Gatling tự động. Nó khác biệt với xe tăng ở chỗ: thứ nhất, xe tăng sử dụng xích để tiến lên, tính năng kém, còn Cóc Vàng dựa vào bốn chân cóc; thứ hai, Cóc Vàng không cần chở theo nhân viên điều khiển, cần động lực và tiêu hao năng lượng nhỏ hơn nhiều xe tăng, chỉ cần Tần Hải Quan trốn sau chiến hào là điều khiển được từ xa. Đến đây, việc thao luyện thú trấn mộ Cóc Vàng chính thức thành công. Mùa thu Bắc Kinh, Từ Thụ Tranh hoành hành ở Nam Uyển. Hắn sai người đổi một con ngựa khác cho tiểu Quận vương, lại gọi thợ cơ khí trưởng xưởng công binh Tần Hải Quan và Tiến sĩ Karl Hofertein đến trước mặt. “Các vị, quân Bắc Dương ta đã tập kết trăm nghìn binh lính, muốn viễn chinh đến chiến trường châu Âu như Thành Cát Tư Hãn, tiêu diệt giặc Đức, uống nước sông Rhine, đập tan cung Sanssouci.” Dứt lời, Từ Thụ Tranh bỗng bật cười ra nước mắt: “Giấc mộng Hoàng lương, chư vị hãy coi như chuyện cười.” Thật ra, Trung Quốc chưa hề gửi đi người lính nào, nhưng đã có mấy trăm nghìn lao công sang Pháp sửa cầu xây đường, không ít người vùi thây nơi xứ người. “Tiểu Quận vương, Tiến sĩ, lão Tần, ba vị đều là người mà tôi coi trọng. Thú trấn mộ cóc vàng đã thành công, nhưng mỗi mình con cóc này không đủ, chỉ cần một quả pháo là san phẳng nó. Phải thành lập một đội thú trấn mộ mới có sức chiến đấu thật sự.” Từ Thụ Tranh vỗ con ngựa trắng: “Tôi ra lệnh cho ba người, trong vòng một tháng đào các ngôi mộ cổ lên, bắt lấy những con thú trấn mộ mới khác, biến chúng thành vũ khí lợi hại của quân Bắc Dương ta, thống nhất Trung Hoa!” Phó Tư lệnh lục quân Từ Thụ Tranh ra lệnh một tiếng, tiểu Quận vương vùng Ngạc Nhĩ Đa Tư Đa La Thiếp Mộc Nhi, Tiến sĩ Karl Hoferteintein – cố vấn xưởng công binh, Tần Hải Quan – thợ cơ khí trưởng xưởng kiêm thợ thủ công Hoàng gia Đại Thanh mang theo binh đoàn công binh tinh nhuệ nhất quân Bắc Dương, xuất phát từ căn cứ Nam Uyển đi đào mộ. Sau chót đội ngũ là hòm gỗ đựng thú trấn mộ Cóc Vàng. Lỡ như gặp phải thú trấn mộ đặc biệt ghê gớm thì lấy Cóc Vàng đã được cải tạo ra đối phó, đây chính là lấy thú chế ngự thú, gậy ông đập lưng ông. Có người đề nghị đi đào lăng Thanh Đông (1), vì Tần Hải Quan từng tham gia xây dựng lăng Từ Hy, tất nhiên biết đường vào khu mộ. Huống hồ Diệp Hách Na Lạp thị nắm giữ quốc gia nhiều năm, hại nước hại dân, cắt đất bồi thường, không đào mộ bà ta không đủ làm nguôi cơn giận của dân chúng! “Thú trấn mộ do bản thân tôi làm, tuyệt đối không thể tự mình đào!” Lão Tần hạ quyết tâm sống chết, “Chi bằng mấy người giết tôi trước đi.” “Vậy đào lăng Thanh Tây?” (2) Vua Quang Tự chôn ở nơi ấy, Tần Hải Quan lại càng biến sắc, toan nhảy xuống ngựa tự vẫn, bị Tiến sĩ Karl Hofertein nắm chặt: “Tần! Tỉnh táo! Tỉnh táo lại!” “Hoang đường! Từ cổ chí kim, có quốc gia nào hưng thịnh nhờ đào mộ không? Huống chi Hoàng đế Tuyên Thống còn đang ở trong Tử Cấm Thành, đừng quên điều lệ ưu đãi nhà Thanh, chúng ta đây chẳng phải đang tự vả mặt chính mình à?” Người lên tiếng là tiểu Quận