Chương 98-2 Tiểu nương tử ở Cam Châu (2)
Tần Bắc Dương đọc từng câu từng chữ. Năm Cảnh Hữu thứ hai là niên hiệu của thời vua Nhân Tông ở Bắc Tống. Phủ Đầm châu của Đại Tống chính là Trường Sa – Hồ Nam. Không biết vì sao vị cử nhân Triệu Hành Đức của Hồ Nam lại lưu lạc đến Sa Châu xa xôi, chính là Đôn Hoàng nàyBấm ngón tinh nhẩm tính, năm Cảnh Hữu thứ hai của Đại Tống chính là năm Hoàng đế khai quốc của Tây Hạ đi chinh phạt bốn phương. “Bên ngoài tặc yểm tập kích, đất nước nhiễu loạn, sư thầy chùa Đại Vân sẽ di chuyển kinh sách đến hang Mạc Cao, giấu vào trong vách”, đây chẳng phải nói về khởi nguồn của động tàng kinh sao? Tây Hạ xâm lược Đôn Hoàng, các nhà sư muốn bảo vệ kinh thư quý giá nên mới đem giấu vào trong hang Mạc Cao. “Long thiên bát bộ” thì mọi người đều biết, không cần giải thích. Nhưng “Tiểu nương tử Cam Châu” này là ai? Cam Châu chính là Trương Dịch – Cam Túc, trọng trấn của hành lang Hà Tây. Thời Bắc Tống, Cam Châu là vương quốc của dân tộc Hồi Hột, mất nước trong tay Tây Hạ. “Tiểu nương tử” ở thời Tống là từ chỉ cô gái còn trẻ, chưa lập gia đình. Tiểu nương tử Cam Châu có lẽ chưa chắc là người Hán, có thể là dân tộc Hồi Hột, hoặc người mang dòng máu lai. Tần Bắc Dương to gan suy đoán rằng văn nhân Triệu Hành Đức người Hồ Nam của nhà Tống nghèo túng lưu lạc trên con đường tơ lụa, tình cờ gặp được người đẹp khác quê của dân tộc Hồi Hột ở Cam Châu. Có lẽ bọn họ đã từng yêu nhau, nhưng từ xưa hồng nhan vốn bạc mệnh, tiểu nương tử Cam Châu chết trong chiến loạn khi Tây Hạ tấn công dân tộc Hồi Hột. Triệu Hành Đức mất hết can đảm, trốn chạy tới hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng, đi cùng các tăng nhân, mang hơn 50 nghìn cuốn kinh thư đi giấu, viết “Tâm Kinh” để cầu xin minh phúc cho người mến yêu. Chín trăm năm trước, trong lúc vô tình, người Hồ Nam này đã bảo vệ di sản của toàn bộ nhân loại – động tàng kinh, di thư Đôn Hoàng. Tần Bắc Dương kéo thú trấn mộ quỳ xuống, dập đầu trước “Bát Nhã Ba La Mật Tâm Kinh”, cũng dập đầu trước Triệu Hành Đức không lưu danh sử sách, cũng dập đầu trước tiểu nương tử Cam Châu xinh đẹp đã vùi thân trong cát bụi lịch sử. Người xưa đã thành nắm đất, người nay nào có khác gì? Chỉ có lịch sử và văn minh mới tồn tại vĩnh hằng. Bức thư Triệu Hành Đức gửi tiểu nương tử Cam Châu mới chính là bức thư tình đẹp nhất nhân loại từ trước đến nay. Cửu Sắc ơi Cửu Sắc, ngươi thật là biết an ủi người khác! Tần Bắc Dương cảm thấy thoải mái, cười nhạt, trả lại cuốn kinh cho lịch sử, xoay người rời khỏi động tàng kinh. Quay về hang an nghỉ của Katya, Tần Bắc Dương không có điều kiện tắm giặt thay đồ nên dùng nước lau qua gương mặt cô ta. Khi sờ đến cơ thể ốm đau nên gầy yếu, Tần Bắc Dương lại rơi lệ. Anh vốn định chọn nơi phong thủy bảo địa mai táng của Katya, nhưng lại nhớ ra trước khi chết, cô đã quy y cửa Phật, vì vậy nên hỏa táng! Tần Bắc Dương ôm Katya đứng dưới hang Mạc Cao, mua mấy bó lương sài, lặng lẽ ngâm “Tâm Kinh”: “Khi hành Bát Nhã Ba La Ngài Quán Tự Tại soi ra tột cùng Thấy ra năm uẩn đều Không Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua…” Một ngọn đuốc, thiêu rụi