Chương 49 Bay tới Hội Kê
Tần Bắc Dương nghe thấy tiếng kêu của Tề Viễn Sơn ở bên cạnhMở mắt ra, mặt đất đã bị bỏ lại ở dưới, cây cỏ um tùm rậm rạp, nhà cửa nông xá biến thành đồ chơi, sông hồ biến thành vũng nước. Không biết bay lên bao nhiêu mét, cậu quay đầu nhìn về phía Thượng Hải, lướt qua những nóc nhà dày đặc vẫn có thể nhìn thấy những tòa cao tầng bên bờ sông Hoàng Phố, “Núi Đạt Ma trên biển” sớm đã bị nhấm chìm trong đó. Túi khí hình thoi của khinh khí cầu vẽ hoa văn đồng tiền thiên viên địa phương lướt qua đồng ruộng bát ngát của vùng ngoại ô phía Nam Thượng Hải. Đoạn đường này đều là đồng bằng vùng sông nước Giang Nam, dưới ánh mặt trời như có vô số chiếc kính phản quang. Lúc bay qua đỉnh núi Thiên Mã của Tùng Quận Cửu Phong, bụng khinh khí cầu sượt qua đỉnh giáo đường Thiên Chúa giáo. Họ từng xem bản đồ, đi đường bộ phải vòng qua Hàng Châu, nhưng bay thẳng trên trời thì chỉ khoảng 160km, thừa thời gian. Đây là một trong số những ưu điểm của khinh khí cầu so với máy bay thời đó, có thể giữ khoảng thời gian duy trì lâu nhất. Khí cầu nhẹ hơn máy bay, ra đời sớm hơn máy bay của anh em Wright. Khí cầu có hình thuyền cực lớn, khoang treo chở người và hàng, phần đuôi điều khiển ổn định, mái chèo xoắn ốc đẩy hệ thống, túi khí bơm đầy khí hydro. “Số hiệu Science” bay qua bầu trời nâu xám của vịnh Hàng Châu. Hoàng hôn mờ mịt, ánh nắng chiều như lửa, mặt trời hoàng hôn như máu, khí cầu sóng vai cùng bầy nhạn xếp hình chữ V ngược bay về phía Nam. Cảm thấy bản thân mình như đàn nhạn phương Nam, giang rộng đôi cánh, cưỡi gió bay chín vạn dặm. Bốn tiếng đồng hồ sau, khí cầu đã trên bầu trời Thiệu Hưng. Ao đầm và dãy núi đồng bằng hiện ra rõ mồn một trước mắt: Câu Tiễn nằm gai nếm mật mười năm lấy lại được vùng đất của bài học mười năm, cố hương xa cách trong “Thoa đầu phụng” rớt nước mắt của Lục Du Thẩm Viên. Khí cầu đang bay về phía trước, có thể thấy núi Hội Kê trong chiều tà cuối thu. Núi không cao tiên ở nên linh, nước không sâu rồng ở nên thiêng (1). Nếu có một con rồng từ trên trời giáng xuống đỉnh núi, ắt phải là điềm lành. Núi Hội Kê Thiệu Hưng tuy không cao lớn đồ sộ nhưng lại có lăng mộ của Đại Vũ – thủy tổ vương triều đầu tiên của Trung Quốc. Tần Thủy Hoàng từng đông tuần đến núi Hội Kê, tế Đại Vũ. Ông lệnh cho Lý Tư soạn văn tế bằng chữ triện rồi khắc lên đá. Tần Bắc Dương ngồi trong khoang treo của khí cầu, bám vào kính nhìn xuống. Không biết bên dưới đỉnh núi ngập sắc thu có chôn bảo vật gì? Nhưng cha từng kể, trong lịch sử gia tộc, tộc thợ mộ chỉ từ đời Thương, triều Hạ có thú trấn mộ không chỉ có quỷ mới biết. Từ khi tới Thượng Hải, Tần Bắc Dương luôn loanh quanh khu Hàng Châu, Thiệu Hưng, Ninh Ba, khổ nỗi không có cơ hội. Tối nay được bay trên trời đúng là thỏa mong nguyện. Buổi trưa trước khi xuất phát, Tề Viễn Sơn đã gọi điện cho anh em Thanh Bang ở Thiệu Hưng, lấy được nhiều đầu mối quan trọng. Đỉnh Lư Hương ở Hội Kê dễ thủ khó công, một người thủ bằng vạn người công, vì thế quan phủ cũng không thể làm gì chúng. Theo lời những tên đã bị