← Quay lại trang sách

Chương 42 Thú bảy đầu mười sừng

“Quis similis bestiae? et quis poterit pugnare cum ea?”Tiến sĩ nói không phải tiếng Đức, cũng không phải tiếng Anh hay tiếng Pháp, mà rõ ràng là tiếng Latin, nghĩa là “Ai có thể so với con thú này? Ai có thể đánh lại nó?”. Một lát sau, dũng sĩ có thể đánh lại nó lên sân khấu, đó là thú trấn mộ Cóc Vàng. Tại địa cung không biết có phải triều Đường hay không, xuất hiện hai con thú trấn mộ, một con đã ngủ say hơn nghìn năm, một con khác lại mới ra lò năm nay. Thú đấu với thú. “Tần, ông còn sống không?” Tiến sĩ trốn vào góc lối vào, hét về phía bên trong, bởi vì chỉ có Tần Hải Quan mới có thể điều khiển thú trấn mộ tiến hành chiến đấu. Lão Tần không cần đứng bên cạnh thú trấn mộ, chỉ cần cách xa không quá mười trượng là có thể thông qua âm thanh và hơi thở điều khiển nó. Mà ông ta cũng không cần gào lên, thú trấn mộ cảm nhận cực kì nhạy bén, nó nghe thấy được âm thanh vô cùng nhỏ. Ông ta trốn trong phòng ngách, nói nhỏ: “Cóc Vàng Cóc Vàng! Chỉ có mi mới sánh được con thú này! Chỉ có mi đánh lại nổi nó!” Trong địa cung, khắp nơi là tàn chi, nội tạng và máu tươi của binh lính bị hành hạ đến chết. Con thú bảy đầu mười sừng lao đến phía Cóc Vàng, bảy đầu của nó rống giận, nói bảy loại ngôn ngữ cúng tế khác nhau, mười cái sừng máu me đầm đìa treo mười mũ miện đế quốc khác nhau. Tần Hải Quan khẽ khàng điều khiển, Cóc Vàng bật nhảy, không thè lưỡi đao bay mà là mở ra súng máy Gatling. Vô số viên đạn tung ra từ nóng sùng xoay tròn, như loạn tên bắn trúng Lữ Bố. Kì thật, lúc mỗi viên đạn bắn trúng mục tiêu, lão Tần đều đau lòng. Là một thợ thủ công, nhìn thấy tác phẩm của đại sư tiền bối, đáng lý ra phải quỳ lạy mới đúng. Súng Gatling bắn tành tạch, tiếng đạn xuyên không khí rít lên, tiếng vỏ đạn kim loại rơi lộp bộp xuống sàn gạch… Sự thét gào của thế kỷ 20 áp đảo tiếng rống giận của thế kỷ thứ 8. Quái vật bảy đầu mười sừng ngã ầm xuống đất. Cóc Vàng nhảy lên vài bước, Tiến sĩ và các binh sĩ cầm súng trường lưỡi lê và cả tiểu Quận vương nơm nớp lo sợ bấy giờ mới từ từ bước vào tiền thất địa cung. Đột nhiên, một đầu trong số bảy đầu như con rắn lặng lẽ trườn tới Tần Hải Quan đang nấp trong phòng ngách. Cái đầu có đôi sừng dài hung tợn, còn trong căn phòng chất đầy binh khí chôn cùng, lão Tần tiện tay nhặt lên thanh đao thời Đường dài hơn ba thước ngăn cản. Đây là một thanh hoàn thủ trường đao, chế tác cực kì hoàn mĩ, hơn một ngàn năm mà không bị hoen gỉ. Hai tay ông múa đao, dường như đang chém thủ cấp kẻ thù giữa vạn quân. Ấy mà đôi sừng thú trấn mộ còn cứng rắn hơn sắt thép! Mới vài cái, ánh đao lập lòe xoắn vào nhau. Đầu thú giương cái mồm to như mồm sư tử, răng nhọn còn dính thịt người, toan một lần nuốt sạch lão Tần. Tần Hải Quan nhắm