vương. Vương gia quý tộc Mông Cổ bao đời nhận ân điển đế vương nhà Thanh, nếu thật sự đào lăng mộ nhà Thanh lên, e rằng bản thân cậu sẽ bị phụ vương đánh chết, còn nhân thể bị cướp quyền thừa kế mất. Bấy giờ chợt có người nói, Hoàng lăng nhà Thanh đều xây dựng chưa được bao lâu, đào lên e rằng sẽ gây chú ý, hay là đi đào Thập Tam lăng triều Minh? Dù sao chỗ đó ở Xương Bình, vùng ngoại ô Bắc Kinh, đường xá gần, đỡ phải bôn ba đường dài. “Láo toét!” Tiểu Quận vương Đa La đánh cho kẻ đề nghị một roi, Thiếp Mộc Nhi dù còn trẻ nhưng tâm tư lại tinh tế, “Cách mạng Tân Hợi, người Hán hô hào báo thù cho Minh Tư Tông Sùng Trinh Hoàng đế, “phản Thanh phục Minh” là khẩu hiệu của hội nhóm phía Nam, chúng ta nếu đào Thập Tam lăng, há chẳng phải sẽ bị thiên hạ đồng loạt phỉ nhổ? Quân Bắc Dương đến lúc đó chẳng phải biến thành nhà Thanh đội lốt Dân quốc?” Lăng nhà Thanh không thể đào, lăng nhà Minh cũng không được động, tính ngược lên trên, triều Nguyên hoàn toàn không có Hoàng lăng. Lăng Thành Cát Tư Hãn trong khu vực vùng Ngạc Nhĩ Đa Tư thì chỉ là ngôi mộ cúng bằng quần áo, huống hồ tiểu Quận vương là người Mông Cổ. Hoàng lăng triều Tống ở Hà Nam và Chiết Giang, trong lịch sử đã bị đào nhiều lần, e rằng không còn gì nhiều. Hoặc không thì dứt khoát xông vào Thiểm Tây, đào hết lăng triều Đường và triều Hán nơi cửa ải? Có điều, quân phiệt Thiểm Tây giờ đây đang giương ánh mắt thù địch nhòm chính phủ Bắc Dương, đoàn người này tới đó chẳng phải là chịu chết? Có kẻ lại nói, đường đường chính phủ Bắc Dương Trung Hoa dân quốc, thống trị bốn trăm triệu người, chẳng lẽ không đào nổi một ngôi mộ? “Sau thời Minh Thanh, thú trấn mộ chỉ có Hoàng gia được dùng, kẻ khác dùng là lạm quyền. Nhưng các thời đại trước vương công đại thần có địa vị nhất định cũng có thể tạo dựng thú trấn mộ. Chúng ta không cần chỉ tập trung vào lăng mộ đế vương.” Tần Hải Quan không ngồi yên nổi trên lưng ngựa nữa, nói như vậy là để tránh cho bọn họ lại quay về chủ đề đào mộ nhà Thanh. “Tần, ông nói phải!” Tiến sĩ Karl Hofertein liên tục gật gù, “Vậy ông có biết tìm lăng mộ như thế ở chỗ nào không?” “Xây mộ ở Trung Hoa cần phải xem phong thủy, phong thủy lại chính là tìm long mạch, đào giếng vàng định huyệt vị. Xung quanh Bắc Kinh, long mạch tốt nhất có hai nơi, một là núi Yên, hai là núi Thái Hành. Hai dãy núi này nguy nga hùng tráng, kéo dài ngàn dặm. Có điều, núi Yên thời xưa là khu vực biên thùy, sát Trường Thành, trừ khi là Hoàng triều định đô ở Bắc Kinh, còn không sẽ không xây lăng mộ ở đó. Chúng ta muốn đào mộ cổ trước thời Minh Thanh, đến núi Thái Hành là thuận tiện nhất.” Còn có một bí mật hàng đầu mà Tần Hải Quan không tiết lộ, đó là núi Thái Hành có linh thạch, đó là nguyên liệu chế tạo thú trấn mộ, vậy nên tỉ lệ phát hiện thú trấn mộ trong lòng đất quanh núi Thái Hành sẽ càng cao hơn. Tiểu Quận vương Đa La cảm thấy có lý bèn ra lệnh cho đội ngũ đi về phía Nam, qua trọng trấn Bảo Định của quân Bắc Dương, lục soát về phương hướng