← Quay lại trang sách

Chương 91-2 Lời nguyền của Inka

Không biết bao lâu sau, gió cát cuối cùng đã dừng lại, Lý Hưng Thịnh tưởng rằng mình đã chết rồiAnh ta mở mắt trong ánh nắng ban mai. Có người dắt lạc đà, đó là một thiếu nữ mặc váy đỏ, mái tóc đen buông sau gáy. Cánh tay cầm dây cương của cô ta phản chiếu màu vàng dưới ánh nắng. Giống như một giấc mộng, hoặc là ảo ảnh. Cô ta quay đầu lại, để lộ ra khuôn mặt của mỹ nhân Ba Tư, chính là thiên ngoại phi tiên mà họ đã thấy trong ảo ảnh mấy ngày trước. Lý Hưng Thịnh suýt thì ngã từ trên lưng lạc đà xuống. Lúc này anh ta mới phát hiện ra cả đội thám hiểm khảo cổ đã không thấy đâu nữa. Sven Hedin, Giáo sư Vương Gia Duy, còn cả tiểu Quận vương quần là áo lượt, họ đều bị sa mạc nuốt chửng rồi sao? Mà mình là người duy nhất còn may mắn sống sót? Một thân một mình, hoàn toàn không biết phương hướng? Đây là kinh vĩ độ nào? Hay là một thứ nguyên khác? “Cậu tỉnh rồi” Thiếu nữ lại còn biết nói tiếng Hán, khẩu âm Tây Bắc đặc sệt. Nhưng lời từ miệng cô ta thốt ra không hề có sự thô kệch của người Tây Bắc, mà lại dịu dàng và trong trẻo. Cô ta dắt lạc đà đi, cô ta khỏe mạnh, tự nhiên, chỉ có vùng đồng hoang ít dấu vết con người như thế này mới sinh ra được người con gái như vậy. Một mảng màu xanh dâng lên trong sa mạc, cả một rừng hồ dương, hồng liễu và bụi lau sậy tươi tốt, mặt nước mênh mông không thấy bờ. Nước. Thậm chí có cả các loài chim sống dưới nước, từ mặt nước mùa đông bay qua, gợn lên từng đợt sóng lăn tăn, tựa như thiên đường trong mộng, vườn Địa đàng của kỷ Sáng thế – chính là hồ La Bố trong truyền thuyết, hồ trong đất liền mà hai mươi năm trước Sven Hedin đã phát hiện. Lạc đà bước đến bên mép nước, cúi người uống từng ngụm nước lớn. Thiếu nữ đỡ Lý Hưng Thịnh xuống, lấy một túi nước đầy. Anh ta ngửa cổ lên uống sạch, đây đích thực là nước suối mát lạnh, ngon lành, nó theo đường cổ họng và thực quản xuyên suốt toàn thân, khiến anh ta từ một cái rễ cây sắp khô cằn lại đâm chồi nảy lộc trở lại. Cuối cùng anh ta cũng có thể cất tiếng nói: “Cô tên là gì?” “Inka” Khóe miệng cô ta hơi cong lên, không biết chữ Hán viết thế nào nhỉ? Có lẽ vốn không thể viết bằng chữ Hán, Lý Hưng Thịnh nghĩ đến người Inca cổ xưa của châu Mỹ, vừa hay vô cùng thích hợp với La Bố Bạc và nước Lâu Lan cổ này. Trên bờ có một con thuyền độc mộc, thật không thể tưởng tượng nổi, một con thuyền độc mộc trong sa mạc. Inka ra hiệu bằng tay, anh ta không thể kháng cự lại mà ngồi lên mũi thuyền. Thiếu nữ nắm lấy hai mái chèo rồi bắt đầu chèo, một đợt sóng nổi lên, như chiếc gương bị đánh vỡ vậy. Lý Hưng Thịnh đã từng tham gia đội đua thuyền lúc còn ở Đại học Cambridge, thắng trong trận thi đấu giữa Oxford và Cambridge. Anh ta nhận lấy mái chèo từ tay Inka, quay lưng lại với hướng tiến lên, dùng cách chèo trong đua thuyền. Tốc độ của anh ta rất nhanh, thiếu nữ chống cằm, thích thú nhìn anh ta, giống như đang nhìn một đứa bé chơi đùa. Đến ốc đảo nhỏ giữa La Bố Bạc, có mấy chục căn nhà làm từ bùn đất, lau sậy và gỗ hồ dương. Tướng mạo của các thôn dân đều là con lai. Mọi người bưng ra đại tiệc cá nướng thịnh soạn, Lý Hưng Thịnh chết đói ăn ngấu nghiến, không ngờ cá trong sa mạc lại ngon đến vậy. Nhưng Inka thì không có người thân, một mình cô ta ở trong căn nhà gỗ nhỏ. Đêm nay, ánh trăng sa mạc rất đẹp, Lý Hưng Thịnh ở lại trong căn nhà lá bên hồ. Anh ta nghĩ, cách hai mươi năm, Sven Hedin trở lại chốn cũ, nhưng lại phát hiện La Bố Bạc đã tự nhiên biến mất, có lẽ không phải vì lý do “hồ dịch chuyển”, mà là tồn tại một loại khí trường đặc biệt nào đó, từ đó khiến máy móc mất tác dụng, thậm chí khiến trí nhớ bị sai lệch… Ven