mắt, chờ mất mạng, bỗng nghe thấy địa cung vang tiếng nổ to. Đầu thú và cả đôi sừng, mũ miện đều rụt về. Ông lăn lê bò ra khỏi phòng ngách, hóa ra dưới sự chỉ đạo của tiểu Quận vương, công binh tung đạn khói, tiếp đến ném lựu đạn, cộng thêm súng máy Gatling của Cóc Vàng liên tục dội xuống, lần thứ hai đập tan thú trấn mộ Thập Giác Thất Đầu. Cuối cùng, công binh bắn dây thép sợi to, buộc chặt con thú to lớn này. Xong xuôi mọi việc, lão Tần may mắn giữ lại mạng, bò lại gần tiểu Quận vương và Tiến sĩ. Bọn họ trưng dụng hai mươi mấy con trâu cày của nông dân lân cận, lại cẩn thận không làm hỏng bảy đầu mười sừng của nó, mất hơn nửa ngày mới lôi con thú ra khỏi địa cung. Một khi rời khỏi lòng đất, nó biến thành một đống phế liệu. Vô số người tụ tập vây xem, ai cũng bị con quái vật làm cho khiếp sợ. Có người nói nó là xương rồng đào ra từ dưới đất, hoặc là hóa thạch khủng long, có người lại kêu nó giống Xi Vưu trong truyền thuyết. Đến giờ khu vực núi Thái Hành vẫn còn phong tục đội sừng trâu thờ cúng Xi Vưu. Tiểu Quận vương sai người giăng màn che xung quanh khu mộ, ngày đêm vũ trang tuần tra, trông coi chặt chẽ thú trấn mộ. Cậu đánh điện báo cho căn cứ Nam Uyển, yêu cầu đưa một chiếc xe tải chắc chắn qua đây. Cổ mộ không có thú trấn mộ tựa như Thục Hán mất đi Gia Cát Lượng. Tần Hải Quan và Tiến sĩ lại bước vào hậu thất địa cung, trên đầu là mái vòm tròn, dường như đang đặt mình trong vũ trụ, trước mặt là quan tài bằng đá to lớn. Trước quan tài có một con đường cái hình cây cầu, hai bên là lan can hình vòng cung. Trên đường đặt hai bức tượng người đá, người trên ngẩng mặt gập người, người dưới bò sát đất, nắm lấy chân trái người trên, có vẻ là mối quan hệ nam nam. Giường quan tài đá chạm tu di tọa hoa sen, trên dưới mặt phương đỉnh (1) ốp đá cẩm thạch, sơn năm màu, bốn góc có lực sĩ khiêng. Khổn môn (2) ở eo quan tài khắc hình mặt người rất tỉ mỉ. Lão Tần chú ý tới phù điêu chu tước huyền vũ trên quách. Chu tước chính là Phượng Hoàng, huyền vũ là con rùa đen bị con rắn quấn quanh. Tiến sĩ Karl Hofertein lấy máy ảnh chụp lại, ghi chép toàn bộ hành trình. Công binh chuẩn bị cạy quách, Tần Hải Quan vội vàng ngăn cản: “Chúng ta đến tìm thú trấn mộ, không phải đến trộm mộ mở quan tài.” “Tần, đã đến nước này, dù chúng ta mở quan tài hay không cũng là kẻ mang tội trộm mộ.” Tiến sĩ khó nhọc nói hết một câu tiếng Hán, tiểu Quận vương Đa La cũng tới hậu thất, gật đầu nói, “Ngôi mộ này không thể xem thường, chủ nhân của nó có lẽ là nhân vật ghê gớm trong lịch sử. Tôi thường đọc “Nhị thập tứ sử” (3), cũng muốn biết rốt cuộc ai là người được chôn cất tại đây!” Quan tài đá mở ra. Bên trong còn có một chiếc quan tài gỗ. Hậu thất chỉ có chủ nhân ngôi mộ, có người hợp táng nhưng ở phòng nhỏ hai bên. Cái này khác