núi Thái Hành, ven đường dò hỏi quan lại và dân chúng xem có còn những khu vực có ngôi mộ lớn hay không. Đến phía tây Thái Hành, huyện Khúc Dương, họ phát hiện mấy vùng điền trang có kẻ trộm mộ, bị hương dân vũ trang tuần tra tóm được. Nơi đây nằm giữa núi Thái Hành và đồng bằng Hoa Bắc, mặt bắc có núi cao, Tây Bắc núi non trùng điệp, xung quanh là địa hình như cái ghế bành, mặt Nam rộng rãi, bên cạnh là dòng Đại Sa Hà. Tần Hải Quan xem xét địa thế, tán tụng: “Đây chính là long mạch!” Thôn dân phụ cận cũng nói phong thủy vùng này rất tốt, truyền thuyết kể rằng có ngôi mộ to bị lấp, mặt đất còn rất nhiều người đá ngựa đá. Lão Tần tinh mắt nhìn ra đồng ruộng có di tích thần đạo. Nghe lời ông, công binh đào tại chỗ, phát hiện mấy đôi hổ đá, dê đá và người đá, một đôi cột đá, toàn bộ đều làm bằng đá cẩm thạch. Những ông trọng này có hình thể lớn hơn người thật. Tượng đá một văn một võ, võ tướng mặc áo giáp, tay áo trường bào, hai tay cầm kiếm, uy phong lẫm liệt, trang trí bốn vòng, huyền văn, liên châu văn, liên hình văn, cuộn mây và đụn mây như ý, điêu khắc tinh tế, giống như được chế tạo từ thời Đường. Mà hổ đá hùng tráng mạnh mẽ, chân trước đứng thẳng, chân sau ngồi xổm, đuôi cọp cuốn vểnh lên bụng. Tần Hải Quan biết triều Đường chỉ có quan chức tam phẩm trở lên mới có tư cách dùng hổ đá, dê rừng, người đá, còn dùng đá cẩm thạch thì là cấp bậc đế vương. Tần Hải Quan quyết định bắt đầu đào từ giữa phần cuối thần đạo. Công binh chuẩn bị đầy đủ thuốc nổ, nhưng bị lão Tần can ngăn, đành phải đào thủ công. Sắc trời ngả tối, tiểu Quận vương Đa La hạ lệnh vừa đào mộ, vừa dựng trại đóng quân. Cờ năm màu Trung Hoa dân quốc tung bay phần phật giữa đêm trăng. Cậu ta được lệnh trông coi Tần Hải Quan, ngủ cùng lều, tuyệt đối không để ông ta chạy trốn. Thiếp Mộc Nhi vốn thích đọc sách, buổi tối thắp đèn đọc “Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế quốc La Mã” của nhà sử học Anh Edward Gibbon. Tần Hải Quan uống thuốc của thầy thuốc nước ngoài, thở ngắn than dài, không ngủ được. “Lão Tần, nghĩ gì vậy?” “Tiểu Quận vương, tôi có một đứa con trai độc nhất, tên Tần Bắc Dương, cùng độ tuổi với cậu. Mấy tháng trước, nó vượt ngục trốn về phía Nam, không biết bây giờ sống chết thế nào?” “Tần Bắc Dương?” Tiểu Quận vương nhíu mày: “Hình như tôi từng nghe thấy cái tên này… Có phải cậu ta khá cao? Còn biết đánh nhau?” “Đúng vậy – chẳng lẽ hai người…?” “Ha ha ha! Tôi đã từng gặp con trai ông một lần, ở cửa tòa án Bắc Kinh, vì một cô bé mà còn tỷ thí với nhau đấy.” “Mạo phạm, mạo phạm! Lão Tần tôi không biết dạy con, có mắt không nhìn thấy Thái Sơn…” Tiểu Quận vương xua tay: “Tôi rất thích cậu ta, chỉ hận không sớm quen nhau! Nếu cậu ta về Bắc Kinh, chúng ta nhất định có thể trở thành bạn tốt. Có điều…” “Sao thế?” “A U!” “Cái tên này nghe hơi quen tai.” “Nói ra thật xấu hổ, về A U, tôi đã phụ lòng giao phó của cậu ta.” Sắc mặt cậu đỏ lên, lắc đầu, “Không nói nữa! Đây là nỗi nhục của nhà tôi!” Lão Tần