phàm trần. Đốt được khoảng một tiếng, Cửu Sắc vẫn ngồi nghiêm chỉnh như trở lại địa cung trấn mộ. Ngựa hãn huyết U Thần không ngừng rên rỉ. Dù sao Katya cũng cưỡi nó đã lâu, chú ngựa này cũng yêu người đẹp. Tần Bắc Dương thấy lửa giảm, bỏ thêm chút củi khô, đốt người đẹp năm nào thành nắm xương khô đen cháy. Nửa ngày trước, cô vẫn còn là người phụ nữ xinh đẹp động lòng người… Sống hay chết cũng cách nhau một sợi dây mà thôi… Tần Bắc Dương nâng đầu khớp xương còn nóng hổi, không hề sợ hãi, tựa như đang cầm cánh hoa lụi tàn, tự tay bỏ vào lọ trò cốt, chôn trong động sau lưng hang Mạc Cao. Bằng tay nghề thợ đá tổ truyền, anh khắc một bia mộ nhỏ, dùng cả tiếng Trung và tiếng Nga: Katerina Alexander Wolfe Na chi mộ Năm sinh năm mất: 1891-1920 Bình minh hôm nay, Tần Bắc Dương lặng lẽ rời khỏi hang Mạc Cao, không chào từ biệt Sven Hedin, Vương Gia Duy, Lý Hưng Thịnh và tiểu Quận vương, tránh phiền phức. Nhưng đạo sĩ Vương cứ như thần tiên không cần ngủ, đứng trên vách cao của hang Mạc Cao mà phất tay chào Tần Bắc Dương. Anh cưỡi ngựa hãn huyết, dẫn thú trấn mộ đi ngày đêm không ngơi nghỉ, xuyên qua sa mạc vắng lặng. Trời rét đệm, tuyết rơi dày, nhìn núi Kỳ Liên phía nam tuyết trắng mênh mang mà nhớ đến câu thơ của Vương Xương Linh: “Thanh Hải mây mờ che núi Tuyết Ngọc Môn xa ngắm dãy thành trơ Giáp mòn sa mạc hàng trăm trận Chưa phá Lâu Lan nguyện chẳng về”(1) Lần này anh phá thành Lâu Lan vê quê, vừa hay đi ngược con đường trong bài thơ này. Đi qua cửa thành Gia Dự quan, dọc bức vách đổ nát của Trường Thành thời Hán và Minh, Tần Bắc Dương xuyên qua hành lang Hà Tây, đi qua Túc Châu của suối Ngọc Tửu, Câm Châu của Kim Trương Dịch, Lương Châu của Ngân Võ Uy, đi quay Ô Sao Lĩnh tuyết bay đầy trời, đến cao nguyên hoàng thổ của Lũng Tây. Đêm nào Tần Bắc Dương cũng đi qua mộ cổ. Anh không chủ động đào mộ của người ta. Ở vùng Cam Túc – Thiểm Tây, hầu như mộ cổ nào cũng bị trộm ghé thăm. Anh đi vào địa cung theo lối đào của trộm, làm bạn với quan tài bị cướp sạch sẽ, qua đêm dài cùng bộ xương chủ mộ mới ức chế được tế bào ung thư trong phổi. Năm Dân quốc thứ 10, ngày 1 tháng 1 năm 1921 Công nguyên, Tần Bắc Dương đến Lan Châu ven Hoàng Hà. Đi chục nghìn dặm trên con đường tơ lụa, cuối cùng cũng thấy được nền văn minh. Một tòa nhà hình quả cầu sắt kiểu Đức nằm ngang qua mặt băng Hoàng Hà, tựa lưng vào núi Bạch Tháp, mặt hướng về tình Cam Túc, đỉnh nhọn kiểu phong cách đạo Hồi phát ra âm thanh du dương… “Con đường này dài đằng đẵng, mặc ta ngược xuôi tìm kiếm”(2) Cậu cưỡi ngựa hãn huyết U Thần băng qua cầu sắt Hoàng Hà. Tần Bắc Dương cầm Đường đao và cung tên, trong lòng thầm đọc “Ly tao”. Anh quyết tâm dẫn thú trấn mộ Cửu Sắc về nhà, trở lại đại nguyên hoàng thổ ở trong Thiểm Tây Quan, quay về địa cung an nghỉ của tiểu Hoàng tử triều Đường đã chết, trở về nơi mình sinh ra 20 năm trước – Bạch Lộc Nguyên. Đi vào trong đó, hé lộ mọi đáp án, nhìn thấu chân tướng tất cả. Tiếp tục hành tẩu. __________ Chú thích: (1) Bài thơ Tòng quân hành kỳ 4 của thi hào Vương Xương Linh. Bản dịch Trương Việt Linh. Nguồn: thiviennet (2) Bài thơ “Ly tao” của Khuất Nguyên.