Chương 18 Mouline Rouge
Là người nước nào chả được! Cậu tiếp tục đuổi theo. Thích khách chạy nhanh, nhảy vào một tòa nhà rực rỡ màu sắc, nóc nhà có một chiếc cối xay gió. Người gác cổng định cản thì bị đấm lăn ra đấtBên trong là một hộp đêm, trên sân khấu có mười mấy cô gái xinh đẹp ăn mặc hở hang, nhảy trên nền nhạc vui vẻ. Từng bắp đùi giơ lên cao, hình ảnh dưới lớp váy lộ ra, những âm thanh hò hét vỗ tay vang lên không ngớt. Cậu xông vào hộp đêm Moulin Rouge nổi tiếng của Paris, giữa điệu nhảy Cancan. Thích khách chạy qua đám người, nhảy vào giữa đám gái nhảy đang nhún người, giậm giơ chân xoay tròn. Trước mắt bao người, Tần Bắc Dương cũng đuổi lên sân khấu, đẩy những cô gái trát phấn dày đặc mà lòng hốt hoảng, mặt đỏ bừng. Âm nhạc không dừng lại, thích khách chạy vào hậu trường khiến cho những cô gái đang thay đồ, tháo trang sức phía sau thét lên chói tai. Tần Bắc Dương cố gắng không nhìn ngang ngó dọc. Trong căn phòng lộn xộn hỗn loạn, cậu đã chặn được thích khách lại. Đường đao đập lên nền xi măng, phát ra tia lửa. Người kia vẫn chưa sợ, còn cười phá lên rất đáng sợ, cứ như hắn mới là thợ săn còn Tần Bắc Dương là con mồi. Lại là một cái bẫy? Tần Bắc Dương đã từng rơi vào bẫy rất nhiều lần nên nhạy cảm nhận ra vấn đề. Cậu chưa kịp lui lại thì sau lưng lại xuất hiện bốn bóng người. Phòng hóa trang có hơn mười cái gương, mỗi gương chiếu vào nhau, phải xuất hiện mấy chục gương mặt người. Một người khôi ngô, cao to sừng sững như núi đứng chặn cửa, mặc đồ của dân hạ lưu Paris, nhìn như một công nhân sắt thép với gương mặt châu Á trẻ tuổi. Hắn là thích khách, tên Thoát Hoan. Người thứ hai là một ông già châu Á, có chòm ria mép đen nhưng trắng ở giữa, mặc đồ tây, tay cầm trượng, nhìn như một thân sĩ già. Thích khách cũng gọi lão là “Lão Cha” Mười năm trước, ở Tô giới Đức – Thiên Tân, Tần Bắc Dương đã tận mắt thấy gương mặt này giết chết cha nuôi mình Người thứ ba thì không cần nói, chính là thích khách A Hải. Nửa tháng trước, hắn đã đối mặt với Tần Bắc Dương ở New York. Nhìn vết sẹo vằn vện trên mặt hắn, Tần Bắc Dương muốn thực hiện lời thề của mình – giết chết con người này, báo thù cho cha mẹ. Người thứ tư, Tần Bắc Dương không muốn nhìn mặt, hoặc có lẽ là nhìn sẽ đau lòng. Em gái A U. Gương mặt này xuất hiện trong mười mấy tấm gương phản chiếu, từ bốn phương tám hướng quanh Tần Bắc Dương. Đôi mắt đen thăm thẳm ấy dường như chưa bao giờ thay đổi từ hồi ở dưới lòng đất, nơi lăng mộ của Hoàng đế Quang Tự. Chỉ khác là khi đó A U còn nhỏ, giờ đã thành thiếu nữ trưởng thành yêu kiều duyên dáng, còn mặc trang phục con gái Trung Hoa, nhìn hệt như bé gái con nhà nghèo đầu đường xó chợ Bắc Kinh, không hợp với Paris chút nào. Lần cuối họ gặp nhau rồi chia cách là Đại Cô Khẩu ở Thiên Tân. Cậu phát hiện ra cô là kẻ cầm đầu bọn thích khách, cô lại giải nguy cho cậu. Cô là ai? Bình minh Paris, trên