bắt, chủ lực của bọn thổ phỉ đều nằm ở khe giữa sườn núi, đó là con đường lên núi duy nhất. Cha của Tiền Khoa bị nhốt ở chùa cổ trên đỉnh núi, phòng thủ tương đối lỏng lẻo. Vừa hay, khí cầu có đất dụng võ! Trời đã tối, họ cẩn thận điều khiển phương hướng, chầm chậm dựa sát núi Hội Kê. May mà trăng sáng, đỉnh núi vừa có mấy ánh đèn được thắp. So với máy bay ồn ào, khinh khí cầu yên lặng hơn nhiều, nên thứ đồ sộ này mới có thể giấu được trong sắc trời đêm. Khinh khí cầu vừa bay tới khu vực chùa cổ, nhưng không thể đáp xuống nhẹ nhàng, nếu không khó có thể bay tiếp được. Khí cầu tạm thời lơ lửng trên không, Tề Viễn Sơn thả một chiếc thang dây từ trên khoang treo, cẩn thận trèo xuống. Tiếp sau đó là Tần Bắc Dương và Tiền Khoa cùng đáp xuống. Họ lấy dây cố định khinh khí cầu lại, để tránh bị gió thổi bay. Kỹ sư người Mỹ vẫn trên khoang chờ lệnh, giữ khoảng lơ lửng thấp nhất với mặt đất. Đỉnh Lư Hương hơi lạnh do vào mùa thu đông, chùa cổ hoang toàn như không có người sống. Tề Viễn Sơn vào một gian phòng, dù không có người nhưng đầy nồi niêu xoong chảo dưới đất, có mấy món đồ nhìn như bảo bối của núi “Đạt Ma trên biển”. Cậu nói nhỏ: “Bắc Dương, có món đồ cậu thích này” Cúi xuống nhìn, Tần Bắc Dương dùng góc áo dính nước bọt lau qua, lớp men đục sáng lờ mờ, phủ đầy hoa văn không theo quy luật, màu nâu sậm lớn, màu nâu vàng nhỏ, đường nhỏ màu vàng, hoa mai màu mực, vân gân lá, cảnh văn võ… đây chính là gốm Ca Diêu Nam Tống thần bí. Cha từng nói, trong địa cung của Thái hậu Từ Hy có bồi táng món đồ gốm này. Gốm Ca Diêu trước mắt này quy cách cực cao, không giống đồ trong dân gian, chỉ có thể lấy trong lăng mộ. Tần Bắc Dương suy nghĩ hồi lâu, Hoàng lăng Bắc Tống ở Hà Nam, Nam Tống ở Thiệu Hưng gần Lâm An. Sau triều Tống, Dương Liễn Chân Già – tăng nhân Tây Hạ, tổng nhiếp Phật giáo Giang Nam triều Nguyên đã đào sau Hoàng lăng ở Thiệu Hưng lên. Hắn mở quan tài của Tống Lý Tông, phát hiện xác Hoàng đế vẫn đẹp đẽ chưa phân hủy. Tên trộm mộ treo ngược xác, khều lấy dạ minh châu trong miệng, lấy được vô số báu vật rồi ném xác đế vương phơi thây chốn hoang dã. Tàn ác nhất là sọ của Tống Lý Tông bị hắn làm cốc uống rượu, làm một cái tháp trắng trong Cố Cung Lâm An, để áp chế nhân dân Giang Nam. Nhưng, Tần Bắc Dương không hứng thú với điều này, mà phát hiện ra một quyển sách mỏng. Lật ra xem mới thấy chính là “Thuần Hy kỳ phổ” dạy chơi cờ vây. Thời gian điêu khắc ấn bản là “Năm mười hai Đại Tống Thuần Hy”, quả nhiên sách thời Tống vô cùng quý giá, cậu bất giác ôm vào trong lòng. Ba người đi tiếp, phát hiện bên trong có một bảo điện rộng lớn còn đang sáng đèn. Bên trong vang lên tiếng va chạm lách cách… “Trung đỏ!” “Tam điều!” “Chặn đầu hoa nở!” Tiền Khoa khe khẽ chọc thủng một lỗ trên cửa sổ giấy, nhìn thấy có bốn người đàn ông vừa uống rượu vàng vừa chơi mạt chược. Trong góc bảo điện đó, cha của Tiền Khoa bị trói chặt, nhét giẻ vào miệng. Tiền Khoa ra hiệu tay xác nhận với Tề Viễn Sơn. “Không được cử động!” Tề Viễn Sơn đá cửa phòng, cậu và Tần Bắc Dương mỗi người một