không hiểu, nhưng lớn mật thỉnh cầu, “Tiểu Quận vương, tôi đã đến tuổi gần đất xa trời. Ngày mai đào mộ, e rằng dữ nhiều lành ít, nếu tôi chết, hãy chôn tôi tại mộ tổ nhà họ Tần ngoài cửa Đông Trực.” “Nói gì vậy!” Tiểu Quận vương gập quyển sách lại, tắt đèn, “Ông cho rằng tôi thật sự muốn đào mộ? Bất đắc dĩ không có lựa chọn khác thôi, cốt để giữ vững lãnh thổ bao đời của Đa La Quận vương, kẻo lỡ chọc giận chính phủ Bắc Dương, nhận được tờ giấy cải thổ quy lưu (3) lại xong đời. Phụ vương còn ép tôi đi học trường Sĩ quan Lục quân của Nhật Bản, hoặc không thì học trường quân sự Bảo Định, tương lai trở thành quân phiệt cát cứ một phương. Thực ra, tôi chẳng hề hứng thú với việc này. Tôi thích học đại học, nhất là khoa lịch sử.” “Mỗi người đều có số mệnh của riêng mình, số mệnh của tôi và con trai là làm thợ thủ công, còn số mệnh của tiểu Quận vương ngài là vương gia, tôi không bao giờ hy vọng xa vời Tần Bắc Dương có thể trở thành nhân vật vĩ đại nào đó, chỉ mong nó bình an khỏe mạnh, mau chóng cưới vợ, để gia tộc xây mộ có người nối dõi tông đường, không thất truyền tay nghề là được.” “Tay nghề làm thú trấn mộ ư?” Tiểu Quận vương đã chui vào chăn, nghe vậy bèn chọc vào tay lão Tần, “Này, hay ông dạy tôi đi? Con cóc đó lợi hại thế, ắt hẳn ông còn làm ra được thú trấn mộ ghê gớm hơn.” “Không truyền! Không truyền!” Tần Hải Quan dứt lời bèn xoay người đi ngủ. Một đêm vô sự, sáng sớm hôm sau, dưới chân núi Thái Hành, bờ sông Đại Sa Hà, khu lăng mộ vùng nông thôn Khúc Dương, công binh quả nhiên đào được mộ đạo. Tiểu Quận vương, Tần Hải Quan, Tiến sĩ Karl Hofertein, tất cả đều tụ tập ở lối vào – ngoài hẹp trong rộng, sườn dốc thông xuống lòng đất, hai mặt và mái vòm được đắp gạch xanh, nền đất đắp vài tầng, xem ra vô cùng vững chãi. Ba người đi xuống, toàn bộ binh lính hộ vệ vũ trang đi bên cạnh, đèn bão soi sáng những bức bích họa rực rỡ – đội nghi trượng khổng lồ, tất cả đều là người thời Đường, sơn ba màu đen, trắng, đỏ, đội khăn vấn đầu, râu quai nón, hốc mắt sâu, rõ ràng không phải người Hán. Trường bào viên lĩnh, vạt trước vén sang hông, đai áo tung bay, chân đi giày đen, bên phải giắt vũ khí, tay cầm búa rìu, mỗi người cao to vạm vỡ, ngựa cũng chắc khỏe. Tần Hải Quan phát hiện một chi tiết: hễ là tranh tường thì sẽ có vết vẽ nháp, là hình phác thảo, sau khi hoàn thành thường được che kỹ. Những bức tranh này lại lộ rất nhiều dấu vẽ nháp, hai bên vách cũng không được quét vôi cẩn thận, cho thấy chủ nhân ngôi mộ được chôn cất vội vàng. Nhưng bất kể là ai, có đội nghi trượng khổng lồ như thế cũng phải là nhân vật tôn quý. Dọc theo lối vào, họ phát hiện một Ô Đầu môn (4), hay còn gọi Linh Tinh môn, trên quét sơn đen, dưới bôi sơn đỏ, tương tự Đồng Nghi môn. Công binh mang vào các công cụ hạng nặng, mất hồi lâu mới mở cửa ra được. Một luồng khói đen bay ra, Tiến sĩ Karl Hofertein đeo mặt nạ phòng độc, còn đưa hai cái cho tiểu Quận vương và Tần Hải Quan, nhưng hai người họ đều từ chối. Bụi đất