đồi Monmartre, phòng hóa trang hậu trường Moulin Rouge, Tần Bắc Dương đối mặt với những tên thích khách lợi hại nhất thiên hạ. Cậu đơn thương độc mã, chắc chắn không phải đối thủ của họ. “A U, em đến Paris làm gì thế?” Tần Bắc Dương đưa Đường đao ngang người, lớn tiếng chất vấn chủ nhân của đám thích khách. “Anh, em đến cứu anh” A U mười sáu tuổi rồi, dậy thì với nét đẹp thanh xuân vô hạn, giọng nói nhẹ nhàng như tiếng mèo con. “Anh không cần em cứu. Anh không cần ai cứu hết” “Anh không biết giờ anh gặp nguy hiểm đến mức nào đâu” Tần Bắc Dương sờ lồng ngực nóng hổi của mình, nơi lá phổi đang nóng hừng hực, “Anh biết, anh sắp chết rồi” A U dường như còn đau lòng hơn, “Anh, xin anh đừng đuổi nữa” “Thế anh chết đã!” Nghe câu trả lời, A Hải bên người A U vung tay, một đám khói vàng bốc lên bao phủ toàn bộ phòng hóa trang. Tần Bắc Dương không nhìn thấy gì, chỉ đành lui vào góc, giơ Đường đao tự vệ. Khói tan hết, thích khách không còn tăm hơi. Tần Bắc Dương không buông tha, lao ra cổng sau của Moulin Rouge. Dưới ánh đèn đỏ mờ, một người châu Á đứng phía bên kia đường. Người đó nhìn có vẻ rất trẻ, ngậm điếu thuốc lá, bọn họ bốn mắt nhìn nhau. Khi Tần Bắc Dương còn đi học ở Nhật Bản, cậu đã gặp rất nhiều người Triều Tiên, biết bọn họ có ngoại hình đặc thù. Về người kia, cậu khẳng định tám chín phần là gốc Triều Tiên. Thích khách luôn xuất hiện cùng thích khách. Người Đông Dương trốn ở Moulin Rouge, đám A U ở đây, hẳn không phải chuyện tình cờ. Chính là kẻ này! Tần Bắc Dương xông qua phố, khi sắp bắt được đối phương thì chân sập bẫy… Ba giờ sáng, Paris, đồi Monmartre. Cậu rơi vào vực sâu không đáy, hình như là mộ phần nhưng lại giống địa ngục. Tần Bắc Dương mê man một lúc. Con chuột chạy qua người, tiếng nước chảy róc rách mang theo mùi xác chết phân hủy. Cậu thức giấc, phát hiện ra xung quanh toàn là tường, đằng trước có song sắt, không biết có từ bao giờ. Cậu bị nhốt. Đường đao ba thước đâu? Tần Bắc Dương sờ soạng mãi, chết tiệt, chẳng nhẽ bị tên Triều Tiên lấy mất rồi? Cậu hít sâu, ngồi sau lan can suy nghĩ. Tối nay đã xảy ra nhiều chuyện như vậy, mình đến đây làm gì? Với cậu, cậu đến cứu Hikari. Cậu linh cảm rằng Hikari đang ở gần đây. Nếu có Cửu Sắc thì tốt rồi! Nó có thể biến thân trong đêm, trở thành thú trấn mộ ấu kỳ lân, phun cầu lửa lưu ly, thiêu cháy những tên đáng chết kia, còn dùng sừng hươu trắng đêm thủng bụng chúng. Khi ấy, đống song sắt này không thể ngăn cản họ. Cậu bắt đầu nhớ con thú trấn mộ trên tháp nhà thờ Đức Bà Paris không gì bằng. Tiến sỹ Karl Hofertein đã chụp X-quang cho nó, nói rằng Cửu Sắc là một thể sinh mạng cổ xưa. Nếu là vật sống, ắt phải đến lúc chết! Dù nó có sống 1200 năm đi nữa, thì cũng như “Quy tuy thọ” của Tào Tháo: “Thọ như rùa thiêng/Cũng có lúc chết”(1). Nó bị thương, rồi sẽ chết. Chỉ có tảng đá thật sự mới tồn tại thiên trường địa cửu. Nếu