khẩu súng, ngắm vào bốn tên thổ phỉ. Bọn chúng đều là những binh lính già yếu tàn tật, lại thêm thức trắng đêm đánh bạc, hút thuốc phiện. Giờ đây chúng chẳng còn sức mà phản kháng, bị sợ tới mức há hốc mồm miệng. Tiền Khoa vội vàng giải cứu cha, phát hiện bên cạnh còn có một cô gái bị trói. Tiền Khoa tranh thủ thời gian đưa cha lên nóc nhà, quăng vào khoang treo của khí cầu. Kỹ sư nói gió không thuận lợi, nếu bay sẽ gặp nguy hiểm, phải chờ thêm. Cô bé còn lại chừng mười bốn – mười lăm tuổi, tết đuôi sam dày sau gáy, cơ thể gầy gò như mèo con, khuôn mặt trắng nhợt, chỉ có đôi mắt đen láy như bên trong lăng mộ đang nhìn Tần Bắc Dương. Trong khoảng khắc khiến người ta có cảm giác như cô cũng vừa bị đào ra từ trong Hoàng lăng Nam Tống. Tần Bắc Dương cởi dây trói, nhìn khuôn mặt cô thật cẩn thận, cảm thấy hơi quen mắt. Trong đôi mắt cô có một cảm giác âm u khiến người ta khó tới gần, một đoạn nhạc thiếu nhi bi thương kì lạ bỗng như phát lại trong đầu Tần Bắc Dương: “Đầu thanh long, đuôi bạch long, em nhỏ cầu mưa trời hoan hỉ. Lúa mì, lúa mì đã khô vàng, gọi Long vương dậy nào dậy nào. Mưa lớn mưa nhỏ, mưa từ mùng một đến mười tám. Ma-ha-tát…” Ký ức trào dâng, mật thất dưới lòng đất ở Tây lăng triều Thanh cũ tám năm trước, cô bé mà Tần Bắc Dương đã cứu khỏi tay tên thái giám. “A U?” Tần Bắc Dương gọi tên cô. “Anh!” A U giơ cánh tay bị trói đến cảm tưởng như sắp gãy, chạm vào môi và mũi của cậu, “Anh là anh Bắc Dương?” Viên Thế Khải xưng đế hôm trước, họ gặp nhau tại tòa án ở Bắc Kinh hôm sau. A U vì chống lại việc bị chủ nhân cưỡng hiếp mà ra tay giết người. Tòa án phán cô vì tự vệ nên được thả, nhưng bị tiểu Quận vương Ngạc Nhĩ Đa Tư Đa La người Mông Cổ đưa đi vì kế thừa di sản của chủ nhân. Chớp mắt hai năm trôi qua, họ đều lớn thêm rồi, Tần Bắc Dương trở nên tráng kiện, A U đã là thiếu nữ e ấp như nụ hoa sắp nở. “Người cũ gặp lại! Các cậu hàn huyên đi, tôi ra cửa sân chùa canh cho” Tề Viễn Sơn thấu hiểu lòng người, cầm súng ra ngoài. Tần Bắc Dương ở lại trong bảo điện, cậu chưa kịp hỏi han A U mà tra hỏi ngắn gọn bốn tên thổ phỉ trước. Hóa ra kế hoạch của chúng là đêm nay sẽ giết con tin. Phòng vệ đỉnh núi lỏng lẻo như thế là vì chẳng ai nghĩ cứu viện sẽ rơi từ trên trời xuống. Ở Thượng Hải năm tháng, Tần Bắc Dương học được một chút phương ngữ Ngô Việt của đám môi giới người ở núi Đạt Ma trên biển, cậu lắp bắp: “Các món đồ cổ ở trong phòng kia là lấy ở đâu?” “Đào…” “Đào mộ?” Đám thổ phỉ trố mắt nhìn nhau rồi thừa nhận. Chúng không chỉ ức hiếp người sống mà còn ức hiếp người chết, kiêm chân đào mộ kiếm lời, đào được những món đồ thừa trong Hoàng lăng Nam Tống. Nhưng ngôi mộ đó bị đào nhiều lần nên chẳng còn mấy bảo vật bên trong. Bên ngoài cửa chợt vang lên một loạt tiếng súng. Tần Bắc Dương trói lũ thổ phỉ lại, bảo A U trốn ở dưới mái hiên đừng cử động. Cậu ra ngoài giúp Tề Viễn Sơn. Thì ra là người của đám thổ phỉ ở sườn núi phát hiện ra trên đỉnh có thêm một quả trứng hình bầu dục cực lớn nên lên núi xem tình hình. Nhìn thấy đám thổ phỉ ngày càng đông, đạn