mù mịt, tiểu Quận vương cầm đèn pin lần mò tìm kiếm bên trong, dù sao cậu cũng mới 17 tuổi, mặt mày sợ hãi. Lão Tần cầm đầu xông vào địa cung. Đây là “sân” bằng phẳng. Giơ đuốc đi vào, thoạt đầu ngọn lửa le lói, đến khi không khí lan tràn lại bùng cháy hừng hực. Hai bên Đông Tây tường gạch có hai Nghi môn (5). Mặt Bắc là con đường lát gạch, nhìn kỹ mới phát hiện là phần cửa vững chắc của ngôi mộ. Tiến sĩ không những là nhà khoa học mà còn có chút kiến thức về khảo cổ học phương Tây, tức khắc lôi máy ảnh ra quay chụp, ghi chép vẻ ban sơ của khu mộ. Ông ta lấy thước đo cửa mộ, cao 6m, chiều ngang rộng 3m. Tần Hải Quan phát hiện một tấm gạch xanh viết “Đại Kim Hoàng thống trùng tu chín năm ba tháng”. Mộ cổ nhà Kim? Không thể, những tượng đá và các bức bích họa ban nãy rõ ràng theo phong cách triều Đường, ắt hẳn đã từng trùng tu một lần vào thời nhà Kim. Nếu đã trùng tu, ít nhất đã từng bị đào đến vị trí này – liệu có phải mượn danh trùng tu để chính quyền ngang nhiên trộm mộ? Giống như việc làm của bọn họ bây giờ vậy. Công binh mở cửa đá cẩm thạch theo cách cũ, dè dặt tiến vào. Lại là một dũng đạo (6), hai bên đều có hốc tường. Nhìn về phía trước, hai bên có nhĩ thất (7), có cửa cẩm thạch tương ứng. Phía Bắc đường lát gạch có tiền thất hình bát giác, hình dạng này rất đặc biệt, Tiến sĩ Karl Hofertein vội vã chụp ảnh. Hai bên tiền thất có bốn trắc thất (8) đối xứng, chất đầy tiền của vàng bạc, làm nhóm công binh thèm nhỏ dãi. Tiểu Quận vương Đa La móc súng lục ra cảnh cáo – ai dám trộm một thứ bảo bối, giết không tha. Tất cả đều thuộc về chính phủ Bắc Dương, là của cải của toàn thể nhân dân Trung Hoa Dân quốc. Đương nhiên, những người đào mộ đều có công, tất nhiên sẽ được thưởng thứ khác, nhưng tuyệt đối không được phá hoại văn vật. Tần Hải Quan nhìn thấy nền gạch dưới chân còn chỉnh tề hơn cả Hoàng lăng nhà Thanh thì thở phào nhẹ nhõm một hơi. Đối với ông, hít thở không khí không hề tự do, mà dưới địa cung ngàn năm này lại như cá gặp nước. Ngôi mộ này có quy chuẩn cực cao, có mộ đạo, Nghi môn, đình viện, dũng đạo, tiền thất, hậu dũng đạo, hậu thất có đường trục trung tâm, trắc thất nhĩ thất đối xứng trái phải, toàn bộ xây bằng gạch xanh, cộng thêm mái vòm, đồ sộ ngang tòa mười hai ngôi mộ. Công binh tìm được một số lượng lớn gốm trắng, một số là men tương (9), thậm chí còn có đồ sứ tử định thời Bắc Tống, có lẽ là nhà Kim trùng tu (hoặc trộm mộ) mang vào. Cuối cùng là cửa cẩm thạch. Sâu trong địa cung, tay tiểu Quận vương run lẩy bẩy. Lão Tần thì thầm với cậu: “Nếu cậu sợ, bây giờ còn rút lui được, chúng ta tìm ngôi mộ khác.” Nhưng đến nước này, nhóm công binh chắc chắn không bỏ cuộc, đào hang là sứ mệnh bẩm sinh của họ. Theo chỉ đạo của Tiến sĩ Karl Hofertein, bọn họ quen tay hay việc mở cánh cửa ra. Cuối địa cung u ám, Tần Hải Quan cảm nhận được năng lượng giếng vàng. Dưới ánh đèn pin của Tiến sĩ, hình như có một bộ quan tài đá to lớn… Hai binh lính đi vào thăm dò, kết quả mới bước vào