Cửu Sắc chết… Tần Bắc Dương không dám nghĩ tiếp nữa. Cậu đã coi thú trấn mộ nhỏ này như bạn bè, thậm chí là anh em, tựa như việc kết nghĩa vườn đào của Lưu Quan Trương trong “Tam Quốc Diễn Nghĩa” – không cầu sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm, chỉ cầu chết cùng năm cùng tháng cùng ngày. Cậu đấu vào song sắt. Một chiếc đèn bão sáng lên, cậu thấy gương mặt người Triều Tiên bị bỏng. “Hikari trong tay ngươi?” Tần Bắc Dương nói bằng tiếng Nhật. Cậu đoán nhiều khả năng đối phương biết tiếng Nhật. “Hikari? Ngươi nói cô bé kia? Nó còn sống,” Người Triều Tiên nói tiếng Nhật không tốt như Tần Bắc Dương, “Đồng bọn của tôi còn sống không?” “Tôi không phải người Nhật,” Tần Bắc Dương nắm song sắt, “Tôi là người Trung Quốc” Cậu lặp lại bằng tiếng Trung. “Ngươi biết nói tiếng Nhật?” “Tôi tên Tần Bắc Dương, từng học trường Đại học số 3 Kyoto. Tôi chỉ đến tìm Hikari, cô bé là… em tôi” “Ngươi chính là người anh con bé hay nhắc?” Tần Bắc Dương khấp khởi trong lòng, “Đúng, con bé biết tôi sẽ đến cứu con bé” “Nhưng ngươi đến đây ắt hẳn biết cũng nhiều, phải chết thôi” Người Triều Tiên giơ súng lên, nói tiếng Triều Tiên, sau lại nói tiếng Nhật, “Đại Hàn độc lập vạn tuế!” Đối mặt với nòng súng, tựa như viên đạn chuẩn bị bắn ra xoáy thẳng vào giữa trán… “Chờ chút! Từ xưa, Trung Quốc và Triều Tiên có mối quan hệ gắn bó. Năm Giáp Ngọ, Trung Quốc và Nhật Bản đại chiến, hạm đội Bắc Dương bị tiêu diệt hoàn toàn, còn bị cắt mất Đài Loan. Ông ngoại của tôi đã chết trận ở đảo Lưu Công. Bây giờ, thực dân Nhật chiếm đóng Triều Tiên, đưa quân vào ba tỉnh Đông Bắc, còn tiếp nhận quyền lực của người Đức ở Sơn Đông, muốn biến Trung Quốc thành một Triều Tiên tiếp theo. Chúng tôi ủng hộ Triều Tiên độc lập bằng cách bảo vệ độc lập của Trung Quốc” Thích khách Triều Tiên ngừng tay, có vẻ xúc động, “Mấy tháng trước, Hoàng đế bệ hạ Đế quốc Đại Hàn qua đời. Bệ hạ từng phái mật sứ đi Hội nghị Hòa bình Quốc tế Den Haag(2), với hy vọng các cường quốc sẽ ngăn cản Nhật Bản xâm lược Triều Tiên. Năm nay, có tin đồn Hoàng đế bệ hạ lại phái mật sứ đi Paris, vì vậy bị người Nhật hạ độc chết. Ngày 1 tháng 3, học sinh Triều Tiên tụ tập ở Kinh thành tuyên bố Tuyên ngôn Độc lập, bạo động toàn quốc kháng Nhật diễn ra khắp nơi, hàng ngàn vạn dân chúng bị sát hại…” “Vì thế, mọi người đến Paris ám sát đoàn đại biểu Nhật Bản?” ___________ Chú thích: (1) Trích Bộ xuất Hạ Môn hành kỳ 5 – Quy tuy thọ của Tào Tháo. Bản dịch: Vũ Bội Hoàng (Nguồn: thiviennet) (2) Hội nghị Hòa bình Quốc tế Den Haag diễn ra lần đầu năm 1899, lần hai năm 1907. Các thỏa thuận đạt được trong hội nghị này thường được gọi ở Việt Nam dưới cái tên “Công ước La Hay”. Dựa vào mốc thời gian, có lẽ thích khách nhắc đến Hội nghị lần 1. Còn lần “năm nay” chính là lần 2, diễn ra năm 1907, khi Hoàng đế Cao Tông (Kojong) qua đời. Ông còn được gọi là Quang Vũ đế.