sượt qua gò má hai người họ. Trên nóc nhà vang lên tiếng gọi của Tiền Khoa: “Khí cầu chuẩn bị xong rồi, chúng ta mau đi thôi!” Hai người họ vừa nổ súng vừa trèo lên khí cầu. Tần Bắc Dương bảo A U trèo lên thang dây trước, cơ thể cô gái mười bốn tuổi nhẹ như yến, vèo cái đã trèo lên khoang treo. Tề Viễn Sơn trèo lên sau đó, người lên cuối cùng là Tần Bắc Dương, cậu đã dùng hết chỗ đạn. Kỹ sư người Mỹ nhổ neo. Đúng lúc gió lên, khí cầu chầm chậm rời khỏi đỉnh núi Hội Kê. Tiền Khoa mở mái chèo xoắn ốc để khí cầu đi nhanh hơn. Ở dưới là những tiếng súng bắn không tới liên tiếp của đám thổ phỉ. Kỹ sư cảnh báo, túi khí của khí cầu mà bị trúng đạn sẽ dễ dẫn tới nổ khí hydro nguy hiểm. Khoang treo cũng bị trúng mấy phát đạn, may là gió lại lên, khí cầu bay lên tận mây xanh, qua khỏi tầm bắn của đạn. Trong khoang treo, cha con họ Tiền cúi người cảm ơn Tần Bắc Dương và Tề Viễn Sơn. Đúng là quá chật, mấy người họ như bị trói lại với nhau, xương cốt ai nấy đều đau. Kỹ sư người Mỹ nói đêm đến không thể phân biệt được địa hình, không thể quay về Thượng Hải. Giờ họ phải lập tức tìm chỗ đỗ, mà cả một vùng đồng bằng mênh mông tối đen, chỉ có duy nhất phủ Thiệu Hưng sáng đèn. A U im lặng không lên tiếng, khí cầu này làm cô run rẩy. Tần Bắc Dương suốt dọc đường đều dùng khuỷu tay bảo vệ cô. Khí cầu đi qua tường thành xưa cũ làm cho người dân trong thành kinh ngạc, vô số người khều đèn lồng để xem. Kỹ sư và Tiền Khoa cùng điều khiển, tìm một bãi đất trống. Họ từ từ hạ xuống giáo trường đằng sau phủ nha, bốn bề đều có đèn chỉ dẫn. Tề Viễn Sơn là người nhảy xuống đầu tiên, đi tìm anh em Thanh Bang ở Thiệu Hưng, thông báo quan phủ bảo vệ khí cầu. Thanh Bang sắp xếp cho họ ở Khoái viên trong thành. Dù ở đó hơi đổ nát nhưng lại là nơi mà Trương Đại ở lúc tuổi già, nổi tiếng có “Khoái viên đạo cổ”, mỗi tác phẩm đều rất ít chữ. Hay như “Thế thuyết tân ngữ”, ghi chép uyên bác, lời văn khôi hài. Anh em Thanh Bang ở bản địa đều là người lái thuyền ô bồng, mở vò nữ nhi hồng năm xưa, thiết đãi an ủi. Những nhân vật nổi tiếng của văn học Trung Quốc cận đại như: Thu Cẩn, Từ Tích Lân, Thái Nguyên Bồi, Tương Mộng Lân, ba anh em họ Chu cũng đều xuất thân từ thành này. Nam nữ tính tình đều nhiệt tình, Giang Nam trong mộng vẫn có thể phóng dao, thật như rượu này, như con cua này, như các hảo hán lái thuyền này… Tần Bắc Dương lần đầu nếm thử cua đồng, không tránh hỏi say rượu do tác dụng chậm của rượu Hoa Điêu. Cậu say đến mức mơ hồ, đúng là anh hùng hoi. Khi trời sắp sáng, rượu cũng đã tỉnh. Tần Bắc Dương mở cửa sổ, nhìn núi trong sắc trời thu. Thời cổ đại, Lục Du, Vương Dương Minh, Từ Văn Trường và Trương Đại đều bị ánh trăng thế này chiếu đây. Trước cửa sổ xuất hiện bóng một con dã thú, đằng sau còn kéo theo cái đuôi sam. Do chưa tỉnh hết rượu, cậu còn tưởng là Cửu Sắc. Tần Bắc Dương nhảy ra ngoài mới phát hiện là cô bé mười bốn tuổi. “A U sao em không ngủ?” Tần Bắc Dương cởi áo ngoài khoác lên vai cô. Hai người cùng ngồi xuống bậc thang, nhìn ánh trăng trên ngói đen của bức tường quét