hậu thất, chợt vang lên một âm thanh kì quái, lão Tần tức khắc hét lên: “Ra mau!” Không kịp nữa, cùng với một tiếng nổ, hai cái đầu người bay ra, máu tươi bắn lên mặt Tiến sĩ. Ai nấy hoảng hốt chạy tán loạn, Tần Hải Quan bị tiểu Quận vương kéo vào tiền thất. Tiến sĩ Karl Hofertein thì cầm máy ảnh lùi ra ngoài “sân”. Giữa sương khói xuất hiện một bóng đen, lão Tần không kịp trốn, lắc người chui vào nhĩ thất, đèn bão lăn khắp nơi, soi rọi một cái đầu thú, còn có đôi sừng, khó xác định giống cái gì, như rồng mà không phải rồng, như sói lại không phải sói, cũng không phải tứ bất tượng. Lại xuất hiện thêm một cái đầu thú, cũng là quái vật. Tần Hải Quan ngỡ ngàng, thông thường một lăng mộ chỉ có một thú trấn mộ, rất hiếm khi có cặp thú, trừ khi là địa cung Càn Lăng của hai vị Hoàng đế Võ Tắc Thiên và Lý Trị. Càng ngỡ ngàng hơn nữa là, lão Tần bỗng nhìn thấy đầu thú thứ ba, và cả thứ tư, thứ năm… Tổng cộng bảy cái đầu thú! Sau đó mới là cả thân thể, to lớn như báo, tứ chi như gấu đen, mỗi cái miệng thú to đùng như miệng sư tử. Tần Hải Quan tự nhủ bản thân không khác gì người chết, cũng không cần phải sợ hãi, bèn thò đầu ra nhìn cho kỹ – con quái vật bảy đầu này không phải mỗi cái đầu đều có đôi sừng, mà ba đầu có sáu sừng, bốn đầu khác mỗi đầu một sừng. Bảy đầu, mười sừng. Nhưng chỉ có một cái đầu mà trên mỗi chiếc sừng đều đeo mũ miện vàng nho nhỏ, còn các đầu thú khác đều khắc văn tự kì quái – không phải chữ Hán, cũng không phải chữ Mãn, chữ Mông hay chữ Tạng trong lăng mộ nhà Thanh. Thú trấn mộ Thập Giác Thất Đầu (bảy đầu mười sừng). Tần Hải Quan chợt đặt tên cho nó. Con thú này to lớn khác thường, đi qua dũng đạo chỉ có thể cuộn mình bò sát, những chiếc sừng vẫn đập tan tường gạch. Nhưng nó không hề vụng về, bắt được mấy người công binh, đâm chết bọn họ bằng sừng nhọn. Trong tiền thất rộng rãi, công binh bị nhấc lên cao vút, như quỷ treo cổ trên ngọn cây. Nó gào thét đinh tai nhức óc, tựa hồ trong địa cung xảy ra trận động đất nhỏ, gạch ngói trên mái vòm rơi xuống vỡ tan. Loáng thoáng lối vào ngôi mộ vẳng tới hai câu tiếng nước ngoài, là tiếng hét của Tiến sĩ Karl Hofertein. _________ Chú thích: (1) Thanh Đông: Khu mộ của nhà Thanh chôn cất 161 thành viên Hoàng tộc. (2) Thanh Tây: Khu mộ nhà Thanh chôn cất 78 thành viên Hoàng tộc. (3) Cải thổ quy lưu: Nghĩa là đổi người quản lí vùng đất dân tộc thiểu số từ thủ lĩnh bộ tộc đó sang quan lại do triều đình cắt cử. (4) Ô Đầu môn là một loại cửa/cổng chỉ dành cho quan lại, hào môn, cũng là loại cửa thường thấy trong lăng tẩm, Đồng Nghi môn là cách gọi cửa ngách của nha môn. (5) Nghi môn là cửa tròn nhỏ mà các binh sĩ canh gác dưới tường thành, hễ có địch là sẽ lên cửa này thông sang tường thành báo tin. (6) Dũng đạo: lối đi có hai bên che chắn. (7) Trắc thất: phòng bên cạnh phòng chính. (8) Nhĩ thất: nhĩ thất của phòng chính, chuyên dùng để đồ. (9) Men tương: một loại men sứ tạo màu đỏ bầm. Loại men này có tỉ lệ sắt trong thành phần cao trên 5%.