với các ngôi mộ vợ chồng hợp táng thông thường, nhấn mạnh quân chủ tối thượng. “Chúng ta không phải đến đào mộ trộm báu vật, không cần dùng cách của kẻ trộm mộ, nhưng cũng phải tôn trọng lý lẽ khoa học,” Tiểu Quận vương chẳng qua mượn cớ tìm hiểu bí mật lịch sử để tăng thêm can đảm cho mình, may mà con thú trấn mộ hung tàn đã bị bắt, binh lính hiện giờ đông đảo, “Chúng ta mở quan tài thôi.” Công binh mở quan tài gỗ từ mặt chính diện. Khói độc hôi thối tản ra, mọi người đeo mặt nạ phòng độc, chỉ có Tần Hải Quan mặc kệ. Tiến sĩ Karl Hofertein đầu tiên lại gần quan tài chụp ảnh, ông ta có sự nhiệt tình như khi chụp ảnh cho Pharaoh Tutankhamun thời cổ đại, nhưng lại quên sự nguyền rủa của Pharaoh trong truyền thuyết. Ông ta chụp được xương cốt một con thú. Ai nấy đều kinh hãi, tiểu Quận vương ngã khỏi giường, trán đập vào quách chảy máu. Chỉ có lão Tần nghiêng đầu nhìn vào quan tài, tin chắc đó không phải loài người. Rõ ràng là đầu lâu động vật, răng nanh sắc nhọn, có lẽ là động vật ăn thịt như lang sói, hổ báo… Trên xương cốt thú lại là quần áo, mũ miện và chương phục (4) quân chủ chỉnh tề. Cách trở ngàn năm, bộ cổn phục (5) trang trọng nhất này vẫn rực rỡ như cũ, thêu “thập nhị chương” (6) gồm các họa tiết mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, dãy núi, rồng, hoa lá côn trùng, tông di (7), tảo, lửa, gạo, phủ, phất (8). Từ thời vua Chu, chỉ có Hoàng đế chí tôn mới có thể mặc bộ quần áo này trong các nghi lễ trọng đại. Một con thú chiếm giữ bảo tọa Hoàng đế? Có điều chỉ trong giây lát, không khí tràn vào trong quan tài, bộ cổn phục hoa lệ, kể cả “thập nhị chương” thêu bằng vàng cũng đều bị thối rữa, biến thành mớ vải rách đen sì. Tiểu Quận vương bỏ mặt nạ phòng độc ra, xoa vết thương trên trán: “Chuyện gì thế này?” “Quốc gia dã thú? Đất nước địa ngục?” Tiến sĩ Karl Hofertein cũng ngơ ngẩn. “Ông nhìn bích họa miêu tả nhân vật triều Đường, còn có những người khắc trong ngoài quan tài đá, tất nhiên là ở thế giới con người.” Tần Hải Quan mệt mỏi ngã ngồi xuống đất: “Theo tôi thấy, có thể là chủ nhân ngôi mộ chết oan, không còn xương cốt. Bề tôi của ông ta đành phải giết một con mãnh thú, rồi cho xương cốt của nó mặc cổn phục Hoàng đế, chôn cất thay thế ông ta.” “Rốt cuộc là nhân vật thế nào? Bị chết tan xương nát thịt, lại cần dã thú thay thế chính mình?” “Trước hết, ngôi mộ này thuộc triều Đường, nhưng Hoàng lăng đều ở Quan Trung, núi Thái Hành không thể có Hoàng lăng. Như vậy, triều Đường ngoài Võ Tắc Thiên, còn có ai từng tự xưng Hoàng đế?” Tiểu Quận vương nhớ tới “Cựu Đường thư” và “Tân Đường thư”, “Trừ loạn thế Tùy Đường ra thì có loạn An Lộc Sơn, Sử Tư Minh tự xưng Hoàng đế Đại Yên. Binh biến Kính Nguyên, Chu Thử bị bộ hạ ôm lập làm Hoàng đế. Còn có Hoàng Sào, tự xưng