vôi trắng. “Anh, anh không hỏi em vì sao từ biệt ở Bắc Kinh. Hai năm không gặp, em lại ở trong hang ổ thổ phỉ trên núi?” “Anh muốn em nghỉ ngơi xong rồi nói sau” Thực ra, Tần Bắc Dương không tiện hỏi, cậu đã không còn là trẻ con nữa, cậu cũng từng nghe một vài chuyện nam nữ. Cô nương mười bốn tuổi bị trói trong hang ổ thổ phỉ, chẳng may xảy ra chuyện gì, hỏi lại khác nào chọc vào nỗi đau của người khác? Tính tình A U cương liệt, năm đó vì bảo vệ sự trong sạch mà đâm chết tên chủ nhân có ý đồ gian dâm với mình. Lần này lại muốn tự sát thì phải làm sao? “Anh, em biết anh đang nghĩ gì. Nhưng em vẫn còn trong sạch, không tin anh có thể kiểm tra” A U dựa đầu vào vai cậu, hơi thở như hoa lan, đuôi sam dày lớn cũng rủ xuống vai cậu. “Em nghĩ gì thế? Anh…” Tần Bắc Dương vội vàng lùi xa, nhất thời lắp bắp: “Em gái, anh mừng cho em! Thật lòng đó!” “Anh Bắc Dương, còn nhớ mùa đông hai năm trước ở trước cửa tòa án Bắc Kinh, em bị tiểu Quận vương Ngạc Nhĩ Đa Tư Đa La đưa đi, chào từ biệt anh trên lưng lạc đà không? “Cả đời anh cũng không thể quên!” “Em đi theo đoàn lạc đà của tiểu Quận vương vượt núi băng đèo qua Trường Thành, đi qua thảo nguyên hoang tàn đầy tuyết, ngồi bè da dê qua sông Hoàng Hà. Ngày đầu tiên đến Ngạc Nhĩ Đa Tư, vừa hay đụng phải bọn phản loạn, hình như các Vương tử khác muốn tranh vương vị, rất nhiều kỵ sĩ Mông Cổ đến tấn công Vương phủ. Tiểu Quận vương cưỡi ngựa bỏ chạy, lão Vương gia rơi vào tay bọn chúng, trong Vương phủ chất đầy xác chết. Nghe nói có quân Bắc Dương đóng ở Du Lâm tới ứng cứu, phản quân lúc bỏ chạy đưa em theo” “A U, lần đầu tiên anh nghe em nói cả đoạn dài thế” Tần Bắc Dương phát hiện cô hơi văn vẻ, giọng Hà Nam đã đổi thành giọng Quan Thoại kèm theo mấy câu Thiệu Hưng, trước đây xưng “iem” giờ đã chuyển thành “Em”. “Hai năm nay, em vào Nam ra Bắc, không thể không học cách giao tiếp với mọi người, em còn học chữ. Không những viết được hai chữ “A U” mà còn viết được ba chữ “Tần Bắc Dương”. Rất nhiều đêm, em ngồi một mình dưới trăng, dùng cành cây viết lên cát tên của anh. Em tin, sẽ có ngày anh xuất hiện trước mặt em” “Hóa ra đây chính là ngày định mệnh. A U, sau đó thì sao?” Cô bé nói: “Phản quân muốn chạy trốn khỏi Mông Cổ, em tranh thủ lúc chúng canh giữ lỏng lẻo liền bỏ trốn. Em không phân biệt được phương hướng trên thảo nguyên, cũng không biết Ngạc Nhĩ Đa Tư đi thế nào. Em đi nhiều ngày trên thảo nguyên, lúc sắp đói chết thì được dân du mục cứu. Bà già người Mông Cổ còn nuôi em mấy tháng, cuối cùng giao em cho đội thương nhân Sơn Tây vừa trốn thoát khỏi. Cứ thế, em quay về trong nước, đầu tiên là Sơn Tây, sau đó là quê hương Hà Nam. Sau này em theo một nhóm lưu lạc xin cơm tên là Hoa Tử, mùa đông suýt nữa bị đói chết, mùa hè suýt nữa lại bệnh chết. Nhưng có vẻ như mạng em lớn nhất, người cứ lần lượt chết, hoặc bị ném xuống sông, hoặc bị chó hoang ăn. Chỉ có em còn sống, đi xuyên qua Trung Quốc theo hướng Bắc Nam” ___________ Chú thích: (1) Bài thơ “Lậu thất minh” của Lưu Vũ Tích. Bản dịch của Cự Minh Sơn – thiviennet.