bờ buổi sáng sớm, người La Bố chèo thuyền độc mộc, thả lưới, thu hoạch lương thực cho một ngày. Thiếu nữ Inka Mirage cũng chèo thuyền độc mộc xuống sông. Lý Hưng Thịnh cũng nhảy xuống thuyền giúp cô chèo thuyền bắt cá. Gió rét thổi nhẹ qua, mặt nước lăn tăn sóng. Cỏ lau đung đưa trong gió, thổi qua vạt váy cô, khiến gương mặt thiếu nữ đỏ ửng. Lý Hưng Thịnh ngại ngùng nói, “Cảm ơn cô đã cứu mạng tôi” Cô cười ha ha, nói người Hán không hiểu người sống trong sa mạc. Người La Bố không đông, chỉ có khoảng trăm miệng ăn, thỉnh thoảng gặp người lạ cũng là điều may mắn với họ. “Đây là nơi thế ngoại đào nguyên?” Cô gái vẫn lắc đầu. Đối với người La Bố, nơi này là quê hương đời đời kiếp kiếp. Bỗng nhiên, Lý Hưng Thịnh đứng lên trên thuyền hỏi, “Ở đây bơi được không?” “Không” Cô kéo Lý Hưng Thịnh lại, mái chèo khua trong hồ nước dường như sâu không lường được, ánh mắt bí hiểm, “Anh muốn bị rồng thần ăn à?” Từ xưa đến nay, đầm Bạc La Bố thường có rồng thần lui tới. Rồng thần này thấy đàu không thấy đuôi, uy lực vô cùng vô tận, buồn vui thất thường, thường gây hồng thủy ngập trời, ngập cả thành thị đồng ruộng Lâu Lan, còn nuốt cả người trên bờ. Hai nghìn năm trước, họ có đàn tế rồng thần Lâu Lan. Mùa đông hàng năm, họ hiến tế một cặp đồng nam đông nữ, khẩn cầu rồng thần đừng làm hại địa phương. Về sau, rồng thần dần không phá nữa, không còn lui tới. Có người nói rồng thần đã chết trên cạn của đầm Bạc, có người nói thần rồng di chuyển đến ngọn tháp sông Mộc, thậm chí là ở núi ngoài… Truyền thuyết rồng thần vĩnh viễn ở lại trong nhân gian, trong lòng con dân hậu duệ vương quốc Lâu Lan. “Cũng có người nói rằng rồng thần vẫn ở đây, có điều chúng ta không thấy. Không biết khi nào rồng thần sẽ quay lại Lâu Lan” Inka vẽ hình một cô gái tóc đen dài, tựa như long nữ người đầy vảy, “Người đó chính là tôi” “Cô thật đẹp” Lý Hưng Thịnh kiềm chế mong muốn hôn cô gái ấy. Như có rồng thần giúp họ chèo thuyền, họ nhanh chóng tới bờ bên kia. Bọn họ lên bờ, đi qua cây hồ dương và liễu đổ. Phía ngoài lùm cây là cánh đồng hoang vu mênh mông vô tận, có vai trò như một đường ranh giới ngăn cách họ với thế giới bên ngoài. Người nơi này chỉ biết chăn nuôi, đánh cá, chưa từng ra ngoài; không biết đến chiến tranh, không biết đến tàn bạo. Nếu không có sa mạc rộng lớn ngăn cản, e rằng họ đã sớm diệt vong. Ờ hồ La Bố sống mấy ngày, Lý Hưng Thịnh vốn tinh thông ngôn ngữ lại phát hiện ra tầng dưới cùng của ngôn ngữ, bảo tồn nhiều yếu tố Tocharian(1) của người Ấn – Âu cổ đại. Đây là ngôn ngữ chết vừa được giải mã trong những năm gần đây. Nó bắt nguồn từ các tài liệu cổ được tìm thấy ở Tân Cương, trong đó có công lao của học giả chuyên tiếng Hán người Pháp – Paul Pelliot. Ông ta phát hiện ra rằng một số đồ gốm trong làng có điểm tương tự như các di tích văn hóa tại tàn tích của Milan, hoặc thậm chí còn cùng có thể chữ lệ của Hán văn hoặc chữ Kharosthi, cho thấy thành phố cổ Loulan không xa đây. __________ Chú thích: (1) Ngữ tộc Tochari, còn viết là Tokhari, là một nhánh ngôn ngữ Ấn-Âu đã biến mất. Nó được biết đến nhờ những bản viết tay có niên đại từ thế kỷ VI-IX, tìm thấy trong những thành phố rìa bắc lòng chảo Tarim (ngay nay là Tân Cương, Trung Quốc). Việc phát hiện những ngôn ngữ này vào đầu thế kỷ XX gây sự mâu thuẫn với quan điểm phổ biến đương thời về sự phân chia centum–satem đông-tây của ngữ hệ Ấn-Âu, đồng thời khơi dậy một làn sóng mới trong Ấn-Âu học. Những tác giả khi đó gắn kết các ngôn ngữ Tochari với người Tokharoi của Bactria cổ đại (Tokharistan). Dù quan điểm này sau đó bị minh chứng là sai, ngữ tộc này vẫn giữ tên “Tochari” đến tận ngày nay. (Theo Wikipedia)