Hoàng đế Đại Tề. Nhưng chỉ có An Lộc Sơn phù hợp vị trí địa lý với núi Thái Hành.” Núi Thái Hành chạy qua các tỉnh Hà Nam, Sơn Tây và Hà Bắc của Trung Quốc “Phải, An Lộc Sơn là Tiết độ sứ Phạm Dương, căn cứ chính là Bắc Kinh hiện giờ.” “Sào huyệt của loạn An Sử về sau là khu vực sông Hà Sóc do các phiên trấn (9) cát cứ. An Lộc Sơn bị con trai An Khánh Tự giết chết, có người nói là chết dưới đao thời loạn, hài cốt không còn!” Tiểu Quận vương nhớ ra một chi tiết, “Thôn dân xung quanh đa số họ An, chẳng lẽ là hậu duệ người thủ mộ cho An thị?” Tiến sĩ Karl Hofertein như lọt trong sương mù, “Hai người đang nói gì vậy?” “Còn có giả thiết là sau khi chết, An Lộc Sơn được chôn ở huyện Võ Công – Thiểm Tây. Chẳng qua lúc qua đời, Quan Trung đã bị triều Đường thu phục, không thể chôn cất ở đó.” “Loạn An Sử khiến biết bao sinh linh lầm than? Nghe nói, khi đó chết một nửa dân số Trung Hoa, An Lộc Sơn quả thực xứng với dã thú này! Cũng xứng với con thú trấn mộ bảy đầu mười sừng đó.” Nói đến đây, Tần Hải Quan kích động bẻ gãy một mũi tên. Nhưng mà, không tìm được bia mộ hoặc sách Ngọc Ái trong ngôi mộ này, cũng không có con dấu hay những thứ liên quan của chủ nhân ngôi mộ, không thể chứng minh thân phận của người đó. Tất cả chỉ là suy đoán của họ. “Chờ một chút, đây là cái gì?” Lão Tần phát hiện trên nền gạch hậu thất khắc đầy lang sói hổ báo và dị thú thời thượng cổ đang phá hoại thôn trang thời Đường, thành trì rực cháy. Vô số kỵ binh mặc trang phục người Hồ, vô vàn loại thú hung bạo, chiến mã hai sừng, vung đao thương cung tên, răng nanh đầm đìa máu há to, nuốt chửng trẻ con và phụ nữ Trung Hoa… Đối mặt với quan tài gỗ, Tiến sĩ lại chụp một bức ảnh – xương thú mặc long bào đeo mũ miện, hốc mắt trống trơn, nhìn lên vòm trời, cũng nhìn vào đôi mắt người xem bức ảnh này trăm năm sau. _________ Chú thích: (1) Mặt phương đỉnh: mặt phía trên. (2) Khổn môn: phần trang trí theo kiến trúc Phật giáo. (3) Hay còn gọi là Chính sử, tên gọi chung của 24 bộ sử thư chính thống do các triều đại phong kiến Trung Quốc biên soạn. Nhị Thập Tứ Sử ghi chép từ nhân vật Hoàng đế trong truyền thuyết cho đến năm Sùng Trinh thứ 17 nhà Minh. (4) Chương phục: loại lễ phục có thể nhận biết đẳng cấp qua hoa văn. (5) Cổn phục: lễ phục của Hoàng đế cổ đại và Thượng công, là một trong những lễ phục tôn quý nhất. (6) Thập nhị chương: 12 họa tiết mang ý nghĩa tốt lành được thêu lên cổn phục. (7) Tông di: li rượu dùng trong hiến tế, có hình hổ và khỉ đuôi dài, cũng là họa tiết được thêu lên cổn phục. (8) Phủ, phất là tên gọi riêng các hoa văn được thêu trên cổn phục. (9) Phiên trấn: còn gọi “phương trấn”, là quân đội trấn giữ được đặt ra trong thời Đường. Quân trấn này có tác dụng tự bảo vệ ở khu vực, ngăn cản dị tộc xâm lăng biên thùy.